Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Xây dựng bài tập tự nhiên và xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớ...

Tài liệu Xây dựng bài tập tự nhiên và xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp ba

.PDF
237
1389
101

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Phương Anh XÂY DỰNG BÀI TẬP TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI HỖ TRỢ RÈN KĨ NĂNG ĐỌC, VIẾT CHO HỌC SINH LỚP BA LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2014 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phạm Phương Anh XÂY DỰNG BÀI TẬP TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI HỖ TRỢ RÈN KĨ NĂNG ĐỌC, VIẾT CHO HỌC SINH LỚP BA Chuyên ngành: Giáo dục học (Tiểu học) Mã số: 60 14 01 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN THỊ LY KHA Thành phố Hồ Chí Minh - 2014 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Cùng với nghe và nói, đọc và viết là những kĩ năng ngôn ngữ cần được chú ý rèn luyện, phát triển trong mọi hoạt động của con người. Vì thế, việc rèn luyện hai kĩ năng này ngay từ cấp Tiểu học nói chung và lớp Ba nói riêng là rất quan trọng. Đề cập đến nhiệm vụ rèn các kĩ năng ngôn ngữ nói chung và kĩ năng đọc, viết nói riêng, trong chương trình giáo dục bậc Tiểu học, đây là nhiệm vụ chính của môn Tiếng Việt, môn học có tính thực hành, ứng dụng và tích hợp cao. Bàn về vấn đề dạy học tích hợp, có thể nói, trong thời đại ngày nay, đây là xu thế ngày càng thiết yếu của quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh (HS). Đặc biệt, đây cũng là một trong những quan điểm chỉ đạo việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam sau năm 2015 trên cơ sở tăng cường tích hợp để hình thành năng lực tổng hợp và giải quyết vấn đề cho HS. Để việc tích hợp đạt hiệu quả cao, sự phối hợp đồng bộ giữa chương trình các môn học, các tài liệu dạy học, sự vận dụng linh hoạt các phương pháp tích hợp là rất quan trọng. Như vậy, có thể thấy rằng, việc xây dựng chương trình tích hợp, xây dựng tài liệu dạy học dựa trên nền tảng của một chương trình tích hợp nhằm tăng cường năng lực liên môn cho HS, tạo điều kiện cho các em phát triển kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng sáng tạo là một việc làm quan trọng và cấp thiết. Ở bậc tiểu học, cùng với các môn học khác, chương trình, sách giáo khoa (SGK) môn Tự nhiên và Xã hội (TN&XH) cũng được cấu trúc theo quan điểm tích hợp, thể hiện trên ba phương diện: tích hợp kiến thức tự nhiên và xã hội; tích hợp phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học; tích hợp trong việc hình thành và phát triển các kĩ năng khác nhau cho HS tiểu học. Đồng hành với sách giáo khoa, vở bài tập Tự nhiên và Xã hội (VBTTN&XH) là nguồn tài liệu phù hợp nhằm giúp HS thực hiện các hoạt động học tập độc lập và đa dạng trong các tiết học để rèn luyện các kĩ năng học tập, thực hành, củng cố và khắc sâu kiến thức. Xét trên bình diện chung về chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt được, SGK và VBTTN&XH đã chuyển tải khá tốt nội 4 dung kiến thức và giúp HS phát triển năng lực bản thân thông qua việc học tập môn TN&XH. Tuy nhiên, nếu xét trên bình diện rèn luyện kĩ năng ngôn ngữ - nhiệm vụ chính của môn Tiếng Việt, mà cụ thể hơn, đề tài này xin xét đến kĩ năng đọc, kĩ năng viết, VBTTN&XH vẫn chưa được thiết kế trên cơ sở chú trọng tích hợp rèn luyện thêm hai kĩ năng này nhằm phối hợp với môn Tiếng Việt trong việc hình thành, phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho HS. Như đã đề cập phía trên, trong chương trình học tập cấp Tiểu học, môn Tiếng Việt giữ vai trò chủ yếu nhất đối với việc hình thành, phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho trẻ. Chương trình Tiếng Việt lớp Ba là giai đoạn “chuyển mình” quan trọng nhằm củng cố cho HS những kiến thức, kĩ năng ngôn ngữ đã học ở lớp 1, 2 (giai đoạn HS tư duy trực quan hình ảnh) và trang bị những kiến thức, kĩ năng cao hơn, cần thiết cho việc học tập Tiếng Việt ở lớp 4, 5 (giai đoạn HS tư duy trực quan trừu tượng). Vì thế, có thể nói nhiệm vụ của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học nói chung và ở lớp Ba nói riêng là không hề nhẹ. Tuy vậy, những nhà giáo dục, nhà sư phạm không nên xem đây chỉ là nhiệm vụ của riêng môn Tiếng Việt mà cần xem nó như một nhiệm vụ không thể tách rời các môn học khác mà TN&XH là một ví dụ. Do đó, nếu thực hiện được việc tích hợp kĩ năng đọc, viết thông qua hệ thống bài tập môn TN&XH ngay trong giai đoạn này thì trẻ sẽ có một tiền đề thuận lợi cho việc phát triển kĩ năng đọc, viết sau này. Theo tìm hiểu của người thực hiện, các nghiên cứu ở Việt Nam về tích hợp trong môn TN&XH chủ yếu nêu lên quan điểm tích hợp và việc vận dụng nó trong vấn đề xây dựng chương trình theo hướng: tích hợp kiến thức của một số ngành khoa học, tích hợp bồi dưỡng kĩ năng sống, tư tưởng, lối sống đạo đức cho trẻ vào chương trình môn TN&XH, chứ chưa tìm hiểu việc tích hợp rèn các kĩ năng ngôn ngữ thông qua hệ thống bài tập. Trong khi đó, trên thế giới, vấn đề này được đề cập khá nhiều. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu, công trình lại tập trung nghiên cứu việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho trẻ thông qua môn “Science (1) (1) ” ở các lớp 4, 5 và các lớp cao hơn. Trên thế giới, thuật ngữ “Science” được dùng để gọi các môn Khoa học cho tất cả các lớp. Tại Việt Nam, môn “Science” có tên là môn Tự nhiên và Xã hội (đối với lớp 1, 2, 3); Khoa học, Lịch sử và Địa Lý (đối với lớp 4, 5). 5 Chương trình “Science A - Z” (http://www.sciencea-z.com) chỉ tập trung thiết kế các bài tập khoa học giới hạn trong bốn chủ đề nhỏ “Đời sống, Trái Đất, Vật lý, Tiến trình” (Life, Earth, Physical, Process). Chương trình Hạt giống Khoa học/ Gốc rễ của việc đọc (Seeds of Science/Roots of Reading) cung cấp các hoạt động học tập khoa học đa dạng trong mục đích phát triển đồng thời kĩ năng đọc, viết và kĩ năng khoa học; tuy nhiên, số lượng bài học ở đây chỉ giới hạn trong một vài bài cụ thể và chia theo các nhóm lớp (nhóm lớp 2 - 3, nhóm lớp 3 - 4, nhóm lớp 4 - 5), thiếu sự phân hóa thành một lớp cụ thể. Hơn nữa, do đặc trưng ngôn ngữ, văn hóa, cấu trúc chương trình môn học, việc áp dụng các bài tập này vào chương trình giáo dục môn TN&XH3 ở Việt Nam có sự chênh lệch và khó khăn rất lớn. Như vậy, có thể nói, hệ thống bài tập TN&XH tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Xuất phát từ thực tiễn trên; đồng thời, với mong muốn tìm hiểu về quan điểm tích hợp nói chung và việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết thông qua hệ thống bài tập TN&XH lớp Ba nói riêng, đón đầu xu hướng đổi mới chương trình và sách giáo khoa theo định hướng phát triển năng lực sau 2015, để tìm kiếm, tham khảo, xây dựng và thử nghiệm các bài tập phù hợp góp phần rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba, chúng tôi chọn đề tài “Xây dựng bài tập Tự nhiên và Xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp Ba” nhằm tìm hiểu và xây dựng hệ thống bài tập TN&XH3 theo hướng tích hợp và chứng minh giả định bài tập TN&XH3 được thiết kế theo dạng tích hợp sẽ là một nguồn tài liệu hiệu quả trong việc hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Ngày nay, tích hợp trở thành xu thế tất yếu trên thế giới ở mọi lĩnh vực mà giáo dục là một yếu tố trong đó. Nói đến tích hợp trong giáo dục, các nhà nghiên cứu và những người quan tâm có thể tìm thấy những thông tin chi tiết về vấn đề này ở tất cả các khía cạnh: định nghĩa, nguyên nhân, cách tiếp cận, lợi ích của việc tích hợp trong Vì vậy, để tránh bị nhầm lẫn, chúng tôi vẫn giữ nguyên thuật ngữ “Science” khi đề cập đến môn học này trong khi trình bày các nghiên cứu của thế giới về vấn đề liên quan đến đề tài. 6 giáo dục về mặt thiết kế chương trình cũng như phương pháp dạy học ở nhiều tài liệu và nghiên cứu của các chuyên gia, nhà giáo dục như Fan (2004), Drake & Burns (2004), Đào Thị Hồng (2005), Cao Văn Sâm (2006), Hoàng Thị Tuyết (2012). Ngoài ra, khi xét đến các mức độ tích hợp trong giáo dục, các tác giả Drake & Burns (2004), Hoàng Thị Tuyết (2012) cũng trình bày ba hướng tiếp cận tích hợp và các phương án khác nhau để tạo nên một chương trình tích hợp đa môn, tích hợp liên môn và tích hợp xuyên môn. Chính sự đa dạng về các nguồn tài liệu tích hợp trong giáo dục giúp cho người đọc có một cái nhìn đa chiều, thuận lợi cho việc lựa chọn các hướng tiếp cận xu hướng dạy học tích hợp trong phạm vi mà người đọc quan tâm. [1, tr.27, 28], [5], [6], [7], [9, tr. 13 - 24], [10], [18], [19]. Nằm trong hệ thống giáo dục của các quốc gia trên thế giới, việc dạy tiếng cũng đã, đang được thực hiện theo xu hướng tích hợp với nhiều hình thức khác nhau. Và “Language Arts (2)” được nhiều nơi lựa chọn, sử dụng linh hoạt như một mô hình tích hợp đem lại hiệu quả cao cho việc dạy tiếng. Trong “Language Arts”, ở một góc độ tiếp cận, kĩ năng ngôn ngữ được tích hợp vào các môn học khác. Điều này tạo điều kiện cho HS phát triển các kĩ năng ngôn ngữ trong sự tương tác với các kiến thức khoa học, xã hội đa dạng nhằm phát triển kĩ năng sống và khả năng tư duy, giao tiếp của các em. Các tài liệu và nghiên cứu của Joyce, Malicky (1996), Cox (2007), O'Shaughnessy (2001), Mildred (2008) nêu lên cái nhìn chung nhất về mô hình “Language Arts” từ định nghĩa, đặc điểm đến cách thức và phương pháp thực hiện. Thực hiện theo mô hình này, nhiều trang web, mà điển hình là trang http://www.time4learning.com, mục “Online Language Arts Curriculum” (Chương trình “Language Arts” trực tuyến) cũng tập trung vào việc cung cấp các bài học đa phương tiện nhằm giảng dạy, củng cố, phát triển kiến thức về ngữ âm, độ trôi chảy, ngữ pháp, chính tả, từ vựng, đọc hiểu, ... Bên cạnh đó, mục “Language Arts Games” (Trò chơi “Language Arts”) của các trang web (2) “Language Arts” là một thuật ngữ được hiểu trên 3 lĩnh vực: (1) các kĩ năng ngôn ngữ; (2) một môn học trong chương trình (liên quan đến các kĩ năng diễn đạt ý tưởng theo hình thức ngôn ngữ nói hoặc viết cũng như các kĩ năng hiểu ý tưởng của người nói hay người viết); các lĩnh vực của chương trình giáo dục ngôn ngữ của nhà trường. 7 http://www.sheppardsoftware.com, http://www.funbrain.com, http://www.softschools.com, http://www.primarygames.com còn cung cấp các trò chơi đa dạng nhằm “mềm hóa” việc học tập ngôn ngữ của trẻ. Đặc biệt, trong phạm vi của đề tài, Jerine (2010) cho thấy tầm quan trọng của việc tích hợp giảng dạy ngôn ngữ trong môn “Science” và phác họa những khó khăn, thách thức mà giáo viên (GV) có thể gặp phải khi áp dụng hướng tích hợp này thông qua việc sử dụng vở bài tập khoa học vào giảng dạy. [17], [28], [30], [39], [45], [60] Ngoài ra, khi đề cập đến việc phát triển kĩ năng đọc, viết ở HS, các tài liệu và một số trang web cũng chỉ ra các yếu tố có liên quan đến việc đọc, viết (kiến thức ngữ âm, từ vựng; kĩ năng giải mã, tốc độ đọc, kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng diễn đạt, …) và đề nghị một số cách thức cũng như trò chơi để phát triển các yếu tố này. [9], [11], [12], [13], [25], [34], [37] Bàn về vai trò của việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết vào chương trình “Science”, thuật ngữ “science literacy” (đọc viết khoa học) khá quen thuộc với các nhà giáo dục trên thế giới. Các nghiên cứu của Krupp(1994); Bowers (2000); Willoughby (2005); Shin, Rueda, Simpkins, Lim (2009); Jerine (2010); Chen (2011); Sharrio (2011); Sessoms (2012) cho thấy lý do và tầm quan trọng của việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết trong dạy học môn “Science” dựa trên việc so sánh tương quan các kĩ năng trong học tập khoa học và các kĩ năng liên quan đến việc đọc, viết. Không dừng lại ở đó, các tài liệu nêu trên còn gợi ý một số cách để tích hợp việc dạy kĩ năng đọc, viết thông qua môn học này mà một trong số đó là xây dựng các hình thức bài tập phù hợp cho cả hai yêu cầu: kiểm tra kiến thức khoa học và tạo môi trường để trẻ phát triển kĩ năng đọc, viết, … Cụ thể, trong nghiên cứu của mình, tác giả Sessoms (2012) cho thấy ý nghĩa của việc sử dụng các các hình thức văn bản đa dạng (thơ, văn, truyện, thông báo, áp phích, ...) trong mục tiêu phát triển kĩ năng đọc, viết cho trẻ thông qua chương trình môn “Science” [50, tr.13, 14]. Mặt khác, Stewart (2010) còn nhấn mạnh việc sử dụng các tài liệu học tập môn “Science” trong nhiều cách thức khác nhau: chương trình “Cùng đọc sách”, chương trình “Đọc kịch bản”, kết nối kết nối sách hư cấu và phi hư cấu. Đặc biệt, Bowers (2000) trình bày hai hướng để phát triển một bài học tích 8 hợp. Đó là bắt đầu bằng một văn bản bên ngoài và tìm kiếm nội dung khoa học trong văn bản hoặc bắt đầu với nội dung khoa học và tìm kiếm tài liệu tương ứng với chủ đề. Mặt khác, các nghiên cứu này cũng cho thấy vai trò của các yếu tố thuộc đồ họa, vai trò của việc dạy học đa phương tiện, đa hình thức, … đối với việc phát triển kĩ năng đọc viết khoa học của HS. Bên cạnh những vấn đề như các tài liệu trên đã nêu, đáng lưu ý phải kể đến tài liệu do Colluns Educational xuất bản (1998), tài liệu của Glynn, S., Muth, K. (1994),. Các tác giả của hai tài liệu này xác định rằng HS có thể nắm được các khái niệm khoa học và mối quan hệ giữa chúng bằng cách đọc, viết các dạng văn bản khác nhau có liên quan đến khoa học (các câu chuyện, bài báo về sự phát triển, tiến bộ trong khoa học và công nghệ; các loại tài liệu tham khảo khác nhau có chủ đề khoa học; tiểu sử của các nhà khoa học; các tác phẩm văn chương của các nhà khoa học, ...). Nhờ cách thức này, tư duy phê phán và kĩ năng tổng hợp vấn đề, kĩ năng tìm ý, lập dàn ý và kĩ năng diễn đạt của trẻ sẽ phát triển. Qua đó, tác giả giới thiệu một số mô hình và cách thức để tích hợp rèn luyện kĩ năng đọc, viết thông qua học tập khoa học. Đó là các chiến lược SQ4R (3) , chiến lược MURDER (4) (Dansereau, 1985) chiến lược Dạy học tương hỗ (5) (Palincsar, 1986), chiến lược DARTs (Direct activities related to texts - Các hoạt động định hướng có liên quan đến văn bản). Đặc biệt, tài liệu của Collins Educational (1998) còn trình bày các bước để phát triển kĩ năng viết của HS theo tiến trình: làm quen với nhiều dạng văn bản khác nhau  chia sẻ cùng (3) Chiến lược SQ4R: S (Survey - khảo sát): Xem trước văn bản, sử dụng các tiêu đề và mục lục, hướng dẫn nội dung; Q (Question - câu hỏi): Xây dựng các câu hỏi về nội dung văn bản; R (Read - đọc): Đọc văn bản, sử dụng các câu hỏi và hướng dẫn; R (Reflect - phản ánh, đối chiếu): Xem xét những gì đã đọc, nội dung văn bản liên quan đến kiến thức cơ bản; R (Recite - kể lại): Xem xét những gì đã được đọc, nội dung văn bản liên quan đến kiến thức; R (Review - xem lại): Tổ chức thông tin của văn bản, đọc lại những nội dung khó. (4) Chiến lược MURDER: M (Mood - Lối) : lập kế hoạch cho việc học văn bản, theo dõi sự chú ý; U (Understanding - Hiểu): xác định nội dung văn bản khó và quan trọng; R (Recall - Gợi nhớ): Diễn giải ý tưởng của văn bản và lập sơ đồ cho những nội dung quan trọng; D (Digest - Phân loại, sắp đặt có hệ thống): Phản ánh, xác định các ý tưởng quan trọng và những phần khó hiểu; E (Expand - Mở rộng): Hỏi để biết cách áp dụng các thông tin trong văn bản; R (Review - Xem lại): Phân tích lỗi trong bài kiểm tra. (5) Chiến lược dạy học tương hỗ: Tóm tắt ý chính của văn bản, xây dựng câu hỏi để tổng kế văn bản, lọc ra những nội dung có thể gây nhiễu trong văn bản; dự đoán thông tin sẽ xuất hiện trong văn bản tiếp theo. 9 nhau cấu trúc của văn bản sẽ viết  cung cấp các khung viết mẫu để HS có định hướng và học tập cách tư duy, tổng hợp, phân tích và triển khai vấn đề  viết độc lập. [22, tr. 1057 - 1069], [42, tr. 7 - 18] Cũng với tinh thần dạy học khoa học theo hướng tích hợp, trang web http://www.sciencea-z.com và chương trình Hạt giống Khoa học/ Gốc rễ của việc đọc (Seeds of Science/Roots of Reading) (http://www.scienceandliteracy.org/) thiết kế các hoạt động học tập trong mục đích tích hợp dạy khoa học và kĩ năng ngôn ngữ. Thông qua các nguồn tài liệu phong phú như truyện khoa học có hình ảnh minh họa, các bài đọc nhanh, các bài tập thông qua hình thức trò chơi, trang web giúp HS tiếp cận kiến thức khoa học một cách nhẹ nhàng; đồng thời tạo cơ hội cho các em phát triển kĩ năng ngôn ngữ nói chung, và kĩ năng đọc, viết nói riêng. Đặc biệt, chương trình Hạt giống Khoa học/ Gốc rễ của việc đọc (Seeds of Science/Roots of Reading) (http://www.scienceandliteracy.org/) cung cấp các hoạt động thực hành khoa học tích hợp. Thông qua bốn hoạt động Làm - Nói - Đọc - Viết trong suốt quá trình học tập, HS được tạo cơ hội gắn kết với các khái niệm khoa học và phát triển kĩ năng đọc, viết, thảo luận. Trong chương trình này, các chủ đề theo khối lớp (từ lớp 2 đến lớp 5) bao gồm nhiều bài học khác nhau và mỗi bài học đều có mục tiêu rõ ràng về mặt kiến thức khoa học, kĩ năng đọc, kĩ năng viết, kĩ năng nghe, nói cũng như có hướng dẫn cụ thể về các bước cần thực hiện. Do đó, có thể nói, chương trình Hạt giống Khoa học/ Gốc rễ của việc đọc là một người bạn đồng hành cho những người quan tâm đến mảng tích hợp giữa khoa học và kĩ năng đọc, kĩ năng viết ở đối tượng HS lớp 2 - 5. Như vậy, về việc thiết kế các bài tập khoa học tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng đọc viết, tác giả đề tài chưa tìm thấy các tài liệu của nước ngoài và Việt Nam nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này, nhưng trong những đề tài về giải pháp tích hợp phát triển kĩ năng đọc, viết thông qua môn “Science”, các nghiên cứu có đề cập đến cách thức xây dựng các bài tập này với các hướng: đa dạng ngữ liệu học tập, phương tiện dạy học với các hình thức phong phú (thơ, văn, truyện, thông báo, áp phích, ...); sử dụng các hình thức đồ họa (tranh ảnh minh họa, biểu đồ, …), các khung viết mẫu, trò chơi mở rộng vốn từ để phát triển khả năng diễn đạt, kĩ năng tư duy, kĩ năng phân tích - tổng hợp của 10 HS trên cơ sở của việc học tập thực hành, tương tác. Khía cạnh đánh giá kĩ năng đọc viết khoa học cũng là một vấn đề mà nhiều tổ chức giáo dục và những nhà nghiên cứu quan tâm. Các nghiên cứu của Chương trình đánh giá quốc gia Úc (2012), tổ chức PISA (2000), Cox (2007) trình bày các yếu tố cần đánh giá trong vấn đề này (kiến thức, khái niệm khoa học; kĩ năng khoa học; kĩ năng áp dụng các hiểu biết, kĩ năng khoa học vào hoàn cảnh xác định, ...), mục đích và nhiệm vụ đánh giá. Đồng thời, các nghiên cứu cũng cung cấp các hướng dẫn cụ thể cho việc đánh giá và giới thiệu các mẫu bài kiểm tra. Qua đó, người đọc sẽ có một cái nhìn cụ thể hơn về đọc viết khoa học và nắm rõ việc đánh giá khả năng này ở trẻ. [14], [17], [46] Có thể thấy rằng, việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết qua môn “Science” là xu hướng rất phổ biến trên thế giới, nhưng vẫn chưa được tập trung nghiên cứu nhiều ở Việt Nam. Tại Việt Nam, các nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở các vấn đề tích hợp trong dạy học nói chung (khái niệm, định nghĩa, cách tiếp cận, cách xây dựng kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp) chứ chưa tìm hiểu về mảng tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết thông qua môn TN&XH. Trên thế giới, hầu hết các nghiên cứu liên quan thường đề cập đến các đối tượng HS một cách chung nhất hoặc tập trung nghiên cứu trên các lớp đối tượng lớp 4, lớp 5 (ở bậc Tiểu học) và các lớp cao hơn với việc phân tích cách thức tiến hành, tổ chức các hoạt động thực hành, thực nghiệm khoa học để qua đó, HS thực hành và phát triển đồng thời kiến thức khoa học và kĩ năng đọc viết. Trong các nghiên cứu này, đối tượng HS lớp 3 chưa được tập trung chú ý cụ thể. Hơn nữa, các đề tài chủ yếu hướng vào việc nghiên cứu các biện pháp dạy học để rèn luyện kĩ năng đọc viết khoa học ở HS chứ chưa có đề tài nào đi sâu vào việc xây dựng, phân tích các bài tập hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba. Chỉ có chương trình Hạt giống Khoa học/ Nguồn gốc của việc đọc cung cấp một số hoạt động học tập với các hướng dẫn cụ thể cho đối tượng này. Tuy nhiên, do đặc trưng ngôn ngữ, văn hóa, chương trình đào tạo, ... việc áp dụng các bài tập môn “Science” trên thế giới vào Việt Nam có sự chênh lệch nhất định. Như vậy, có thể nói, bài tập TN&XH tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ. Do đó, nếu có thể 11 xây dựng bài tập TN&XH trong mục đích nêu trên thì HS, GV và những người quan tâm sẽ có thêm một nguồn tài liệu hỗ trợ cho việc phát triển đồng thời kiến thức, kĩ năng khoa học TN&XH hội và kĩ năng đọc, viết. Đó là mong muốn mà người thực hiện đề tài “Xây dựng bài tập Tự nhiên và Xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba” hướng đến. 3. Mục đích nghiên cứu Xây dựng bài tập TN&XH tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba, nhằm củng cố, phát triển kiến thức, kĩ năng TN&XH cũng như kĩ năng đọc, viết cho HS, góp phần đồng hành cùng môn Tiếng Việt trong việc rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ cho các em. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đặt ra, người nghiên cứu tiến hành thực hiện các nhiệm vụ sau:  Nghiên cứu cơ sở lý luận về vấn đề tích hợp rèn kĩ năng đọc, kĩ năng viết thông qua môn TN&XH nói chung và thông qua các bài tập TN&XH nói riêng, đặc biệt tìm hiểu các bài tập môn TN&XH được xây dựng theo hướng tích trên thông qua việc nghiên cứu các tài liệu liên quan và phân tích các dạng bài tập này.  Xây dựng các bài tập TN&XH tích hợp nhằm hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba.  Thực nghiệm các bài tập TN&XH đã xây dựng. 5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 5.1. Khách thể nghiên cứu Vấn đề tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba thông qua môn TN&XH. 5.2. Đối tượng nghiên cứu Bài tập TN&XH hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba. 6. Giả thuyết nghiên cứu Hiện nay, VBTTN&XH 3 chưa được thiết kế trên cơ sở chú trọng tích hợp rèn luyện hai kĩ năng đọc, viết nhằm phối hợp với môn Tiếng Việt trong việc hình thành, phát triển kĩ năng ngôn ngữ cho HS. Vì thế, việc xây dựng và sử dụng bài tập TN&XH 12 tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết một cách khoa học, hợp lí có thể góp phần quan trọng vào quá trình phát triển đồng thời kiến thức, kĩ năng khoa học, xã hội và kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba. 7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu - Giới hạn nghiên cứu: Vì điều kiện nghiên cứu hạn chế, đề tài chỉ nghiên cứu việc xây dựng 17 bài tập TN&XH (tính theo đơn vị bài học) nhằm hỗ trợ việc rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba. - Phạm vi nghiên cứu: Vì điều kiện nghiên cứu hạn chế, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát 294 GV lớp Ba, nhà quản lý trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, TP.HCM; thực nghiệm 97HS của trường tiểu học LCT2., Hóc Môn, TP.HCM và trường tiểu học NTT., Q3, TP.HCM. 8. Phương pháp nghiên cứu 8.1. Câu hỏi nghiên cứu Để giải quyết vấn đề nghiên cứu, đề tài tập trung tìm lời giải cho các câu hỏi sau:  Làm thế nào để xây dựng bài tập TN&XH theo hướng tích hợp hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba.  Việc sử dụng các bài tập này vào chương trình dạy - học môn TN&XH được thực hiện như thế nào?  Những dạng hoạt động nào có thể được sử dụng để tích hợp nội dung rèn kĩ năng đọc, viết vào nội dung TN&XH3?  Các bài tập được xây dựng có tác dụng như thế nào đối với sự hình thành, phát triển kiến thức, kĩ năng Khoa học và kĩ năng đọc, viết của HS lớp Ba? 8.2. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được tiến hành qua việc phối hợp đồng bộ các nhóm phương pháp sau:  Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Nhóm phương pháp này được sử dụng để thu thập, nghiên cứu tài liệu trong nước và ngoài nước về các vấn đề liên quan đến đề tài: kĩ năng đọc, kĩ năng viết; vấn đề dạy học tích hợp nói chung và dạy học tích hợp ngôn ngữ với khoa học nói riêng, 13 việc xây dựng các bài tập TN&XH theo hướng tích hợp rèn kỹ năng đọc, viết. Sau đó, người thực hiện tiến hành phân loại các tài liệu đã tìm được thành năm mảng: với năm mảng chính có liên quan trực tiếp đến đề tài: các tài liệu về dạy học tích hợp nói chung; tài liệu về đọc viết khoa học; tài liệu về “Language Arts”; tài liệu về kĩ năng đọc, kĩ năng viết; tài liệu về tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết vào học tập “Science” và một số biện pháp để thực hiện điều này. Việc làm này được thực hiện giúp người thực hiện xác lập các căn cứ khoa học và cách thức hợp lý để xây dựng các bài tập TN&XH theo hướng tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba.  Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát Trong đề tài, phương pháp quan sát khoa học được sử dụng để thu thập thông tin về thái độ, khả năng chú ý, sự yêu thích khi làm bài của HS nhóm thực nghiệm trong quá trình thử nghiệm bài tập TN&XH hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba. Mặt khác, việc quan sát này còn bao hàm cả quá trình quan sát hoạt động dạy - học của cô và trò trong những tiết học TN&XH có sử dụng các bài tập thử nghiệm. - Phương pháp điều tra Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu ý kiến của GV dạy lớp Ba về vấn đề tích hợp trong chương trình TN&XH; sự cần thiết của việc rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba qua môn TN&XH; thực tế tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp 3 qua môn TN&XH trong chương trình TN&XH hiện nay; cách thức tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba qua môn TN&XH. Theo đó, việc khảo sát được thực hiện từ tháng 1 - tháng 5/2014 trên 294GV lớp Ba của 35 trường tiểu học trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Bình Dương và TP.HCM. Khi tiến hành khảo sát, các GV sẽ trả lời phiếu khảo sát gồm 8 câu hỏi về các vấn đề liên quan. (xin xem phụ lục 1) - Phương pháp phỏng vấn Trong đề tài, phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu về vấn đề tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba thông qua các bài tập TN&XH. Đồng thời, phương pháp này cũng được người nghiên cứu sử dụng để kết hợp 14 với phương pháp xin ý kiến chuyên gia về lĩnh vực dạy học TN&XH ở tiểu học. Việc làm này giúp người nghiên cứu có cái nhìn nhiều chiều về thực tế của việc tích hợp rèn kỹ năng đọc, viết trong chương trình môn TN&XH, tầm quan trọng của việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết thông qua các bài tập TN&XH cũng như nội dung, cách thức xây dựng các bài tập TN&XH tích hợp nhằm rèn luyện kĩ năng đọc, viết cho HS. Bên cạnh đó, việc phỏng vấn cũng được tiến hành để tìm hiểu ý kiến chuyên gia về sản phẩm mà đề tài đã xây dựng ở các mặt nội dung, các hoạt động sử dụng trong các câu hỏi bài tập, câu hỏi bài đọc, hình thức thể hiện (màu sắc, kiểu chữ, cỡ chữ), sự phù hợp với đối tượng học sinh lớp Ba, ... Nhờ đó, người nghiên cứu có những điều chỉnh, cải tiến phù hợp đối với các bài tập TN&XH đã xây dựng. - Phương pháp thực nghiệm khoa học Thực nghiệm khoa học là phương pháp quan trọng trong đề tài nhằm thực nghiệm và đưa ra những đánh giá cần thiết về tính hiệu quả của các bài tập TN&XH mà đề tài đã xây dựng trong việc phát triển đồng thời kiến thức khoa học và kĩ năng đọc, viết cho HS. Thông qua quá trình thực nghiệm, người nghiên cứu có thể thấy được những ưu điểm, hạn chế của các bài tập đã xây dựng; từ đó, cải tiến, phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế để các bài tập ngày càng hoàn thiện hơn. Quá trình thực nghiệm được tiến hành với việc chọn mẫu nghiên cứu là 194HS ở trường tiểu học LCT2., Hóc Môn, TP.HCM và trường tiểu học NTT., Q3, TP.HCM. Việc chọn mẫu nghiên cứu được dựa trên các tiêu chí: các trường được chọn đều chấp thuận và tạo điều kiện cho người nghiên cứu thực hiện khảo sát và thực nghiệm, HS được chọn để khảo sát là các em có sự phát triển bình thường về trí tuệ. Bên cạnh những tiêu chí nêu trên, đề tài thực hiện chọn mẫu bằng cách ngẫu nhiên thuận tiện nhằm đảm bảo tính đại diện và tin cậy đối với kết quả nghiên cứu. Theo đó, các HS lớp 3 của hai trường đều tham gia thực hiện bài kiểm tra ban đầu. Dựa trên kết quả bài kiểm tra này, người nghiên cứu chọn các lớp có kết quả tương đương nhau để làm mẫu nghiên cứu. Sau khi tiến hành chọn mẫu, mẫu nghiên cứu của đề tài bao gồm 194HS chia thành hai nhóm: 97HS ở nhóm thực nghiệm và 97HS ở nhóm đối chứng. Trong đó, 15 mỗi trường đều có một nhóm thực nghiệm (trường TH LCT2., Hóc Môn, TP.HCM: 48HS; trường TH NTT., Q3, TP.HCM: 49HS) và một nhóm đối chứng (trường TH LCT2., Hóc Môn, TP.HCM: 48HS; trường TH NTT., Q3, TP.HCM: 49HS). Điểm cần lưu ý là HS trong nhóm thực nghiệm hoặc nhóm đối chứng trong một trường sẽ học cùng một lớp. Sở dĩ chúng tôi không chọn ngẫu nhiên theo từng trình độ (Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu) và chia ngẫu nhiên số HS này thành hai nhóm đối chứng và thực nghiệm sao cho số HS ở từng trình độ của mỗi nhóm là như nhau là vì việc lựa chọn này có thể gây nên một số vấn đề: Trong cùng một lớp sẽ có em được chọn vào nhóm thực nghiệm, có em không được chọn. Điều này dẫn đến những khó khăn khi đề tài tiến hành thực nghiệm bài tập ở giai đoạn hai. Mặt khác, điều này tạo nên sự không công bằng giữa các đối tượng HS vì trong cùng một lớp sẽ có em được chọn, có em không được chọn để tham gia nghiên cứu. Trong đề tài, việc thực nghiệm được tiến hành qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1: Thu thập, phân tích cơ sở dữ liệu về HS lớp Ba mà nhà trường cung cấp; tiến hành bài kiểm tra ban đầu để xác định nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm; khảo sát ý kiến của GV và chuyên gia về việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết thông qua các bài tập TN&XH; xây dựng và thí điểm các bài tập để đánh giá độ phân biệt, độ tin cậy, ưu và khuyết điểm của bài tập để đưa ra những lưu ý cần thiết cho việc xây dựng, cải tiến và thử nghiệm bài tập ở giai đoạn 2. Giai đoạn 2: Thử nghiệm bài tập trên nhóm thực nghiệm; tiến hành bài kiểm tra cuối đợt, so sánh kết quả trước và sau thực nghiệm; phỏng vấn chuyên gia, GV và HS về những bài tập TN&XH mà đề tài đã thiết kế; rút ra các kết luận và đề xuất.  Nhóm các phương pháp toán học Nhóm các phương pháp này giúp chúng tôi thống kê, phân loại, phân tích, so sánh hệ thống các cứ liệu thực tế để có thể đánh giá, phân tích và rút ra kết luận, một số đề nghị trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Cụ thể, đề tài tiến hành thu thập thông tin từ trường TH LCT2., Hóc Môn, TP.HCM, trường TH NTT., Q3, TP.HCM để có số liệu ban đầu về HS lớp Ba. Sau đó, kết quả bài kiểm tra khảo sát ban đầu sẽ được thống kê, đánh giá, so sánh để chọn ra nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng. Trong 16 quá trình thực nghiệm, kết quả thực hiện các bài tập TN&XH được thiết kế theo hướng tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết của nhóm thực nghiệm cũng như các thông tin thu được từ việc ghi chép nhật ký thử nghiệm sẽ được ghi chú phân tích. Cuối cùng, kết quả bài kiểm tra cuối đợt được so sánh với kết quả bài kiểm tra ban đầu, thực hiện phân tích, so sánh số liệu, đánh giá chi tiết để đưa ra các kết luận và kiến nghị cần thiết. 9. Đóng góp của đề tài 9.1. Đóng góp về mặt lý luận Đề tài góp phần tìm hiểu vấn đề tích hợp trong giáo dục nói chung và vấn đề tích hợp rèn kĩ năng đọc viết trong học tập môn khoa học về TN&XH ở cấp Tiểu học, mà đặc biệt là lớp Ba nói riêng trên thế giới và ở Việt Nam. Mặt khác, đề tài cũng tìm hiểu việc thể hiện xu hướng tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết trong các tài liệu học tập môn “Science” lớp Ba trên thế giới và môn TN&XH lớp Ba ở Việt Nam. Qua đó, đề tài góp phần giúp những người quan tâm có hiểu biết thêm về việc tích hợp trong dạy học TN&XH, việc xây dựng hệ thống bài tập TN&XH theo xu hướng tích hợp phù hợp với mục đích đề ra. 9.2. Đóng góp về mặt thực tiễn Đề tài mong muốn tạo nguồn tài liệu học tập TN&XH hỗ trợ cho việc phát triển kĩ năng đọc, viết của HS lớp Ba. Qua đó, HS được phát triển đồng thời kiến thức, kĩ năng khoa học, xã hội và kĩ năng đọc, viết để tạo tiền đề cho việc phát triển tư duy, kĩ năng khoa học và các kĩ năng ngôn ngữ, đón đầu định hướng dạy học phát triển năng lực của chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam sau 2015 9.3. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có ba chương: Chương 1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn; Chương 2. Bài tập môn Tự nhiên và Xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp Ba; Chương 3. Thực nghiệm bài tập Tự nhiên và Xã hội hỗ trợ rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp Ba. Bên cạnh các trang chính văn, luận văn còn có các trang phụ lục gồm: Phiếu tìm hiểu quan điểm về việc tích hợp rèn kĩ năng đọc, viết cho HS lớp Ba qua môn TN&XH; câu hỏi phỏng vấn; bài kiểm tra TN&XH; bài kiểm tra Tiếng Việt; các bài 17 tập TN&XH theo hướng tích hợp mà đề tài đã xây dựng; bảng kết quả thống kê về độ tin cậy của các bài tập đã xây dựng; bảng kết quả nhóm đối chứng - nhóm thực nghiệm trước - sau thực nghiệm; trích nhật ký thực nghiệm; hình ảnh thực nghiệm; v.v... 18 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Kĩ năng đọc, kĩ năng viết và một số yếu tố liên quan 1.1.1.1. Kĩ năng đọc Đọc là hoạt động mà ở đó người thực hiện sử dụng những kiến thức về ngôn ngữ và hiểu biết liên quan để giải mã ký tự của văn bản viết và truy tìm ý nghĩa của nó nhằm trao đổi, giao tiếp với người viết, để mở rộng vốn hiểu viết và phát triển nhân cách cá nhân. [7, tr.86] Đọc thành thạo là một kĩ năng phức hợp đòi hỏi sự phối hợp và tương tác của nhiều kĩ năng. Mặc dù khó có thể tách rời các kĩ năng này trong một người đọc thành thạo trưởng thành, nhưng cũng không thể tích hợp chúng hoàn toàn trong những giai đoạn đầu của quá trình học đọc. [7, tr.87] 1.1.1.2. Kĩ năng viết Viết là một hoạt động mà ở đó người thực hiện thể hiện suy nghĩ của mình bằng ngôn ngữ viết với việc dùng các hình thức diễn đạt, từ vựng hợp lý. Một người có kĩ năng viết phải biết dùng từ phù hợp (sự phù hợp bao gồm phù hợp trong ngữ cảnh xác định, phù hợp ngữ nghĩa và phù hợp với kiểu văn bản nhất định); biết đặt từ, đặt câu vào vị trí thích hợp trong câu; biết sử dụng kiểu văn bản phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng tiếp nhận văn bản; biết cách diễn đạt để thể hiện trọn vẹn ý chính. [13] 1.1.1.3. Một số yếu tố liên quan đến kĩ năng đọc và kĩ năng viết Theo nghiên cứu của nhiều tác giả, có nhiều yếu tố liên quan đến kĩ năng đọc và kĩ năng viết nhưng nổi bật nhất có thể kể đến các yếu tố nền tảng sau đây:  Ý thức văn bản in (Print awareness) Ý thức văn bản in là sự hiểu biết rằng những từ ngữ hiển thị trên giấy là có ý nghĩa và nó có liên quan đến ngôn ngữ nói. Ý thức văn bản in giúp trẻ biết rằng văn bản nhìn sẽ khác nhau tùy thuộc vào việc nó được sử dụng như thế nào. Khi trẻ bắt đầu có ý thức về văn bản in, trẻ sẽ nhận thức được rằng những từ được in trong giấy thực sự là chữ in chứ không phải là biểu tượng hình vẽ. Có thể nói, ý thức văn bản in là một kĩ năng nền tảng quan trọng vì nó 19 giúp cho HS biết rằng văn bản in được sử dụng như thế nào. Các nghiên cứu về phát triển ngôn ngữ của trẻ cho thấy những trẻ em yếu kém về ý thức văn bản in sẽ khó có thể trở thành người đọc thành công. [34]  Khả năng nhận diện từ - giải mã kí tự (Word recognition and Phonics) Kĩ năng giải mã là hoạt động tạo cơ sở cho việc hiểu nghĩa văn bản và được nhấn mạnh trong giai đoạn học vần. Kĩ năng này được thực hiện theo cấp độ cấu tạo của các đơn vị ngôn ngữ: vần, từ, ngữ, câu, đoạn và bài. Trong đó, việc phân tích ngữ âm được thực hiện ở giai đoạn học vần. Ở giai đoạn sau, HS cần được hướng dẫn rèn kĩ năng phân tích cấu trúc và kĩ năng phân tích ngữ cảnh. [7, tr.91] Nhận diện từ là điểm then chốt của quá trình lĩnh hội năng lực đọc. Với tư cách là một người đọc, HS cần phải có khả năng nhận diện từ. Để đạt được điều này, HS cần đạt được các điều kiện sau đây: - HS nhận ra được sự tồn tại của từ ngữ trong bản chữ viết và trong chuỗi lời nói, hiểu rằng biểu tượng chữ viết được mã hóa thành lời nói. - HS được nuôi dưỡng và phát triển thông qua việc nghe đọc và quan sát người khác đọc. - HS có ý thức ngữ âm. - HS hiểu biết về các chữ cái. Để phát triển kĩ năng nhận diện từ, GV có thể lưu ý một số cách như sau: - Dạy cho HS tính tương hợp giữa âm và chữ. Bên cạnh đó, HS phải nắm vững cách kết hợp các chữ cái thành tiếng và cách tách tiếng thành các chữ cái riêng biệt. - Giúp HS chú ý vào trật tự chuỗi với sự tương hợp âm - chữ; chú ý đến tốc độ đọc âm, tiếng, từ, câu - Làm mẫu các âm, từ mới; sửa chữa lỗi kịp thời và tường minh; hướng dẫn HS đọc các bài luyện đọc từ dễ đến khó. - Tạo cơ hội cho HS thực hành và luyện tập mỗi ngày dựa trên khả năng và sự ưa thích của trẻ. [7, tr. 21, 27]  Vốn từ (Vocabulary) Từ vựng giữ một vai trò rất quan trọng trong việc đọc và viết vì nếu không có 20 vốn từ, trẻ sẽ gặp khó khăn trong việc hiểu nội dung mà ngữ liệu muốn truyền tải. Thêm vào đó, nếu có vốn từ nghèo nàn, trẻ sẽ khó có thể diễn đạt trọn vẹn điều mình muốn bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. [34, tr.22] Bàn về vấn đề vốn từ của HS, có thể nói, vốn từ nhận biết có vai trò rất quan trọng. Đó là những từ ngữ mà HS có thể nhận ra ngay để đọc mà không cần thời gian ngừng để suy nghĩ. Vốn từ nhận biết chỉ những từ ngữ mà học sinh có thể nhận ra ngay để đọc mà không cần thời gian để ngừng và suy nghĩ. Vốn từ nhận biết là những từ được truy xuất nhanh dựa vào các mô hình chữ viết được lưu trữ trong trí nhớ hơn là việc giải mã những mô hình âm thanh riêng lẻ thể hiện bằng các con chữ. Vốn từ này được hình thành thông qua những lần đọc lặp lại một từ nào đó một cách chính xác. Việc giải mã trôi chảy phụ thuộc vào rất nhiều vào sự phát triển của vốn từ nhận biết. Vì vậy, vốn từ nhận biết có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển năng lực đọc của học sinh, giúp các em có thể nhận ra, hiểu và đọc lớn được các từ ngữ ấy ngay lập tức trong văn bản. Nói cách khác, đây là yếu tố quan trọng và có ảnh hưởng đến khả năng nhận diện từ của HS. [7, tr. 90, 91] Khi dạy từ vựng cho HS, GV cần lưu ý một số vấn đề sau đây: - Dạy từ vựng vừa theo cách trực tiếp, vừa theo cách gián tiếp: GV cung cấp định nghĩa chính xác và đưa ra các ví dụ về từ đó để HS học từ hoặc có thể dạy từ thông qua việc cho HS làm quen với từ điển hoặc cho từ xuất hiện trong các ngữ cảnh khác nhau để các em có thể đoán được nghĩa của từ không quen thuộc. - Dạy từ ngữ trên cơ sở đặt từ trong nhiều ngữ cảnh khác nhau: trong những ngữ cảnh khác nhau, việc sử dụng từ ngữ cũng sẽ khác nhau. Do đó, GV cần lựa chọn ngữ liệu lựa chọn phù hợp với các ngữ cảnh để đưa các từ vựng cần thiết vào và hướng dẫn HS nắm nghĩa, cách sử dụng các từ ngữ này. - Tạo điều kiện cho HS làm việc với từ mới bằng nhiều con đường khác nhau:  Đặt từ mới trong một câu: Đây là cách để củng cố và kiểm tra khả năng nắm nghĩa của từ của HS. Việc kết nối từ mới với kinh nghiệm cá nhân hoặc kiến thức cơ bản là một cách để HS có thể hoàn thành nhiệm vụ này. Ví dụ: Cha mẹ dẫn tôi đi “đại dương” lần đầu tiên.  Sai
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan