Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở việt nam hiện n...

Tài liệu Xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở việt nam hiện nay

.PDF
94
636
98

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ HƯƠNG XÂY DỰNG LỐI SỐNG ĐẸP CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60 22 03 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS.NGUYỄN THU NGHĨA HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Nguyễn Thu Nghĩa. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thực hiện thăm dò khảo sát; một số khác được thu thập từ các nguồn khác nhau đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc rõ ràng trong phần tài liệu tham khảo. Học viên Hoàng Thị Hương MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG ĐẸP CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ..........................................................................................................10 1.1. Khái niệm lối sống, lối sống đẹp ..............................................................10 1.2. Tầm quan trọng, nội dung và một số nhân tố tác động đến việc xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở nước ta hiện nay ...26 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ....................................................................................36 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG LỐI SỐNG ĐẸP CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY......................................................................................................................38 2.1. Thực trạng lối sống sinh viên các trường đại học sư phạm ở nước ta hiện nay....................................................................................................................38 2.2. Các giải pháp xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở nước ta hiện nay..................................................................................65 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ....................................................................................76 KẾT LUẬN .........................................................................................................78 DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................80 PHỤ LỤC ............................................................................................................87 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Thực trạng ghi chép bài của sinh viên .................................................43 Bảng 2.2. Hứng thú của sinh viên với các hình thức dạy học ..............................44 Bảng 2.3. Thực trạng chuyên cần của sinh viên ..................................................45 Bảng 2.4. Thực trạng nghiên cứu khoa học của sinh viên ...................................47 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD & ĐT) đang tiến hành đổi mới chương trình giáo dục phổ thông nhằm phát triển năng lực và phẩm chất toàn diện đức - trí - thể - mỹ cho học sinh, vì thế, thầy cô giáo trong tương lai cũng cần phải có đầy đủ tri thức, phẩm chất, đạo đức cần thiết để đáp ứng được yêu cầu của ngành. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra cho các trường sư phạm trong cả nước là cần chú trọng nhiều hơn nữa tới việc bồi dưỡng giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên để họ có thể đảm nhiệm được những yêu cầu đổi mới. Tại Hội nghị quán triệt Nghị quyết 29-NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo do Bộ GD & ĐT tổ chức mới đây, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cũng nhấn mạnh: có những thứ không cần dự án triệu đô, không cần đến tiền mà vẫn có thể làm ngay, đó là dạy cho học sinh, giáo viên đạo đức, lối sống làm người[85]. Song, có một thực tế là trong những năm gần đây, đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên đang có những biểu hiện suy thoái, lệch lạc khiến các bậc làm cha mẹ, những người làm công tác giáo dục và cả xã hội vô cùng lo lắng. Nhiều hội thảo, nhiều chuyên gia đã đi sâu nghiên cứu, lí giải nguyên nhân cho vấn đề này; nhiều giải pháp đã được đưa ra nhằm tăng cường công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho các em song vấn đề giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên các trường đại học sư phạm (ĐHSP) ở nước ta - những người sẽ lấy nhân cách để giáo dục nhân cách, lấy trái tim để nuôi dưỡng tâm hồn học sinh - lại chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù các trường ĐHSP đều nhấn mạnh mục tiêu đào tạo ra những thầy cô giáo tương lai không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn cần phải có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, có lối sống trong sạch, lành mạnh, là những tấm gương sáng để các em noi theo song một số môn học mang tính giáo dục về phẩm chất, lối sống như học phần về đạo đức, kỹ năng sống, giáo dục pháp luật… lại chưa được giảng dạy phổ biến tới mọi sinh viên trong nhà trường mà thường chỉ được giảng dạy ở các khoa đặc thù và các khoa thuộc 1 chuyên ngành xã hội nhân văn. Điều này khiến chính sinh viên các trường ĐHSP cũng rất mơ hồ với những quy chuẩn đạo đức, nghề nghiệp của mình dẫn đến hệ quả là nhiều sinh viên ra trường khi trở thành giáo viên phổ thông chưa có lối sống và cách hành xử đúng mực để học sinh noi theo. Chúng ta đều biết tác động đến người thầy để làm thay đổi trò là hướng đi ngắn và hiệu quả nhất, bởi đạo đức, nhân cách, lối sống người thầy sẽ quyết định đến đạo đức và lối sống của trò, của thế hệ sau. Điều này cũng chính là đặc thù khác biệt của nghề giáo so với những nghề khác - đó là đối tượng tác động và phương tiện tác động. Đối tượng tác động của giáo dục là con người có ý thức, có nhận thức và xúc cảm; trong giáo dục có một đặc trưng là sự noi gương -chính sự kính trọng, ngưỡng mộ của học trò với lối sống, tài năng, nhân cách của thầy cô là xuất phát điểm cho niềm tin vào cái đẹp, cái thiện trong cuộc đời, là sự khởi đầu cho sự hình thành nhân cách của trò. Đặc trưng nghề nghiệp đòi hỏi người thầy không chỉ cần có kiến thức và năng lực sư phạm, phương tiện giáo dục quan trọng nhất chính là lối sống, nhân cách của người thầy. Một lối sống đẹp và chuẩn mực của người thầy nhiều khi còn cao hơn hàng trăm ngàn lời khuyên răn đạo đức. Nhà giáo dục nổi tiếng người Nga K.D.Usinxki cũng từng nói: "Nhân cách của người thầy là sức mạnh có ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức, bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác" [32, tr.190]. Bởi thế sẽ không thể tính đếm hết hậu quả nặng nề từ những ứng xử phi sư phạm của người thầy trong môi trường giáo dục; cũng bởi thế, người thầy cần được xây dựng lối sống đẹp, lối sống chuẩn mực ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường các trường đại học sư phạm. Lối sống, nhân cách, đạo đức nhà giáo không bao giờ là vấn đề xưa cũ, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, chúng càng mang tính thời sự. Với mỗi nghề, bên cạnh những tiêu chuẩn chung cho mọi lĩnh vực thì đều có những tiêu chuẩn đạo đức riêng phù hợp với tính đặc thù của ngành đó. Đối với nghề thầy giáo - nghề cao quý trong những nghề cao quý, sáng tạo nhất 2 trong những nghề sáng tạo, thì từ lâu trong xã hội đã hình thành những quy tắc, chuẩn mực của nhà sư phạm, đến nay đã thành truyền thống. Tuy nhiên, ngày nay, sự biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội, của toàn cầu hóa cũng như thông tin, truyền thông đã tác động không nhỏ tới đời sống xã hội nói chung, đời sống đạo đức nói riêng, trong đó có cả sự biến đổi của đạo đức, lối sống người thầy theo nhiều chiều hướng khác nhau. Vì vậy, cần phải có sự nhìn nhận, đánh giá, định hướng thật đầy đủ về đạo đức nghề nghiệp, về lối sống của những giáo viên tương lai, phải thực sự coi đó như là yếu tố nội lực của sự phát triển. Tuy nhiên, để người thầy, người cô có đạo đức tốt, có lối sống đẹp của một nhà giáo thì không phải tự nhiên có mà nó phải được xây dựng từ khi còn là sinh viên các trường sư phạm và hơn thế - phải tích cực rèn luyện, phấn đấu trong suốt cuộc đời người giáo viên của mình. Do vậy, xây dựng lối sống đẹp gắn liền với giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho các thế hệ sinh viên sư phạm cần phải được xem là một trong những biện pháp then chốt của nhà trường sư phạm nhằm tạo ra những giáo viên có chuyên môn vững vàng, có năng lực sáng tạo và phẩm chất đạo đức tốt. Bởi vậy, vấn đề giáo dục lối sống, đạo đức nghề nghiệp và tình yêu nghề của giáo sinh thực sự đã trở nên cấp thiết. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn “Xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài - Nghiên cứu về lối sống Lối sống và các vấn đề liên quan đến lối sống là những nội dung được các nhà nghiên cứu và làm chính sách quan tâm từ rất sớm. Ngay từ cuối những năm 70 của thế kỉ trước, nhiều tài liệu về lối sống của Liên Xô đã được dịch ra tiếng Việt, trong số này nổi bật là các cuốn “Lối sống xã hội chủ nghĩa và các cuộc đấu tranh tư tưởng hiện nay” (Tập thể tác giả (1976), Nxb Mátxcơva (tiếng Việt)); “Nghiên cứu xã hội học về lối sống ở Liên Xô” (Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Xã hội học (1983), Nxb Sự thật, Hà Nội). Sau đó là một số sách “Về lối sống mới của chúng ta” của Phong Châu và Nguyễn Trọng Thụ (Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983); “Bàn về lối sống và nếp sống chủ nghĩa xã hội” của Trần Thủ 3 Độ (Chủ biên) (Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1985)…. Các cuốn sách này đã tìm hiểu các vấn đề về lối sống chủ yếu dưới góc nhìn xã hội học, đưa ra những quan niệm khác nhau về lối sống và vận dụng nó trong sự nghiệp đấu tranh chống lối sống cá nhân, lối sống thực dụng nhằm mục đích xây dựng lối sống mới - lối sống xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn sau khi “mở cửa” nền kinh tế, vấn đề lối sống, biến đổi lối sống lại càng được nghiên cứu sâu sắc hơn. Nhiều đề tài nghiên cứu độc lập và chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước về lối sống, lối sống thanh niên được triển khai nghiên cứu. Trong số này có thể kể đến các cuốn: “Lối sống trong đời sống đô thị hiện nay” của Lê Như Hoa (Chủ biên, Nxb Văn hóa - thông tin, Hà Nội, 1993);“Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hoá” của ThanhLê (Nxb Khoa học xã hội, 2001); “Một số vấn đề về lối sống đạo đức, chuẩn giá trị xã hội”của Huỳnh Khái Vinh (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001);“Lối sống dân tộc - hiện đại: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn” của Đỗ Huy (Nxb Văn hoá - Thông tin & Viện Văn hoá, Hà Nội 2008); “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); “Giáo dục các giá trị truyền thống dân tộc cho thanh niên hiện nay” - Bùi Ngọc Minh (Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2004).... Cuốn“Lối sống trong đời sống đô thị hiện nay”, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1993là một công trình vừa mang tính nghiên cứu, vừa là một kỷ yếu được chọn từ các bài tham luận tại Hội thảo khoa học về lối sống trong đời sống đô thị do Viện Văn hóa tổ chức ở Hà Nội vào tháng 10 - 1992. Lối sống đô thị được tìm hiểu từ vấn đề từ vĩ mô như văn hóa, kinh tế, đặc điểm nguồn lao động… đến những nội dung cụ thể như nghệ thuật, giáo dục trẻ em, văn hóa tiêu dùng, thời trang, nhà ở… Cuốn“Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hoá” của tác giả Thanh Lê, Nxb Khoa học xã hội, 2001 đã đi sâu nghiên cứu khái niệm “lối sống” với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội, xem nó như một “chính thể sinh động cụ thể” với những “chi tiết của các quan hệ xã hội khác nhau: sản xuất, 4 sinh hoạt, văn hóa, gia đình v.v... nói lên đặc trưng của một xã hội nhất định. Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ thì vấn đề lối sống đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần được quan tâm giải quyết và tác giả với những luận cứ của mình chứng minh được những ưu thế nổi bật của lối sống xã hội chủ nghĩa - lối sống mà theo tác giả phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuốn Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do tác giả Nguyễn Viết Chức chủ biên, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2001 gồm các bài tham luận của nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý văn hóa, ở những góc độ khác nhau đã đề cập đến tầm quan trọng và cần thiết của việc xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội. Cuốn Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội do tác giả Huỳnh Khái Vinh chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001 đã trình bày rất kỹ về lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội để đi đến khẳng định, đây là những yếu tố cơ bản trong đời sống xã hội của mỗi con người và mỗi nền văn hóa, gắn liền với các cơ sở kinh tế, chính trị, tư tưởng và mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội. Trên cơ sở phân tích thực trạng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội mới, các tác giả đã đưa ra những phương hướng, quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội mới. Trong cuốn Lối sống dân tộc - hiện đại mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tác giả Đỗ Huy đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn của lối sống dân tôc- hiện đại xã hội chủ nghĩa mà theo tác giả, đó là sản phẩm tất yếu của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Công trình này không chỉ bàn về khái niệm lối sống, phân biệt lối sống với những khái niệm gần gũi (nếp sống, mức sống, lẽ sống, chất lượng sống…) mà còn tập trung phân tích và làm sáng tỏ bản chất xã hội của lối sống, nêu lên những yêu cầu của lối sống dân tộc - hiện đại cũng như phân tích thực trạng đạo đức, lối sống và sự biến đổi về giá trị, chuẩn giá trị của người Việt Nam hiện nay. 5 Công trình “Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do tác giả Nguyễn Ngọc Hà chủ biên,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011 ngoài phần trình bày lý luận về tư duy, lối sống, các tác giả còn phân tích sâu đặc điểm tư duy và lối sống của người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay trên các phương diện: lao động sản xuất, hoạt động chính trị, sinh hoạt văn hoá, phong tục tập quán; phân tích tác động của các chính sách, thể chế xã hội, thể chế kinh tế thị trường, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến tư duy, lối sống mới của người Việt Nam; đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới tư duy và lối sống của người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế… Ngoài ra, chúng tôi còn thấy rất nhiều các bài viết trên các báo có liên quan đến đề tài như:“Xây dựng đạo đức, lối sống và chuẩn mực giá trị xã hội để hoàn thiện phát triển con người”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 03/1998 của Huỳnh Khái Vinh; “Xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” của tác giả Trần Văn Bính, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2013, Lối sống người Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hóa hiện nay của tác giả Nguyễn Văn Huyên, tạp chí Triết học, số 12, 2003,… - Nghiên cứu về lối sống của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng: Lối sống của thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm, tìm hiểu.Gần đây, vấn đề lối sống của thanh niên và sự biến đổi của nó được tiếp cận dưới góc nhìn của khoa học liên ngành. Đáng chú ý trong số đó là cuốn “Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Đây là một trong những kết quả nghiên cứu chính của đề tài "Thực trạng và xu hướng biến đổi lối sống của thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế" do PGS.TS Phạm Hồng Tung làm chủ nhiệm. Đây là đề tài cấp Nhà nước thuộc Chương trình KX.03/06-10 do Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển - ĐH Quốc gia Hà Nội chủ trì thực hiện. Công trình này tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và cách tiếp cận khi nghiên cứu về thanh niên và lối sống của thanh niên. 6 Trên cơ sở các kết quả điều tra xã hội học, thực chứng từ tư liệu báo chí cùng nhiều phương pháp nghiên cứu khác, các tác giả đã phân tích rõ các xu hướng biến đổi tiêu cực và tích cực trong lối sống hiện nay của thanh niên; chỉ ra các biểu hiện, phân tích mức độ và cảnh báo hậu quả đối với sự phát triển xã hội. Từ đó, các tác giả đề xuất các nhóm giải pháp thực tiễn liên quan đến đường lối, chính sách Nhà nước; đến hoạt động của tổ chức đoàn, hội của thanh niên... Tác giả Đỗ Long trong bài “Lối sống và nhân cách của thanh niên”, Tạp chí Tâm lý học, số 8/1996 đã đề cập vấn đề mối quan hệ giữa lối sống và việc hình thành nhân cách cho thanh niên. Tác giả Trần Thị Minh Đức với công trình “Ảnh hưởng của môi trường ký túc xá sinh viên với lối sống sinh viên nội trú”, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 6/1995 đã phân tích thực trạng lối sống của sinh viên cả mặt tích cực và tiêu cực trong môi trường ký túc xá, từ đó nêu lên những kiến nghị cải tạo điều kiện sống ở ký túc xá và việc giáo dục lối sống cho sinh viên nội trú để sinh viên trong môi trường nội trú có thể xây dựng lối sống phù hợp. Một số luận án tiến sĩ nghiên cứu cụ thể hơn về thanh niên và lối sống của họ ở một địa phương nhất định dưới lăng kính của tâm lý học, xã hội học như luận án tiến sĩ của Nguyễn Ánh Hồng có tên “Phân tích về mặt tâm lý học lối sống của sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh ”; luận án tiến sĩ của Đặng Quang Thành có tên “Xây dựng lối sống có văn hóa của thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.... Ngoài ra còn có các bài viết“Tác động toàn cầu hóa đến đạo đức sinh viên hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4 (155), tháng 4 - 2004 của Võ Minh Tuấn; “Định hướng cái đẹp cho thanh niên”, Tạp chí Xây dựng Đảng (online - đăng 10:36' 26/3/2013) của Nguyễn Đức Vinh, Bùi Văn Hải; “Giáo dục lối sống cho sinh viên - một khía cạnh của giáo dục thẩm mỹ”, Tạp chí Tâm lý học số 5 (110), 5/ 2008 của Nguyễn Phương Huyền... Như vậy, vấn đề lối sống đã được nghiên cứu và khái quát ở nhiều góc tiếp cận khác nhau, nhờ đó chúng ta có cái nhìn đa chiều, toàn diện về lối sống. Ngoài ra, những công trình trên cũng chỉ ra mối quan hệ giữa lối sống, đạo đức với phát triển văn hoá và con người; sự tác động của các nhân tố 7 chính trị, kinh tế, xã hội đến lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội, từ đó đề xuất giải pháp xây dựng đạo đức, lối sống, chuẩn giá trị xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Song nghiên cứu cụ thể về việc xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường sư phạm lại chưa có một công trình nghiên cứu nào. Chính vì vậy, chúng tôi chọn vấn đề “Xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường sư phạm ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Triết học của mình. Các công trình trên đây chính là những tư liệu quý, cung cấp cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mụcđích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề về lối sống, lối sống đẹptheo quan điểm mácxít, cũng như tầm quan trọng, nội dung và yêu cầu xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm,luận văn tiến hành tìm hiểu thực trạng lối sống của sinh viên ở một số trường đại học sư phạm và đề xuấtcác giải pháp xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường đại học sư phạm ở nước ta hiệnnay. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích này, luận văn giải quyết các nhiệm vụ sau: + Làm rõ một số vấn đề lí luận về lối sống như: khái niệm lối sống, lối sống đẹp, tầm quan trọng, yêu cầu và nội dung cơ bản trong xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên đại học sư phạm hiện nay. + Phân tích thực trạng lối sống của sinh viên các trường ĐHSP ở nước ta hiện nay để chỉ ra những ưu điểm và hạn chế. + Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm xâydựng lối sống đẹp cho sinh viên các trường ĐHSP ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Lối sống của sinh viên của các trường ĐHSP ở nước ta hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu: Lối sống của sinh viên các trường ĐHSP ở nước ta trong các hoạt động cơ bản: Học tập, hoạt động chính trị - xãhội, đời sống văn hoá tinh thần. 8 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng ta về lối sống, đồng thời kế thừa một cách có chọn lọc ý tưởng của các tác giả đi trước về vấn đềnày. - Luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản: Lịch sử - lôgíc, phân tích tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn, điều tra xã hộihọc. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn bản chất và những đặc trưng cơ bản của lối sống nói chung, lối sống của sinh viên ở các trường đại học sư phạm nói riêng; giúp cho nhà trường và các nhà làm chính sách có cái nhìn đầy đủ về lối sống của sinh viên đại học sư phạm hiện nay. - Khảo sát thực trạng lối sống của sinh viên các trường đại học sư phạm hiện nay làm cơ sở thực tế cho việc xây dựng chương trình, kế hoạch và giải pháp cụ thể để xây dựng lối sống đẹp cho sinh viên đại học sư phạm. - Làm tài liệu tham khảo để xây dựng các chương trình giáo dục lối sống, đạo đức của sinhviên. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG LỐI SỐNG ĐẸP CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.1. Khái niệm lối sống, lối sống đẹp 1.1.1. Khái niệm lối sống Lối sống là đề tài thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế chính vì vậy, đãcórấtnhiềucôngtrình nghiên cứu về lối sống, tiếpcậnđối tượng nghiên cứu dưới nhiều gócđộkhácnhauvàcónhiềucách định nghĩa khác nhau về phạm trù“lốisống”. Trong tiếng Anh, người ta sửdụng một số thuật ngữ khác nhau để diễn đạt cáchhiểuvề lối sống, trong đó có hai cách diễn đạt chủyếulà “Way of Living”, “Way of Life”.Ngoài ra, còn có một số thuật ngữ gầngũi khác cũng được sử dụng với nghĩa tương đương trong ngônngữthường nhật như “Life Style” hoặc “LifeForm”.Trong tiếng Việt, thuật ngữ “lối sống” được sử dụng khá phổ biến nhưng ít khi được định nghĩa rõ ràng về nội hàm với tính cách một phạm trù khoa học. Có thể kể đến một số cụm từ thường được nhắc đến nhiều trên các phương tiện thông tin truyền thông hiện nay như lối sống giản dị, lối sống truyền thống, lối sống hiện đại, lối sống cấp tiến, lối sống lành mạnh hay lối sống phô trương, lối sống đua đòi, lối sống thực dụng, lối sống thác loạn của một số bộ phận giới trẻ… (Ở Việt Nam, thuật ngữ lối sống Phương Tây/lối sống hiện đại được nhắc nhiều trong sự đối lập với lối sống truyền thống dân tộc theo kiểu Á Đông và thường được cho là mặt trái, thiếu lành mạnh và tiêu cực với một số hiện tượng như sống ảo, sống thử, lối sống nổi loạn, lối sống thực dụng, lối sống ngoại lai, lối sống cá nhân ích kỉ, lối sống hào nhoáng, chạy theo giá trị đồng tiền,…). Như vậy, thuật ngữ “lối sống” thường gắn với sự mô tả hay nhận định, đánh giá về một loại hoạt động sống hay cách sống nào đó… Trong tiếng Việt, đôi khi người ta cũng sử dụng những khái niệm gần gũi thay thế cho từ “lối sống” với ý nghĩa tương tự như “nếp sống”, “lẽ sống”, “cách sống”, “phong cách sống”, “phương thức sống” v.v,.. 10 Với tư cách là một thuật ngữ khoa học, khái niệm lối sống lần đầu tiên được Max Weber sử dụng. Ông đã mô tả sự phân tầng xã hội theo một hình tam giác mà đỉnh của nó là các tầng lớp trên, chủ sở hữu; phần giữa là tầng lớp trung lưu; còn đáy của tam giác là những người nghèo. Mỗi tầng lớp lại được chia thành các nhóm với địa vị, thu nhập, tiện nghi sinh hoạt khác nhau. Tuy vậy, lối sống, kiểu sống của các nhóm xã hội này lại chỉ được mô tả bằng những số liệu thống kê, nằm trong sự phân tích chung về phân tầng xã hội [64,tr.8]. Đến thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, phong trào nghiên cứu về lối sống phát triển mạnh mẽ ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Đi đầu trong số này là các nhà xã hội học Xô viết với các định nghĩa của M.N. Rutkevich: “Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các nhóm dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [74, tr.11]; của Đôbơrianốp: “Lối sống là sinh hoạt cá nhân, chủ quan hóa của hệ thống những quan hệ xã hội, của toàn bộ tổng thể những điều kiện sống, thể hiện trong hoạt động của con người” [19, tr.213]; của Sôrôkhôva: “Lối sống là toàn bộ những hình thức hoạt động sinh sống tiêu biểu, là phương thức hoạt động đã được xác định”[28, tr.12]; của Daxêpin: “Lối sống là tập hợp những hình thức hoạt động của con người trong một thể thống nhất với môi trường hoạt động của xã hội và cá nhân” với cách phân chia 5 dạng hoạt động cơ bản của lối sống là: hoạt động cải tạo, hoạt động định hướng, hoạt động giao tiếp và hoạt động nghệ thuật [31,tr.13]. Nhìn chung, các nghiên cứu này đều xuất phát từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất, từ đó đề xuất những quan điểm để xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa. Song những tiêu chí nghiên cứu thường mang tính suy diễn, hoạch định trước và luôn nằm trong quan hệ đối lập với lối sống tư bản chủ nghĩa nên ít nhiều các nghiên cứu này còn thiếu tính khách quan. Chịu ảnh hưởng bởi cách thức tiếp cận nghiên cứu này, GS Vũ Khiêu cho rằng: “Lối sống trước hết là một phạm trù xã hội học. Triết học, từ góc độ của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phân tích bản chất và quy luật của lối sống. Kinh tế 11 chính trị học tìm hiểu lối sống từ cơ sở vật chất của xã hội. Xã hội học đặt vấn đề lối sống như một chỉnh thể và nghiên cứu lối sống từ mọi lĩnh vực của hình thái kinh tế - xã hội, nghĩa là trong toàn bộ hoạt động sống của con người. Từ phạm vi rộng lớn ấy của lối sống, xã hội học có thể định nghĩa lối sống như sau: Lối sống là một phạm trù xã hội học khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa…. Cùng phát triển trên cơ sở công nghiệp hiện đại và trình độ kỹ thuật cao, nhưng xã hội tư sản và xã hội xã hội chủ nghĩa khác hẳn nhau về lối sống. Một bên là xã hội đầy rẫy những tệ nạn trộm cướp, lưu manh, lừa đảo, người đối với người như chó so với người. Một bên là xã hội của những con người mới, yêu thương và giúp đỡ nhau cùng đấu tranh cho sự tiến bộ và hạnh phúc của cả nhân loại..” [40,tr.121-123]. Như vậy, khái niệm lối sống theo quan niệm của GS. Vũ Khiêu có nội hàm rất rộng lớn, bao gồm tất cả các hoạt động của con người, trên tất cả các lĩnh vực. Khi xem xét lối sống gắn với hoạt động của con người và một hình thái kinh tế - xã hội, GS.Thanh Lê đã cho rằng: “Lối sống là một hệ thống những nét căn bản nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các tập đoàn xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [75, tr.10]. Ở góc độ xem xét tổng hoà các mặt cơ bản, những đặc điểm cá nhân, tập thể, giai cấp và cộng đồng, GS.TS Nguyễn Văn Huyên cho rằng: “Lối sống là tổ hợp toàn bộ các mô hình, cách thức và phong thái sống của con người thể hiện mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con người với con người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tiện và mục đích sống” [39, tr.29]. Nhà nghiên cứu Lê Như Hoa thì cho rằng: “Lối sống là một khái niệm có tính đồng bộ và tổng hợp. Nó bao gồm các mối quan hệ kinh tế, xã hội, tư tưởng, đạo đức, tâm lý, văn hóa và các mối quan hệ khác của con người, đặc 12 trưng sinh hoạt của họ trong những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định [27, tr.9]. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra khái niệm: “Lối sống là một phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ; trong quan hệ giữa người với người; trong sinh hoạt tinh thần và văn hoá [76, tr.11]. Gần đây Trần Văn Bính và cộng sự nêu ra định nghĩa: “Lối sống là một phạm trù xã hội học khái quát toàn bộ hoạt động sống của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế xã hội nhất định, và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa” [4, tr.211]. Nhóm tác giả Trần Kiều, Vũ Trọng Rỹ, Hà Nhật Thăng và Lưu Thu Thủy cho rằng: “Lối sống là những cách suy nghĩ, kỹ năng ứng xử (cách nghĩ, nếp sinh hoạt, thói quen, phong cách học tập, làm việc, giao tiếp, xử sự…) tạo nên cái riêng của mỗi cá nhân hay một nhóm người nào đó”[43, tr.10]. Tác giả Nguyễn Trần Bạt trong tập tiểu luận Văn hoá và con người coi“Lối sống là một thói quen có định hướng, có chất lượng lý tưởng. Lối sống là phương cách thể hiện tổng hợp tất cả các cấu trúc, nền văn hoá, đặc trưng văn hoá của một con người hay một cộng đồng”[3, tr.73].Theo ông, lối sống bao gồm nhiều yếu tố cấu thành như: • Cách thức lao động, làm ăn, kinh doanh... • Các phong tục tập quán • Cách thức giao tiếp, ứng xử với nhau • Quan niệm về đạo đức và nhân cách” [3, tr.75]. Tác giả Lê Đức Phúc cũng nêu quan điểm tương tự: “Lối sống là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những hình thức hoạt động mang tính ổn định, đặc trưng cho cá nhân hay nhóm. Những hình thức này được quy định bởi trình độ 13 nhận thức về lẽ sống cũng như điều kiện thỏa mãn những nhu cầu liên quan đến giá trị văn hóa” [56, tr.21]. Cuốn“Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do tác giả Nguyễn Ngọc Hà chủ biên đưa ra khái niệm lối sống từ góc độ triết học: “Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định” [24, tr.22]. Việc có rất nhiểu các nhà nghiên cứu tập trung và có những kiến giải khác nhau đã cho thấy tầm quan trong và sự phức tạp của vấn đề lối sống trong giai đoạn hiện nay. Tầm quan trọng của vấn đề lối sống còn được thể hiện ở các đề tài nghiên cứu cấp Bộ, cấp Nhà nước. Đề tài cấp Nhà nước KX.06 -13 đã nêu khái quát trong báo cáo tổng kết chương trình KX - 06 (1991 - 1995): Lối sống, trong những chừng mực nhất định, là cách ứng xử của những con người cụ thể, những điều kiện hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi trường là cái khách quan quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người, của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư. Định nghĩa này đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lối sống và môi trường sống. Đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên” của Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, 1995, ngoài việc tìm hiểu cơ sở lí luận nghiên cứu lối sống nói chung và lối sống sinh viên nói riêng đã tập trung nghiên cứu để xác định đặc điểm lối sống hiện nay cũng như xu hướng diễn biến và những định hướng giáo dục lối sống cần thiết cho họ. Nhà nghiên cứu Phạm Hồng Tung sử dụng cách tiếp cận đa chiều của khoa học liên ngành trong định nghĩa về phạm trù lối sống: “Lối sống của con người là các chiều cạnh chủ quan của văn hóa, là quá trình hiện thực hóa các giá trị văn hóa thông qua hoạt động sống của con người. Lối sống bao gồm tất cả những hoạt động sống và phương thức tiến hành các hoạt động sống được 14 một bộ phận lớn hoặc toàn thể nhóm hay cộng đồng người chấp nhận và thực hành trong một khỏang thời gian tương đối ổn định, đặt trong mối tương tác biện chứng của các điều kiện sống hiện hữu và trong các mối liên hệ lịch sử củachúng” [72, tr.277]. Khái niệm “lối sống” lần đầu tiên được đề cập đến trong văn kiện Đại hội Toàn quốc lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng. Các Đại hội sau đó, vấn đề lối sống đã được đề cập nhiều lần. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng. Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền” [11, tr.11]. Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề lối sống được Đảng ta quan tâm sâu sắc. Hội nghị lần thứ X Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, tháng 7 năm 2004, Đảng ta có tới 17 lần đề cập đến khái niệm lối sống. Như vậy, đã có nhiều tác giả, nhiều tài liệu đề cập đến khái niệm lối sống với hàng trăm định nghĩa khác nhau, điều này phần nào phản ánh được tính chất phức tạp của khái niệm này. Tương tự như trường hợp phạm trù “văn hóa”, mỗi định nghĩa về “lối sống” dường như đã chỉ ra được một hoặc một số đặc tính quan trọng nào đó khái niệm này; mỗi định nghĩa thường được đề xuất từ cách tiếp cận của một môn khoa học nào đó: xã hội học, tâm lý học, văn hóa học hay triết học v.v… Trong khi một số nhà khoa học này nhấn mạnh vào bình diện cá nhân của lối sống, thì người khác lại đề cao bình diện cộng đồng, thậm chí còn có người muốn nêu ra định nghĩa chung cho lối sống toàn nhân loại (kiểu như “lối sống công nghiệp”, “lối sống toàn cầu hóa”). Sự khác biệt này còn ở chỗ, trong khi một số người nhấn mạnh các chiều cạnh chủ quan thì một số người khác lại nhấn mạnh các chiều cạnh khách quan, thậm chí nhấn mạnh ý nghĩa và vai trò của toàn bộ các điều kiện sống, hoặc của toàn thể các hình thái kinh tế - xãhội. Song ngoài những khác biệt lớn về cách tiếp cận, chúng ta nhận thấy các tác giả đều đi đến khẳng định: Lối sống bao gồm tất cả các lĩnh vực hoạt động sống cơ 15 bản của con người, từ lao động, sinh hoạt, hoạt động xã hội - chính trị và giải trí… Từ đây chúng ta có thể khái quát một số đặc điểm của lối sống như sau: - Nói đến lối sống là nói đến những dạng hoạt động sống ổn định lặp đi lặp lại của con người, gắn liền với dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội và cá nhân trong cộng đồng. Vì vậy, đặc điểm của lối sống được thể hiện ở các hình thức hoạt động sống của con người trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội, gắn trực tiếp với hệ thống giá trị tinh thần văn hoá của con người. Có thể phân loại lối sống cá nhân theo 3 cấp độ: Lối sống của dân tộc (hay quốc gia), lối sống của giai cấp (hay nhóm xã hội), lối sống cá nhân. - Lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và các điều kiện sống của con người song nó có tính độc lập tương đối và có thể ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến phương thức sản xuất và các điều kiện quy định nó. Vì lối sống gắn liền với con người - Về bản chất con người là sinh vật xã hội, họ tiến hành các hoạt động sống một cách có ý thức, thậm chí có tính lựa chọn hành vi cao. Điều này biểu hiện ở động cơ và tính mục đích của hoạt động sống cũng như việc con người lựa chọn phương thức và phương tiện tiến hành hoạt động sống của mình. Song việc lựa chọn các hệ giá trị của con người không phải hoàn toàn tự do mà luôn luôn bị giới hạn và quy định bởi những điều kiện khách quan, trong không ít trường hợp thì họ không có khả năng hoặc không được phép lựa chọn cho hành vi của mình. - Bản chất, đặc trưng của lối sống trong toàn bộ hoạt động sống là hoạt động lao động sản xuất. Đây chính là hoạt động có tính chất nền tảng để con người bồi dưỡng tính người và hình thành bản chất của mình trong việc sáng tạo các giá trị vật chất và các giá trị tinh thần. - Nội dung và phạm vi của lối sống là tổng hòa các khuôn mẫu ứng xử, cũng như các thể chế xã hội được vận hành theo một hệ giá trị xã hội nào đó trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Chúng ta có thể phân chia nội dung của lối sống trên bốn phương diện.Thứ nhất là nội dung kinh tế của lối sống. Lối sống của một cá nhân, tập thể, một cộng đồng xã hội không phải là 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan