Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh quả...

Tài liệu Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh quảng nam

.PDF
88
300
137

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TẤN LONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN TẤN LONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60. 38. 01. 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI, năm 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Tấn Long MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ................................................................................................................. 6 1.1. Những vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên .......................................................................................................... 6 1.2. Quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên ............................................................................................... 17 Kết luận Chương 1 .......................................................................................... 31 CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TẠI TỈNH QUẢNG NAM ............ 32 2.1. Khái quát tình hình xét xử hình sự sơ thẩm đối với người chưa thành niên tại tỉnh Quảng Nam ......................................................................................... 32 2.2. Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên tại tỉnh Quảng Nam .............................................................................................. 39 Kết luận Chương 2 .......................................................................................... 57 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XÉT XỬ SƠ THẨM ĐÚNG VỤ ÁN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN .................................... 58 3.1. Dự báo tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện và phương hướng, nhiệm vụ của TAND hai cấp tỉnh Quảng Nam .................................. 58 3.2. Các giải pháp bảo đảm xét xử sơ thẩm đúng đối với người chưa thành niên phạm tội ................................................................................................... 62 Kết luận Chương 3 .......................................................................................... 74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLHS : Bộ luật Hình sự BLLĐ : Bộ luật Lao động BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra HĐXX : Hội đồng xét xử NCTN : Người chưa thành niên QĐHP : Quyết định hình phạt QPPL : Quy phạm pháp luật TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân Tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự VKS : Viện kiểm sát VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân Tối cao DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng 2.1. Tên bảng Trang Số lượng và tỷ lệ vụ án đưa ra xét xử sơ thẩm có bị cáo là 33 người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam 2.2. Số lượng và tỷ lệ bị cáo là người chưa thành niên bị đưa ra 34 xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam 2.3. Thống kê người chưa thành niên phạm tội theo tội danh 35 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2011 đến năm 2015 2.4. Kết quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam 39 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu Trang So sánh tỷ lệ bị cáo là người chưa thành niên với tổng số 34 biểu 2.1. bị cáo bị đưa ra xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam 2.2. So sánh tỷ lệ số lượng bị cáo là người chưa thành niên phạm các tội phổ biến trên địa bàn tỉnh Quảng Nam 36 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã nói:"Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà, thanh thiếu niên là bộ phận quan trọng của dân tộc". Người xác định:"Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người". Tư tưởng của Bác thể hiện sự quan tâm và bảo vệ thế hệ trẻ, bởi họ sẽ là chủ nhân của đất nước trong tương lai. Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể chất và tinh thần, họ là người đang ở giai đoạn hình thành cũng như phát triển về nhân cách và chưa thể có suy nghĩ chín chắn khi quyết định hành vi của mình như những người đã thành niên. Do tư duy chưa được hoàn thiện nên họ nhận thức chưa đầy đủ, toàn diện về hệ quả và những tác động do hành vi của mình gây ra. Nhiều trường hợp người chưa thành niên không ý thức được hành vi của mình là hành vi phạm tội. Bởi vậy, khi hiểu ra họ rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình. Nhưng, đồng thời đây cũng là lứa tuổi dễ bị tổn thương và thường có những phản ứng tiêu cực trước sự tác động chủ quan và khách quan bằng những hành vi nhất thời, thiếu suy nghĩ. Đối với người chưa thành niên phạm tội, một mặt họ là chủ thể của tội phạm, nhưng mặt khác họ còn là nạn nhân của sự thiếu giáo dục, chăm sóc của gia đình, nhà trường và xã hội. Chính vì lẽ đó, mà Đảng và Nhà nước ta phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ người chưa thành niên khi họ tham gia tố tụng hình sự thông qua các quy định của pháp luật. Đồng thời, phải xác định mục đích chủ yếu của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên, các cơ quan tiến hành tố tụng, mà đặc biệt là Tòa án phải có trách nhiệm bảo vệ người chưa thành niên theo đúng quy định của pháp luật. Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua cho thấy Tòa án đã thực hiện tương đối tốt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên khi họ 1 tham gia tố tụng với tư cách là bị cáo. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp Tòa án để xảy ra sai sót dẫn đến việc xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo là người chưa thành niên trong quá trình tiến hành tố tụng. Những sai sót đó do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những bất cập, hạn chế của các văn bản quy phạm pháp luật, do việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chưa được kịp thời, do kinh nghiệm và trình độ nhận thức của người tiến hành tố tụng chưa đáp ứng được yêu cầu. BLHS 2015 và BLTTHS 2015 có nhiều điểm mới quy định phù hợp với yêu cầu xét xử tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Do đó, việc nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, để từ đó đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật đúng đối với người chưa thành niên phạm tội theo BLHS 2015 và BLTTHS 2015, nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói chung và đạt hiệu quả giáo dục phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên phạm tội nói riêng. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài luận văn Thạc sĩ cho mình là:“Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên luôn là đề tài nóng thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu lý luận khoa học pháp lý và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật. Những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội đã được nhiều tác giả, nhà khoa học chọn làm đề tài nghiên cứu cho mình trong thời gian qua như “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội” của ThS. Nguyễn Khắc Quang đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TANDTC), số 24/2011;“Mấy vấn đề về áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội bị xử phạt tù” của tác giả Quách Thành Vinh đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân (TANDTC) số 6/2011... Ngoài ra, cũng có nhiều tác giả chọn để làm đề tài luận văn Thạc sĩ cho mình như:"Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn 2 tỉnh Quảng Nam", Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Quốc Bảo (khóa 3 - 2012), tại Học viện khoa học xã hội; “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”, Luận văn Thạc sĩ của tác giả Nguyễn Quốc Thiện (khóa 4-2015) tại Học viện khoa học xã hội …. BLHS 2015 và BLTTHS 2015 được Quốc Hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 có nhiều quy định mới, nhiều nguyên tắc mới theo tính hướng thiện hơn trong việc xét xử người chưa thành niên phạm tội; nhưng chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào, Luận văn thạc sĩ nào đề cập đến, bởi tất cả các công trình nghiên cứu khoa học, Luận văn thạc sĩ trong thời gian qua đều tập trung nghiên cứu theo quy định của BLHS 1999 và BLTTHS 2003. Trong phạm vi đề tài của mình, tác giả đi sâu nghiên cứu cả về pháp luật Hình sự và pháp luật Tố tụng hình sự mới ban hành năm 2015 và thực tiễn áp dụng BLHS 1999 và BLTTHS 2003 đối với người chưa thành niên trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích mà đề tài hướng đến là trên cơ sở nghiên cứu những quy định của pháp luật có liên quan đến việc xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên và thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó tìm và phát hiện ra các quy định pháp luật mới để áp dụng tốt hơn nhằm hoàn thiện công tác xét xử người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, nhằm bảo vệ tốt hơn nữa các quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên khi họ tham gia tố tụng hình sự, góp phần vào việc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm do người chưa thành niên thực hiện nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra là phải nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện những vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên, cũng như thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 3 đối với người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong 5 năm qua để tìm ra những hạn chế, thiếu sót cần chú ý khi thực hiện theo quy định của BLHS 2015 và BLTTHS 2015 và các giải pháp bảo đảm xét xử sơ thẩm đúng đối với người chưa thành niên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn chủ yếu tập trung phân tích làm sáng tỏ những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội theo quy định của BLHS năm 1999, nhưng theo Bộ luật hình sự năm 2015 là người dưới 18 tuổi phạm tội và thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLTTHS năm 2003 và BLTTHS 2015, thực tiễn áp dụng trong thời gian qua. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định tại giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) phạm tội vừa theo quy định của BLHS 1999 và của BLTTHS 2003, vừa theo quy định của BLHS 2015 và BLTTHS 2015. Thực tiễn xét xử sơ thẩm trong phạm vi tỉnh Quảng Nam, giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 và những quy định mới mang tính đổi mới, tiến bộ từ BLHS 2015 và BLTTHS 2015 có liên quan đến việc xử lý người chưa thành niên phạm tội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn này được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội và những quy định của pháp luật có liên quan đến người chưa thành niên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê hình sự... Các phương pháp nghiên cứu này được vận dụng một cách đan xen, linh hoạt để đạt được hiệu quả cao. 4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn này là một đề tài nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận nhưng đồng thời cũng có ý nghĩa về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên. 6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn có thể dùng làm tài liệu giảng dạy, tuyên truyền pháp luật liên quan đến hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành niên phạm tội của TAND. Đồng thời, có thể sử dụng luận văn này để làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập cũng như nghiên cứu khoa học. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở phân tích làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận sẽ góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Do đó, luận văn này cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo, xây dựng kỹ năng nghề nghiệp nói chung và kỹ năng cho công tác xét xử người chưa thành niên phạm tội nói riêng cho những người làm công tác xét xử trong thực tiễn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên Chương 2: Thực tiễn xét xử hình sự sơ thẩm đối với người chưa thành niên tại tỉnh Quảng Nam Chương 3: Các giải pháp bảo đảm xét xử sơ thẩm đúng vụ án hình sự đối với người chưa thành niên 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN 1.1. Những vấn đề lý luận về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của bị cáo là người chưa thành niên Theo Công ước của Liên Hợp Quốc năm 1989 thì "trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn" [2] Quy tắc Bắc Kinh năm 1990 về bảo vệ người chưa thành niên có nêu "Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" [19]. Như vậy theo các văn bản pháp lý quốc tế thì người chưa thành niên nằm trong độ tuổi trẻ em. Theo từ điển tiếng Việt thì khái niệm người chưa thành niên được định nghĩa như sau:“Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân” [45]. Tại Điều 1 Thông tư liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCABTP-BLĐTBXH ngày 12/7/2011 của VKSNDTC, TANDTC, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên, thì: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án.." [22]. Hầu hết, các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước ta có liên quan đến người chưa thành niên chỉ quy định về độ tuổi làm ranh giới để phân định giữa người chưa thành niên với người đã thành niên và đều xác định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Ví dụ: Điều 68 BLHS năm 1999 quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của 6 Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này” [13]. Điều 18 BLDS năm 2005 quy định: “Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên” [15]. Điều 161 BLLĐ năm 2012 quy định:“Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” [16]. Như vậy, có thể khẳng định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Tuỳ theo quá trình phát triển về thể chất, tinh thần hay phát triển về tâm, sinh lý của từng dân tộc và các điều kiện phát triển về kinh tế - xã hội, môi trường sống khác nhau mà pháp luật của mỗi quốc gia quy định độ tuổi của người chưa thành niên khác nhau. Ví dụ: Việt Nam quy định độ tuổi thành niên là 18 tuổi, còn Hàn Quốc là 19 tuổi và Nhật Bản là 20 tuổi.... Theo như quy định tại Điều 12 của BLHS năm 1999 thì chỉ những người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi trở lên mới phải chịu TNHS về hành vi phạm tội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không phải chịu TNHS. Theo đó, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, còn người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Sở dĩ, BLHS năm 1999 quy định như vậy là do người chưa đủ 14 tuổi trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, chưa đủ khả năng làm chủ được hành vi nên họ không bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng có nghĩa là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu TNHS. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người có năng lực TNHS chưa đầy đủ. Vì vậy, họ chỉ phải chịu TNHS về một số loại tội phạm nhất định, đó là tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, chứ không phải chịu TNHS về mọi tội phạm như đối với người đủ 16 tuổi trở lên. Theo quy định tại Điều 12 BLHS 2015 cũng quy định người từ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các loại tội phạm được luật nêu cụ thể tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật. Như vậy, BLHS 2015 có xác định phạm vi tội phạm cụ 7 thể cho người chưa thành niên phạm tội, nhưng cũng quy định từ đủ 14 tuổi trở lên. Điều 50 BLTTHS năm 2003 quy định: “Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Điều 61 BLHS 2015 cũng quy định nội dung như vậy. Do đó, không phải mọi chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đều có tư cách là bị cáo, mà tư cách bị cáo chỉ được xác định khi Tòa án “quyết định đưa ra xét xử”. Từ đó, có thể hiểu bị cáo là người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm bị cáo là người chưa thành niên như sau: “Bị cáo chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, được cho là đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật Hình sự và bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử”. Có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của bị cáo là người chưa thành niên như sau: - Thứ nhất, về mặt pháp lý, người chưa thành niên là người chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Trong pháp luật Tố tụng hình sự, đặc điểm pháp lý của bị cáo là người chưa thành niên được thể hiện thông qua địa vị pháp lý của họ khi tham gia tố tụng, tức là những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bị cáo là người chưa thành niên. Đặc điểm nổi bật nhất của bị cáo chưa thành niên là ở chỗ họ được pháp luật quy định nhiều quyền hơn so với bị cáo đã thành niên, đồng thời lại thực hiện ít nghĩa vụ hơn so với bị cáo đã thành niên. Ngoài ra, thủ tục tố tụng đối với bị cáo là người chưa thành niên cũng được quy định chặt chẽ hơn so với bị cáo đã thành niên. Quy định này được xây dựng dựa trên cơ sở đặc điểm về tâm, sinh lý của bị cáo là người chưa thành niên và chính sách nhân đạo của Nhà nước ta trong việc xử lý TNHS đối với người chưa thành niên phạm tội. Và, mục đích chủ yếu là nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người công dân có ích cho xã hội. - Thứ hai, dưới góc độ tâm, sinh lý, bị cáo chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể chất và tinh thần, họ là người đang ở giai đoạn hình thành cũng như phát triển về nhân cách và chưa thể có suy nghĩ chín chắn khi quyết 8 định hành vi của mình như người đã thành niên. Đây là lứa tuổi chưa có đủ những kinh nghiệm trong cuộc sống, quá trình nhận thức còn bị hạn chế; còn chủ quan, nông cạn khi phân tích, đánh giá hay nhìn nhận các sự vật, hiện tượng và dễ bị tác động bởi các yếu tố của môi trường sống. Do tư duy chưa hoàn thiện nên họ nhận thức chưa đầy đủ, toàn diện về hệ quả và những tác động do hành vi của mình gây ra. Nhiều trường hợp bị cáo chưa thành niên không ý thức được hành vi của mình là hành vi phạm tội, bởi vậy khi hiểu ra họ rất ăn năn, hối hận về việc làm của mình. Mặt khác, bị cáo chưa thành niên, nhất là lứa tuổi mới lớn thường có những chuyển biến nhanh và mạnh mẽ về tâm, sinh lý, có xu hướng muốn tự khẳng định mình, bồng bột, hiếu thắng, thiếu tính thực tế, dễ bị dụ dỗ, kích động, lôi kéo tham gia vào những hoạt động phạm pháp. Nhưng, đồng thời đây cũng là lứa tuổi dễ bị tổn thương và thường có những phản ứng tiêu cực trước sự tác động chủ quan và khách quan bằng những hành vi nhất thời, thiếu suy nghĩ. Chính những đặc điểm tâm, sinh lý này là căn cứ quan trọng để Toà án xem xét, đánh giá khả năng nhận thức, mức độ lỗi của bị cáo chưa thành niên khi thực hiện hành vi phạm tội, để từ đó xác định chính xác TNHS của bị cáo trong quá trình xét xử vụ án hình sự. 1.1.2. Khái quát về xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên Xét xử sơ thẩm theo nghĩa của Từ điển luật học là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28 tháng 11 năm 2013) quy định tại khoản 1 Điều 31 như sau: "Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật" [17]. Quy định này của Hiến pháp càng khẳng định hơn nữa tầm quan trọng của hoạt động xét xử. Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020 đã xác định: "Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm" [4]. Như vậy, có thể thấy Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy được vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng 9 như tầm quan trọng của hoạt động xét xử và xem đây là hoạt động trọng tâm trong các hoạt động tố tụng. Tòa án là cơ quan duy nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thẩm quyền xét xử và đưa ra phán quyết để kết tội một người và quyết định áp dụng hình phạt đối với người đó thông qua hoạt động xét xử. Cho dù một người nào đó có phạm tội quả tang, đã bị CQĐT ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bị VKS truy tố thì họ cũng chưa bị coi là có tội nếu như chưa bị Tòa án kết tội bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Xét xử vụ án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng là một giai đoạn tố tụng rất quan trọng, đây là giai đoạn có tính chất quyết định để chứng minh bị cáo có tội hay không có tội, nếu có tội thì đó là tội gì. Hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra cũng nhằm mục đích chứng minh tội phạm nhưng chủ yếu là thu thập chứng cứ, còn xét xử là hoạt động chủ yếu để kiểm tra lại những chứng cứ do CQĐT, VKS thu thập trong quá trình điều tra, truy tố. Trong giai đoạn xét xử, mọi chứng cứ, tài liệu mà CQĐT, VKS thu thập trong quá trình điều tra, truy tố được xem xét một cách công khai, những người tham gia tố tụng được tranh luận, đối đáp với nhau trước Tòa án. Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có những đặc điểm: - Là việc Tòa án có thẩm quyền nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra quyết định về trách nhiệm hình sự, về tội phạm và hình phạt trong hoạt động xét xử của Tòa án. - Là những hoạt động được tiến hành công khai, dân chủ theo trình tự thủ tục trên cơ sở các quy định của pháp luật mà biểu hiện tập trung nhất là tại phiên tòa cụ thể cho từng vụ án. - Là hoạt động nhằm xác định sự thật khách quan về tội phạm, hành vi, hậu quả, người thực hiện tội phạm, quyết định trách nhiệm hình sự và hình phạt cùng các biện pháp tư pháp đối với người phạm tội. Theo BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 thì thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên về cơ bản cũng giống như thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung, tức là cũng bao gồm các giai đoạn: Thủ tục bắt đầu phiên 10 tòa, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, tranh luận tại phiên tòa, nghị án và tuyên án. Tuy nhiên, do bị cáo là người chưa thành niên nên việc xét xử của Tòa án đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của BLHS đối với người chưa thành niên phạm tội như: Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, các biện pháp tư pháp và các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội..., cũng như những quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên như: Thành phần HĐXX phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, bắt buộc phải có người bào chữa, việc tham gia tố tụng của đại diện gia đình, nhà trường và tổ chức. 1.1.3. Những vấn đề cần phải xác định rõ khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên Giai đoạn xét xử vụ án hình sự sơ thẩm người chưa thành niên tại Tòa án là một quá trình có nhiều bước chuẩn bị như: thụ lý hồ sơ, nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá về thủ tục tố tụng, đánh giá về chứng cứ. Tiếp đến là bước lựa chọn quy phạm pháp luật áp dụng; quyết định về trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự ( nếu có). Khi nghiên cứu hồ sơ cũng như khi xét xử tại phiên tòa và quyết định trách nhiệm hình sự thì cần làm rõ: - Độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của bị cáo tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội: Thông thường, việc xác định độ tuổi của bị cáo dựa trên một số giấy tờ liên quan đến nhân thân của bị cáo như: Giấy chứng sinh, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân... Trong thực tế hiện nay, ở một số địa phương của nước ta (đặc biệt là các vùng sâu, vùng xa), do điều kiện về kinh tế còn khó khăn, vị trí địa lý cách trở cũng như nhận thức của người dân còn hạn chế nên việc khai sinh cho trẻ em chưa được quan tâm đúng mức. Có nhiều trẻ em không được khai sinh hoặc có khai sinh nhưng không chính xác về ngày, tháng, năm sinh nên việc xác định tuổi của bị cáo gặp rất nhiều khó khăn. Từ đó, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng khi xét xử. Khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với người chưa thành niên, bắt buộc Tòa 11 án phải xác định đúng độ tuổi của bị cáo. Theo quy định tại Điều 417 BLTTHS 2015 thì trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng, năm sinh của bị cáo thì tuổi của bị cáo được xác định như sau: + Trường hợp xác định được tháng sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày sinh trong tháng đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày sinh của bị cáo; + Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong quý đó làm ngày sinh của bị cáo; + Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong nữa năm đó làm ngày, tháng sinh; + Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày tháng sinh của bị cáo thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng trong năm đó làm ngày, tháng sinh của bị cáo; + Trường hợp không xác định được năm sinh của bị cáo là người chưa thành niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi. Tòa án chỉ xét xử khi có đủ căn cứ xác định khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của BLHS. Do vậy, việc xác định đúng độ tuổi của bị cáo khi xét xử vụ án hình sự là hết sức cần thiết. Ngoài việc phải xác định đúng độ tuổi của bị cáo, đòi hỏi khi xét xử Tòa án còn phải xác định rõ trình độ phát triển về thể chất, tinh thần cũng như mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của bị cáo là người chưa thành niên, để từ đó đưa ra phán quyết phù hợp, tạo điều kiện giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Mức độ phát triển về thể chất, tinh thần có ảnh hưởng không nhỏ đến hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, trong quá trình xét xử vụ án hình sự, Tòa án phải làm rõ tại thời điểm phạm tội thể chất, tinh thần của bị cáo phát triển ở mức độ nào và nó có ảnh hưởng như thế nào đến việc 12 thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo. Đồng thời, cũng cần phải xác định rõ mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của bị cáo đến đâu, bởi lẽ ở độ tuổi chưa thành niên họ thường có nhận thức rất hạn chế về tính chất nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra. Việc xác định rõ trình độ phát triển về thể chất, tinh thần và mức độ nhận thức về hành vi của bị cáo là người chưa thành niên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và mức độ TNHS đối với bị cáo. - Điều kiện sinh sống và giáo dục của bị cáo: Tội phạm, như mọi hành vi khác của con người suy cho cùng là kết quả của sự tác động lẫn nhau của cá nhân và hoàn cảnh khách quan bên ngoài [50, tr.100]. Do vậy, hành vi phạm tội không phải tự nhiên hình thành, nó phát sinh không phải chính từ bản thân con người mà là do sự tác động qua lại giữa môi trường sống và cá nhân con người đó. Từ thực tiễn cho thấy, người chưa thành niên chịu sự tác động rất lớn và hầu như là chủ yếu của môi trường sống. Sự hình thành và phát triển nhân cách của người chưa thành niên chịu sự chi phối và quyết định bởi sự giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội. Họ rất dễ bị tác động bởi những thói hư, tật xấu và dễ bị dụ dỗ, kích động, lôi kéo tham gia vào những hoạt động phi pháp. Ngược lại, nếu họ được sinh sống, học tập trong một môi trường lành mạnh thì sẽ có điều kiện để phát triển toàn diện và đầy đủ về thể chất, tinh thần cũng như hoàn thiện về nhân cách để trở thành người có ích cho xã hội. Để xác định điều kiện sinh sống và giáo dục của bị cáo là người chưa thành niên, Tòa án cần phải xem xét, đánh giá những tài liệu, chứng cứ liên quan đến nhân thân của họ như: hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp, trình độ học vấn. Cụ thể: + Ai là người nuôi dưỡng, người giám hộ cho người chưa thành niên phạm tội, trình độ, nghề nghiệp, sự tham gia hay mức độ tham gia của họ vào các quan hệ xã hội, trong việc giáo dục con cái người giám hộ thế nào, người chưa thành niên có tài sản hay thu nhập bằng nguồn nào, bản thân người chưa thành niên có lao động sản xuất ra của cải vật chất không? + Kết quả học tập hoặc lao động sản xuất của người chưa thành niên đạt được ở mức nào, thái độ của họ trong quá trình học tập như thế nào; nếu bỏ học thì lý do 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan