Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán b...

Tài liệu Vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở việt nam hiện nay

.PDF
161
659
62

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH CHU TUẤN ANH VËN DôNG MèI QUAN HÖ GI÷A KINH TÕ Vµ §¹O §øC TRONG VIÖC N¢NG CAO Y §øC CHO C¸N Bé NGµNH Y TÕ ë VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH CHU TUẤN ANH VËN DôNG MèI QUAN HÖ GI÷A KINH TÕ Vµ §¹O §øC TRONG VIÖC N¢NG CAO Y §øC CHO C¸N Bé NGµNH Y TÕ ë VIÖT NAM HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Mã số: 62 22 03 02 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN THẾ THẮNG 2. TS. TRẦN SỸ DƯƠNG HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Chu Tuấn Anh MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 6 1.1. Những công trình lý luận chung liên quan đến quan hệ giữa kinh tế và đạo đức, vận dụng quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế 1.2. Những công trình liên quan đến thực trạng vận dụng quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế 1.3. Những công trình liên quan đến phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế trong điều kiện kinh tế thị trưởng ở nước ta hiện nay 1.4. Khái quát những nội dung đã được giải quyết trong các công trình liên quan và những vấn đề luận án cần thực hiện 30 Chương 2: VẬN DỤNG QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC NÂNG CAO Y ĐỨC CHO CÁN BỘ NGÀNH Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 34 2.1. Mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức, xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 2.2. Y đức, thực chất và tầm quan trọng phải vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở Việt Nam hiện nay 6 19 26 34 48 Chương 3: VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC NÂNG CAO Y ĐỨC CHO CÁN BỘ NGÀNH Y TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 73 3.1. Thực trạng vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở nước ta hiện nay và nguyên nhân 3.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức nhằm nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở Việt Nam hiện nay 107 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC NÂNG CAO Y ĐỨC CHO CÁN BỘ NGÀNH Y Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 116 4.1. Phương hướng vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở Việt Nam hiện nay 4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở nước ta hiện nay KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Đà CÔNG BỐ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73 116 122 143 145 146 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội bao gồm toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, v.v.. và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Trong mọi thời đại, đạo đức lúc nào cũng là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Một nét đặc trưng cơ bản của ý thức đạo đức là sự quan tâm một cách tự nguyện, tự giác đến hạnh phúc của người khác, của xã hội trong đó có hạnh phúc của cả chính mình. Trong các chức năng của đạo đức thì chức năng giáo dục, tự giáo dục và điều chỉnh hành vi có vị trí hết sức quan trọng, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với đạo đức của xã hội. Xã hội càng tiến lên, nhân loại càng văn minh thì con người càng cần đến đạo đức. Trải qua 30 năm đổi mới đất nước, kể từ khi bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng kể, làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Việc chuyển từ mô hình kinh tế tập trung bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực đạo đức. Đó chính là sự biến đổi những chuẩn mực đạo đức, những nguyên tắc đạo đức truyền thống, đồng thời cũng dẫn đến sự xuất hiện những giá trị đạo đức mới với tính cách là biểu hiện về mặt đạo đức do yêu cầu của kinh tế thị trường. Sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội đang kéo theo sự biến đổi của đạo đức với chiều hướng phức tạp cả tích cực và tiêu cực. Đó là: Cơ chế thị trường kích thích sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện cho sự phát triển con người về mọi mặt, trong đó có đạo đức. Tham gia vào kinh tế thị trường, con người có sự biến đổi về nhân cách: Tính quyết đoán, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tính năng động sáng tạo trong lập thân, lập nghiệp được khẳng định. Bên cạnh những mặt tích cực nói trên, cơ chế thị trường cũng 2 dễ gây ra hàng loạt những hiện tượng tiêu cực trái với đạo đức và tiến bộ xã hội. Đó là, sự phân hoá giàu nghèo một cách sâu sắc, từ đó làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn xã hội; dễ nảy sinh những tệ nạn xã hội như tham nhũng, tội phạm, bạo lực; là sự kích thích lòng tham, dẫn đến khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như sức lực của người lao động; kích thích chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, lối sống chạy theo đồng tiền bất chấp đạo lý, v.v.. Nói chung, sự đụng độ giữa kinh tế thị trường và các giá trị đạo đức đang trở thành một vấn đề nan giải. Trong sự tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay thì vấn đề đạo đức của người cán bộ y tế cũng được đặt ra một cách bức thiết. Nhiều tấm gương của đội ngũ cán bộ y tế đã hết lòng, hết sức cứu chữa người bệnh; nhiều bệnh viện đã có những sáng kiến cải tiến nhằm nâng cao chất lượng phục vụ bệnh nhân; nhiều công trình khoa học, nhiều phương pháp chữa bệnh mới được ứng dụng đưa Việt Nam trở thành một điểm sáng trong bản đồ y học thế giới, v.v.. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó thì một số tiêu cực của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận những người làm công tác y tế như: cửa quyền, tắc trách, chạy theo đồng tiền, coi thường sức khoẻ, mạng sống của người bệnh, v.v.. làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với thiên chức cao cả "trị bệnh cứu người" của người thầy thuốc. Do đó, hơn lúc nào hết đội ngũ những người thầy thuốc và mọi cán bộ, nhân viên trong ngành y tế phải tự tu dưỡng, chủ động rèn luyện, nâng cao y đức, nâng cao trình độ chuyên môn bảo đảm tốt nhất chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, xứng đáng với truyền thống y học của dân tộc, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân thỏa mãn niềm vui, hạnh phúc cao thượng của một nghề cao quý. Sự biến đổi đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay đang diễn biến phức tạp có cả tích cực và tiêu cực. Đạo đức của đội ngũ cán bộ ngành y tế cũng nằm trong cái chung đó. Đây là tình huống có vấn đề mà trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta 3 phải tiếp tục nghiên cứu, lý giải thêm để có cơ sở khoa học đề ra phương hướng và giải pháp nâng cao y đức cho đội ngũ cán bộ thuộc lĩnh vực này. Là cán bộ giảng dạy và nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có nguyện vọng được đóng góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp y tế của đất nước vì thế tác giả chọn đề tài "Vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Phân tích làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức, tầm quan trọng và thực trạng vận dụng mối quan hệ này trong việc nâng cao y đức của cán bộ ngành y tế dưới tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Từ đó, đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng có hiệu quả mối quan hệ này trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở Việt Nam hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án sẽ giải quyết một số nhiệm vụ sau: - Phân tích làm rõ quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức, tầm quan trọng của việc vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế hiện nay. - Phân tích thực trạng vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức của cán bộ ngành y tế ở Việt Nam hiện nay và một số vấn đề đặt ra. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng có hiệu quả mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Quan hệ giữa kinh tế và đạo đức, thực trạng vận dụng và giải pháp vận dụng có hiệu quả mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ y tế. Song, luận án chủ yếu nghiên cứu đối tượng cán bộ y tế trực tiếp tham gia khám, chữa bệnh ở Việt Nam hiện nay. Thời gian nghiên cứu, khảo sát thực tiễn chủ yếu từ năm 1986 đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận án: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về quan hệ kinh tế, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đạo đức từ năm 1986 đến nay. - Cơ sở thực tiễn của luận án: Luận án dựa vào tình hình, thực trạng y đức hiện nay, trong đó một phần lớn được phản ánh qua các báo cáo tổng kết thực tiễn, những tư liệu, số liệu điều tra ở một số cơ sở y tế của bản thân tác giả. - Phương pháp nghiên cứu: Tác giả luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp. 5. Những đóng góp về khoa học của luận án - Góp phần hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận, thực tiễn về mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức. - Phân tích thực trạng vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở Việt Nam hiện nay và những mâu thuẫn nảy sinh. - Đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm vận dụng có hiệu quả mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc nâng cao y đức cho cán bộ ngành y tế ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án - Có thể sử dụng luận án làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy đạo đức, y đức của người cán bộ y tế, v.v.. 5 - Luận án là tài liệu tham khảo góp phần vào việc đề ra các chính sách về cán bộ, về xây dựng đạo đức cho cán bộ ngành y tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Luận án ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 4 chương, 10 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH LÝ LUẬN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ ĐẠO ĐỨC, VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VÀ ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC NÂNG CAO Y ĐỨC CHO CÁN BỘ NGÀNH Y TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức là một trong những vấn đề trung tâm thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học ở nhiều quốc gia trên thế giới. Khi đề cập tới mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các nhà khoa học Liên Xô trước đây và Trung Quốc đã bàn đến vấn đề này khá sâu sắc, có một số công trình khoa học tiêu biểu như: - "Nguyên lý đạo đức cộng sản" của tác giả A.Siskin [134] đã góp phần làm rõ nguồn gốc của đạo đức là do cơ sở kinh tế quyết định và khẳng định: "Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nói đến đạo đức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong giao dịch với nhau hàng ngày" [134, tr.4]. Ông cũng cho rằng: "Thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở khoa học của đạo đức cộng sản" [134, tr.66]. - "Đạo đức học" tập 1, tập 2 của tác giả G.Bandzeladze [4; 5] đã phân tích và luận giải về vai trò của đạo đức, làm sáng tỏ nhiều hiện tượng đạo đức xã hội cũng như mối quan hệ giữa đạo đức với "tính người" của con người. Trong đó, ông nhấn mạnh đến đặc trưng của đạo đức, xem xét chúng dưới tác động của những điều kiện vật chất trong một hình thái kinh tế - xã hội hay trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể và tính độc lập tương đối của đạo đức trước những điều kiện vật chất. Theo ông thì: "Đạo đức của con người là năng lực phục vụ một cách tự giác và tự do những người khác và xã hội" [1, tr.48]. Và ông coi "đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện tự giác của con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung" [134, tr.104]. 7 - "Những vấn đề lý luận đạo đức" của tác giả A.I.Côchêlốp [1] khẳng định lại quan điểm của V.I. Lênin "Chúng ta nói rằng: đạo đức - đó là những gì góp phần đoàn kết tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã hội mới, cộng sản chủ nghĩa" [11, tr.6]. Tác giả phân tích những khái niệm, phạm trù, nguyên lý, những nội dung cơ bản của đạo đức học mácxít; các quy luật vận động và phát triển của đạo đức, các kiểu đạo đức trong lịch sử; những nguyên tắc của đạo đức mới và tính quy luật của sự hình thành đạo đức mới trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử về sự quyết định của điều kiện kinh tế với ý thức đạo đức và ngược lại. Thêm vào đó, còn có những công trình tiêu biểu như: "Những bài giảng về đạo đức học Mác - Lênin" của L. M. Arkhangenski [1]; "Giáo trình đạo đức học" của E. V. Zolotukhina - Abolina [161]; "Đạo đức học mácxít" của A. M. Titarenko [150]; "Mác - Ăng ghen - Lênin bàn về đạo đức" của Viện Triết học [157],v.v.. Các công trình của các nhà khoa học Liên Xô nói trên đều trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập tới mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức thể hiện trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong đó tồn tại quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội (trong đó có ý thức đạo đức). - "Về kinh tế thị trường và đạo đức" của tác giả Dong Fangshuo [46]. Theo tác giả, quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đức không đơn giản là đem hai khái niệm kinh tế và đạo đức cộng lại với nhau một cách đơn giản, hoặc là đem các quy phạm phổ biến của luân lý xã hội và giá trị đạo đức ghép vào trước hình thức vận hành kinh tế thị trường. Về mặt lý luận, ông cho rằng có hai hướng nghiên cứu là "rót từ bên ngoài" và "rút từ bên trong" để tìm mối liên hệ và sự điều chỉnh giữa kinh tế thị trường và đạo đức với tính cách là hai khái niệm độc lập nhau. Các nhà nghiên cứu theo con đường "rót từ bên ngoài" cho rằng nghiên cứu quan hệ giữa kinh tế và đạo đức là ứng dụng một lý luận luân lý học "có sẵn" vào lĩnh vực kinh tế thị trường. Con đường "rút từ bên trong" theo tác giả là trực tiếp rút các giá trị đạo đức từ nội hàm và sự vận hành của kinh tế thị trường tức là từ quan hệ sản xuất và trao đổi của mình để rút ra các quan niệm đạo đức. Phương 8 cách này làm cho lý luận đạo đức và hành vi kinh tế của con người thực sự dung hòa làm một, và thực hiện yêu cầu luân lý cũng có cơ sở hiện thực. Đồng thời, tác giả phân tích logic vận hành tự thân của kinh tế thị trường sẽ làm nảy sinh các nguyên tắc, chế độ và thiết lập luật pháp thích ứng với bản thân nó.v.v.. - "Tình hình đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường và việc xây dựng nó" của tác giả người Trung Quốc có tên là Zhou Donghua [30] cho rằng từ sự chuyển đổi mô hình kinh tế kế hoạch đơn nhất thành mô hình thị trường sẽ tất yếu trải qua một quá trình lựa chọn, kiến tạo lại và từng bước dung hợp vào môi trường mới của những quan niệm đạo đức truyền thống trước đây. Ông chỉ ra 4 nguyên nhân dẫn đến sự ‘trượt dốc đạo đức" trong xã hội Trung Quốc hiện nay: Một là, khuynh hướng hai mặt của sự biến đổi đạo đức mà sự chuyển đổi thể chế kinh tế cũ - mới tạo ra; Thứ hai, là hiệu ứng hai mặt của thước đo giá trị thích ứng với kinh tế thị trường; Thứ ba, là tính nhiều mặt của hình tượng nhân cách do việc điều chỉnh bố cục lợi ích xã hội tạo thành; Thứ tư, là trào lưu "trọng lợi khinh nghĩa" trong xã hội, đã xuất hiện khuynh hướng coi nhẹ giáo dục đạo đức. Từ đó, tác giả chỉ ra 5 giải pháp về công tác xây dựng lại đạo đức xã hội ở Trung Quốc hiện nay: Một là, xác lập thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là cơ sở khách quan để đạo đức dựa vào để sinh tồn và phát triển; Hai là, tìm tòi và xác định tiêu chuẩn bên trong của việc đánh giá đạo đức - thước đo giá trị cơ bản của xã hội; Ba là, nỗ lực bắc nhịp cầu hiện thực nối liền giữa quy phạm đạo đức và thành viên xã hội; Bốn là, kết hợp đạo đức truyền thống và hiện thực - phê phán và kế thừa đạo đức truyền thống; Năm là, cần xây dựng hình thức mới để hướng dẫn một cách chủ động và tự giác chuyển đổi đạo đức - coi trọng giáo dục đạo đức xã hội. - "Bàn về quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đức" của tác giả Wang Shuqin [135] đã phê phán quan điểm phủ định mối liên hệ giữa hành vi kinh tế thị trường và hành vi đạo đức, cho rằng đặc trưng bản chất của đạo đức là tính tự luật và tính siêu công lợi, còn đặc điểm quan trọng của kinh tế thị trường là tính tha luật và tính công lợi, bởi vậy hành vi kinh tế thị trường là hành vi phi đạo 9 dức, không thể đánh giá về mặt đạo đức, không cần điều tiết đạo đức. Tác giả khẳng định đạo đức là sản phẩm của các quan hệ kinh tế - xã hội, trật tự kinh tế thị trường cần có tính hợp lý và tính chính đáng về mặt đạo nghĩa mới có thể tự duy trì được mình, do đó hoạt động kinh tế của chủ thể kinh tế thị trường không chỉ là hành vi kinh tế chạy theo lợi ích mà đồng thời còn là hành vi đạo đức để cân nhắc xem việc mưu lợi có chính đáng không. Ông cũng cho rằng hành vi đạo đức không phải là hành vi cô lập theo ý nghĩa đạo đức thuần túy mà luôn là hành vi có tính xã hội phát sinh kèm theo các hành vi khác; hành vi kinh tế thị trường có đặc trưng của hành vi đạo đức đó là ý thức tự giác, tự chủ về ý chí, phù hợp với yêu cầu về mặt tinh thần của hành vi đạo đức; kinh tế thị trường chứa đựng bẩm tính luân lý, nó không chỉ là hiệu quả kinh tế mà còn là trách nhiệm và danh dự xã hội; động lực phát triển kinh tế thị trường không chỉ là những nhân tố về điều kiện, nhân tố khách quan mà còn cả tinh thần luân lý. - "Mấy vấn đề lý luận trong xây dựng đạo đức" của tác giả Li Qi [131] chỉ ra bản chất và đặc trưng của đạo đức là sản phẩm của một cơ sở kinh tế xã hội nhất định, là kiến trúc thượng tầng và hình thái ý thức của một hình thái xã hội nhất định, gắn bó chặt chẽ với lợi ích của con người. Bởi vậy bản chất và chức năng của nó là có tính công lợi xã hội. Nhưng không thể vì hành vi đạo đức có tính "công lợi" mà gạt chuẩn mực và quy phạm đạo đức ra khỏi lĩnh vực hoạt động kinh tế. Sự vận động kinh tế thị trường bao gồm nhiều khâu như sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng ngoài việc cần sự quy phạm và điều tiết của các chế độ quy chương luật pháp và hành trình còn cần sự điều tiết, hướng dẫn của các chuẩn mực và quy phạm đạo đức. Vai trò điều tiết của đạo đức xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực kinh tế hàng hóa biểu hiện ở quan hệ giữa hoạt động kinh tế với lợi ích nhà nước, xã hội. Ngoài ra, vai trò điều tiết còn thể hiện ở việc xác lập đạo đức nghề nghiệp trong kinh tế là cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển văn minh, lành mạnh, bình thường của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, việc chuyển từ cơ chế hành chính, tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm cho đời sống tinh thần 10 nói chung, đời sống đạo đức nói riêng, đã và đang có sự chuyển biến nhiều mặt. Những vấn đề phức tạp về mặt đạo đức nảy sinh đã trở thành nỗi trăn trở của các nhà nghiên cứu. Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức đã có một số vấn đề nổi bật được các nhà nghiên cứu quan tâm. Đó là: - "Đôi điều suy nghĩ về giá trị và sự biến đổi các giá trị khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường" của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [23] đã đề cập tới sự thay đổi thang bậc các giá trị trong xã hội khi đất nước chuyển từ nền kinh tế mệnh lệnh, kế hoạch hóa tập trung và bao cấp sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi này diễn ra khá nhanh, khá sâu rộng và sự thừa nhận các giá trị mới cũng khá nhanh ở một bộ phận đáng kể dân cư trong khi gây ra không ít sự lo chính đáng. - "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của tác giả Nguyễn Thế Kiệt [77] đã đánh giá sự cần thiết phải chú ý đến nhân tố đạo đức trong nền kinh tế thị trường và chỉ ra những mâu thuẫn đặt ra trong đạo đức xã hội hiện nay. Đồng thời, tác giả chỉ ra những nội dung mới của một số phẩm chất đạo đức cơ bản như tư tưởng yêu nước, lòng nhân ái, tính tập thể, niềm tin và lý tưởng, tính trung thực, v.v.. trong nền kinh tế thị trường hiện nay. - "Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường" của tác giả Nguyễn Văn Phúc [118]. Dựa trên quan niệm duy vật lịch sử, tác giả cho rằng khi phân tích vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong tình hình hiện nay, không thể không tính đến mối liên hệ giữa nhân cách và cơ chế thị trường, cơ chế đang chi phối mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội và con người. Trong điều kiện như vậy, giáo dục đạo đức phải hình thành và củng cố trong con người một niềm tin sâu sắc vào những giá trị đích thực và lâu bền của con người. Tình thương, trách nhiệm, lương tâm, sự trung thực và khiêm tốn,v.v.. là những phẩm chất nhân cách không thể mua bán được, không thể đổi thay được. Lấy cái bất biến tức những giá trị bền vững làm nguyên tắc ứng xử trước cái vạn biến của cuộc sống trong cơ chế thị trường, con 11 người sẽ làm chủ được tình thế; tự do của nhân cách, giá trị đích thực của nhân cách, do đó, được thể hiện và thực hiện. - "Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường" của tác giả Lê Thị Tuyết Ba [2] đã phân biệt sự khác nhau về mục đích phát triển giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tác giả chỉ ra những hiện tượng đáng báo động về nguy cơ đổ vỡ các giá trị tinh thần trước thế lực của đồng tiền, thế lực của lợi nhuận, đồng thời cũng chỉ ra vai trò quy phạm và hướng dẫn của đạo đức trong kinh tế sẽ góp phần thúc đẩy việc hợp lý hóa các hành vi kinh tế, góp phần vào sự phồn vinh kinh tế. Nói cách khác, bất cứ ai muốn đạt tới thành công trong kinh doanh đều cần phải biết điều chỉnh hành vi của mình và lúc đó, con người mới thực sự làm chủ được đồng tiền. - "Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay và những biến động trong lĩnh vực đạo đức" của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [24] đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam đề xuất và lãnh đạo. Tác giả cho rằng, trong bất cứ nền kinh tế thị trường nào cũng luôn tồn tại tính hai mặt của nó. Đó là thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển đồng thời cũng gây ra những biến động nhức nhối và đáng lo ngại về đạo đức, về lối sống, về ý thức. Nguyên nhân của những hạn chế đó là do: Thứ nhất, sự chuyển đổi cơ chế không thể không in dấu ấn trong các mặt khác nhau của đời sống xã hội, của đời sống tinh thần với sự chưa hoàn chỉnh của luật pháp, của các công cụ quản lý và điều tiết của nhà nước trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực đạo đức trở nên gay gắt và đáng lo ngại. Thứ hai, nhìn từ góc độ khác, những tệ nạn xã hội và tình trạng suy thoái về đạo đức phát sinh trong điều kiện kinh tế thị trường còn do sự thiếu vắng hoặc sự không đồng bộ của các loại hay các yếu tố thị trường. Thứ ba, cùng với các nguyên nhân trên, tác giả cho rằng quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc giáo dục đạo đức đã có phần bị coi nhẹ, thậm chí lúng túng, thiếu định hướng rõ rệt. 12 Chính vì vậy, phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trong mối quan hệ hữu cơ với nhau để vừa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa gìn giữ được các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, vừa xây dựng được các quan hệ và phẩm chất đạo đức mới phù hợp với thời đại mới của sự phát triển kinh tế - xã hội. - "Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và đạo đức xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Phạm Văn Đức [45] đã cho rằng nền kinh tế thị trường để những hành vi và những hoạt động của từng người cụ thể đang theo đuổi các lợi ích khác nhau không triệt tiêu nhau và làm rối loạn xã hội, xã hội cần đến những phương thức điều tiết hành vi của con người mang ý nghĩa phổ biến là đạo đức. Qua đó chúng ta thấy rằng những lợi ích cá nhân của từng người cụ thể với tính cách là thành viên của xã hội, nếu không đối lập với lợi ích xã hội thì luôn là động cơ của những hành vi đạo đức chân chính. Có thể nói, lợi ích cá nhân trong nền kinh tế thị trường đã tác động đến đạo đức theo hai hướng trái ngược nhau. Theo hướng tích cực, lợi ích cá nhân góp phần tạo nên các giá trị và các chuẩn mực đạo đức mới. Theo hướng tiêu cực, vì lợi ích cá nhân mà con người có thể làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống của mình. Cả hai xu hướng đó đều song song tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Để đánh giá tính tích cực hay tiêu cực của lợi ích cá nhân đối với đạo đức, cần xem xét hiệu quả mà lợi ích đó đem lại có phù hợp với lợi ích chung của xã hội hay không. - "Những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng suy thoái đạo đức ở nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn Ngọc Hà [48] đã chỉ ra bản chất của kinh tế thị trường tuy có mặt tiêu cực, nhưng nó không đối lập với đạo đức. Người ta hoàn toàn có thể vừa phát triển kinh tế thị trường để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, vừa loại trừ được sự suy thoái đạo đức. Tác giả chỉ ra nguyên nhân chủ quan của tình trạng suy thoái về đạo đức lại gia tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường là do kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, do hành vi phạm pháp của cán bộ nhà nước và tình trạng mất dân chủ ở cơ sở. 13 - "Vấn đề xây dựng đạo đức mới trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường" của tác giả Đỗ Lan Hiền [54] đã đánh giá mặt tích cực và mặt tiêu cực của kinh tế thị trường. Tác giả khẳng định sự cần thiết của kinh tế thị trường để xây dựng một xã hội phát triển, phải biết thích ứng với nó và vẫn có thể tìm một thang giá trị mới cho việc xây dựng nền đạo đức tiến bộ. Từ đó, tác giả phân tích mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức và khẳng định cần chủ động xây dựng những điều kiện mới cho sự nảy sinh những giá trị đạo đức tốt đẹp, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội hiện đại. - "Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Phúc [25] đã phân tích những biến động trong lĩnh vực đạo đức do sự tác động của nền kinh tế thị trường (cả tích cực lẫn tiêu cực). Công trình cũng lý giải vai trò của đạo đức với tư cách là động lực tinh thần của sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đề xuất và phân tích những giải pháp nhằm xây dựng đạo đức vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta. - "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn Chí Mỳ [111]. Các tác giả cho rằng trong nền kinh tế thị trường cần thiết phải làm cho sự phát triển kinh tế đi liền với sự nâng cao trình độ tư tưởng đạo đức và văn hóa của con người. Cần quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy và trong hoạt động thực tiễn. Việc định hướng thang giá trị đạo đức trong điều kiện hiện nay là cần thiết và cấp bách để chủ thể giá trị phát huy được tính tích cực cao nhất, vừa làm cho sản xuất phát triển, vừa phải nâng cao tính tự giác, trình độ nhận thức, trình độ tư tưởng đạo đức cho con người, chống thái độ "bảo thủ" đồng thời chống thái độ "hư vô". Các tác giả cũng vận dụng những quan điểm trên để chỉ ra bên cạnh các yêu cầu về chuyên môn, năng lực quản lý thì người cán bộ quản lý hiện nay cần phải có một số những phẩm chất đạo đức mới như biết phát huy tính độc lập, chủ động, sáng tạo, tin tưởng cấp dưới, dân chủ, sâu sát thực tế, chống mệnh lệnh, độc 14 đoán, quan liêu; thận trọng, kiên định, nghiêm túc, chống dao động, thiếu trách nhiệm,v.v.. - "Nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay" của tác giả Nguyễn Thế Thắng [140] đã tập trung làm rõ một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức cách mạng. Đồng thời, tác giả cũng phân tích thực trạng đạo đức của đội ngũ cán bộ ở nước ta hiện nay và đưa ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - "Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay - Thực trạng và giải pháp" của tác giả Nguyễn Thế Kiệt [78] đã phân tích vai trò, nội dung, yêu cầu về đạo đức của cán bộ lãnh đạo chính trị trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Nêu lên thực trạng đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị, trên cơ sở đó xác định phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam hiện nay. - "Về đạo đức nghề nghiệp" của tác giả Lê Thanh Thập [141] đã phân tích đạo đức nghề nghiệp với tư cách là một nhánh trong hệ thống đạo đức xã hội, là một loại đạo đức đã được thực tiễn hóa. Lương tâm nghề nghiệp là sự tự phán xét, tự ý thức về trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp. Nghĩa vụ đạo đức nghề nghiệp và lương tâm nghề nghiệp có quan hệ mật thiết với nhau. Đánh mất ý thức về nghĩa vụ đạo đức là đánh mất ý thức về bản thân mình, làm mất ý nghĩa làm người cũng như giá trị động lực của lao động. Do vậy, giáo dục đạo đức nghề nghiệp chính là để hình thành nhân cách nghề nghiệp của mỗi chủ thể; hướng con người vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt động nghề nghiệp. - "Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp" của tác giả Nguyễn Duy Quý [133] là công trình điển hình về nghiên cứu đạo đức sau 20 năm đổi mới đất nước. Trong cuốn sách này, các tác giả cho rằng kinh tế thị trường với mặt tích cực của nó là làm cho xã hội trở nên năng động, phát triển. 15 Năng lực cá nhân và năng lực xã hội được đề cao và đang tiếp tục trau dồi, rèn luyện để thích ứng, tồn tại, phát triển trong bối cảnh mới, thời cuộc mới. Song mặt trái của kinh tế thị trường đã thâm nhập rất mạnh và sẽ còn tiếp tục gay gắt hơn nữa trong những thập kỷ tới. Đó là, việc giáo dục đạo đức, nhất là giáo dục truyền thống bị xem nhẹ, thậm chí có lúc bị bỏ trống. Đồng tiền lên ngôi, lối sống vụ lợi, vị kỷ, thực dụng, tôn thờ các giá trị vật chất, sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân cực đoan,v.v.. đã lấn át và làm xói mòn các giá trị tinh thần, làm hủy hoại đạo đức, nhân cách ở bộ phận không nhỏ trong gia đình, nhà trường, cơ quan, công sở và ở ngoài xã hội. Chính vì vậy, tác phẩm đã tập trung phân tích đời sống đạo đức trong từng đối tượng cụ thể như đạo đức của cán bộ, đảng viên và công chức; đạo đức trong lao động và giao tiếp; đạo đức trong gia đình; đạo đức của thanh niên. Từ đó, các tác giả khái quát thực trạng (tích cực, tiêu cực) của đạo đức trong xã hội, chỉ ra nguyên nhân chủ quan và khách quan của những hiện tượng đạo đức trên. Đồng thời, chỉ ra 03 phương hướng và 07 giải pháp xây dựng đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay. - "Quan niệm của C.Mác về đạo đức và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Văn Phúc [121] đã phân tích quan niệm của C. Mác về bản chất của đạo đức, quan hệ giữa lợi ích và đạo đức, tiến bộ đạo đức, dự báo về sự hình thành nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Đối chiếu với các quan niệm tương ứng trong lịch sử, tác giả khẳng định tính khoa học, cách mạng, ý nghĩa và giá trị trường tồn trong quan niệm của C.Mác về đạo đức. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vấn đề đặt ra là cần đẩy mạnh hơn nữa việc vận dụng và phát triển một cách sáng tạo quan niệm đó trong xây dựng đạo đức. - "Về vai trò của đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay" của tác giả Ngô Thị Thu Ngà [112] đã phân tích và luận chứng nhằm góp phần khẳng định và làm rõ thêm vai trò đặc biệt quan trọng của đạo đức mới - đạo đức cách mạng, đạo đức xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay trên các bình diện: kinh tế, 16 chính trị, bản sắc văn hóa, chống tham nhũng và chống âm mưu diễn biến hòa bình. Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải xây dựng và tạo điều kiện cho đạo đức mới khẳng định vị thế thống trị trong đời sống xã hội ở nước ta hiện nay. - "Mấy vấn đề về đạo đức học mácxít và xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Thế Kiệt [79]. Tác giả trình bày khái quát về đạo đức, các quy luật vận động và phát triển của đạo đức; về đạo đức mới, vai trò và các nguyên tắc của đạo đức mới (đạo đức xã hội chủ nghĩa) trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội; về sự biến đổi thang giá trị đạo đức dưới tác động của kinh tế thị trường; về tầm quan trọng và yêu cầu của đạo đức mới đối với người cán bộ, đảng viên hiện nay đồng thời đấu tranh khắc phục sự suy thoái đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. - "Lợi ích và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn [26] đã cho rằng trong xã hội có sự phân tầng, sự đối lập về lợi ích, đặc biệt là nền kinh tế thị trường thì giữa lợi ích và đạo đức sẽ khó tránh khỏi còn có những khoảng cách. Theo tác giả, điều đáng lo nhất khi Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường nằm ở những lỗ hổng lớn là pháp luật, đạo đức và văn hóa kinh doanh. Bởi vậy, để kinh tế thị trường Việt Nam phát triển đúng hướng thì một mặt, phải bằng mọi cách nhanh chóng bịt được các lỗ hổng đó, mặt khác, phải thiết lập sự công bằng và hợp lý trong phân phối của cải, trong hưởng thụ thành quả phát triển kinh tế, trong hưởng thụ lợi ích nói chung, đặc biệt là ngăn chặn có hiệu quả lợi ích nhóm phi pháp, ngăn chặn nạn tham nhũng thì sẽ từng ngày góp phần tạo được sự cân bằng giữa lợi ích và đạo đức. - "Đạo đức và lợi nhuận trong kinh doanh" của tác giả Nguyễn Văn Phúc [122] đã luận giải để làm rõ rằng, đạo đức có nguồn gốc từ lao động và hoạt động sinh sống của con người; rằng, chính trong quá trình ấy, con người nhận thấy phải tương trợ lẫn nhau, nghĩa là phải hy sinh những lợi ích nhất định cho người khác, cho cộng đồng. Đó không có gì khác ngoài nội dung của đạo đức
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan