Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo việt nam của thanh niên quân đội...

Tài liệu ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo việt nam của thanh niên quân đội hiện nay

.DOC
219
545
146

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực có nguồn gốc rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Hà Sơn Thái MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Chương 1 Ý THỨC DÂN TỘC TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM CỦA THANH NIÊN QUÂN ĐỘI - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1. Quan niệm về ý thức dân tộc và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam 1.2. Đặc điểm của thanh niên quân đội và quan niệm về ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ biển, đảo Việt Nam của thanh niên quân đội Chương 2 THỰC TRẠNG Ý THỨC DÂN TỘC TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM CỦA THANH NIÊN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 2.1. Thực trạng ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của thanh niên quân đội hiện nay 2.2. Nguyên nhân, kinh nghiệm và một số vấn đề đặt ra đối với ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của thanh niên quân đội hiện nay Chương 3 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO Ý THỨC DÂN TỘC TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM CỦA THANH NIÊN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 3.1. Dự báo nhân tố tác động và yêu cầu nâng cao ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của thanh niên quân đội hiện nay 3.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của thanh niên quân đội hiện nay KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 5 10 31 31 52 76 76 92 116 116 128 154 157 158 175 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 1 Chính trị quốc gia CTQG 2 Chủ nghĩa xã hội CNXH 3 Chủ quyền biển, đảo CQBĐ 4 Chủ quyền biển, đảo Việt Nam CQBĐVN 5 Đảng Cộng sản Việt Nam ĐCSVN 6 Nhà xuất bản Nxb 7 Xã hội chủ nghĩa XHCN 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Đề tài: “Ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của thanh niên quân đội hiện nay” là vấn đề nghiên cứu đã được tác giả quan tâm, ấp ủ từ lâu. Ý thức dân tộc là yếu tố quan trọng hàng đầu để nhân dân Việt Nam nói chung và thanh niên quân đội nói riêng hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ nói chung và bảo vệ CQBĐVN trong mọi tình huống. YTDT trong bảo vệ CQBĐVN là vấn đề quan trọng và cấp thiết đối với các đơn vị trong toàn quân, nhất là trong bối cảnh nước ta đang thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TW của Đảng “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” trong điều kiện có sự gia tăng mạnh mẽ làn sóng chủ nghĩa dân tộc cực đoan ở một số nước trong việc giải quyết tranh chấp CQBĐ ở khu vực biển Đông hiện nay. Đây là đề tài mới và khó; tuy nhiên, trên cơ sở tiếp cận kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trước về YTDT, ý thức bảo vệ Tổ quốc, thanh niên quân đội, CQBĐVN, bảo vệ CQBĐVN; được sự góp ý, giúp đỡ của các cán bộ hướng dẫn khoa học, các chuyên gia, các nhà khoa học và những kinh nghiệm của bản thân đã cho phép tác giả triển khai nghiên cứu đề tài này. Đề tài luận án tập trung luận giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội hiện nay, trên cơ sở đó dự báo những nhân tố tác động, đề xuất những yêu cầu và giải pháp cơ bản nâng cao YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ CQBĐ, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đề tài nghiên cứu không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố. 2. Lý do lựa chọn đề tài Một là, xuất phát từ vị trí, vai trò của YTDT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. YTDT là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh chính trị, tinh thần trong quá trình lịch sử tồn tại và phát triển của dân tộc: “Trong lịch sử hàng ngàn năm, đất nước ta đã bao lần phải đối mặt với những mưu đồ xâm lược của các thế lực ngoại bang. Ý thức dân tộc tạo nên một sức mạnh vô địch đánh bại mọi kẻ thù, trong đó có những kẻ thù to lớn và xảo quyệt nhất” [68, tr.5]. YTDT là một trong những động lực cơ bản đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững 6 của quốc gia dân tộc. YTDT Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử. Hai là, xuất phát từ vị trí, vai trò của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Biển, đảo có vị trí rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của hầu hết các quốc gia có biển trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Biển Đông có vị trí chiến lược về địa kinh tế, địa chính trị và địa quân sự trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và thế giới; nơi đang diễn ra sự cạnh tranh quyết liệt trong chiến lược toàn cầu của các lực lượng, nhất là Mỹ và Trung Quốc; nơi đang có những tranh chấp về chủ quyền biển, đảo giữa các nước trong khu vực; đặc biệt, với yêu sách phi lý về “đường 9 đoạn”, tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, trong đó có những hành động xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời, sự gia tăng xu hướng dân tộc chủ nghĩa trong khu vực và thế giới làm cho tranh chấp trên Biển Đông diễn biến gay gắt, phức tạp. Là một quốc gia nằm bên bờ Biển Đông, với bờ biển dài trên 3.260 km với hơn 1 triệu km2 vùng đặc quyền kinh tế, với gần 3.000 đảo và một số quần đảo, Việt Nam có nguồn tài nguyên đặc biệt về biển, đảo như: tài nguyên sinh vật, tài nguyên phi sinh vật, tài nguyên vị thế. Việc khai thác, sử dụng, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, đảo một cách bền vững, hiệu quả, cùng với bảo vệ, giữ vững chủ quyền, an ninh biển, đảo Việt Nam là những nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài… Yêu cầu bảo vệ vững chắc CQBĐVN trong mọi tình huống đặt ra việc nâng cao YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của nhân dân nói chung và thanh niên quân đội nói riêng là vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết. Ba là, xuất phát từ vị trí, vai trò của thanh niên quân đội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới nói chung, vai trò YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội nói riêng. Bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ CQBĐVN là sự nghiệp thường xuyên và trọng yếu của cả hệ thống chính trị và toàn dân tộc. Trong đó, thanh niên quân đội là lực lượng chủ yếu, nòng cốt, là lực lượng đông nhất và trực tiếp bảo vệ CQBĐVN, có vai trò quyết định đến thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ CQBĐVN. Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ CQBĐVN, thanh niên quân đội luôn nêu cao 7 YTDT và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng nên truyền thống vẻ vang của Quân đội ta “Trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [121, tr. 435]. Bốn là, xuất phát từ thực trạng YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội hiện nay. Thanh niên Việt Nam, trong đó có thanh niên quân đội luôn có YTDT đúng đắn, thể hiện tinh thần yêu nước sâu sắc, nêu cao tinh thần đoàn kết dân tộc, sẵn sàng xả thân trong mọi tình huống vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ CQBĐVN, có những hành động thiết thực góp phần quan trọng vào việc giữ gìn môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển của đất nước, giữ vững CQBĐVN. Tuy nhiên, hiện nay một bộ phận thanh niên Việt Nam, trong đó có thanh niên quân đội, YTDT trong bảo vệ CQBĐVN chưa đầy đủ và đúng đắn. Đó là những biểu hiện hời hợt và mơ hồ về nhận thức, thờ ơ về thái độ, thiếu ý chí quyết tâm và niềm tin, không có những hành động tích cực trong bảo vệ CQBĐVN. Hiện trạng đó, nếu không khắc phục kịp thời và có hiệu quả thì chẳng những ảnh hưởng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ bảo vệ CQBĐVN hiện nay, mà còn gây phương hại đến bản chất “Bộ đội Cụ Hồ” và kết quả hoàn thành trọng trách bảo vệ Tổ quốc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Từ những lý do trên tác giả lựa chọn vấn đề “Ý thức dân tộc trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của thanh niên quân đội hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận án. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích Trên cơ sở luâ nâ giải những vấn đề lý luâ nâ và thực tiễn về YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội, đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản nâng cao YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ quan niê m â , vai trò, đặc điểm YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội. - Đánh giá thực trạng, làm rõ nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra về YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội hiện nay. 8 - Dự báo những nhân tố tác động, đề xuất yêu cầu và những giải pháp cơ bản nâng cao YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của đề tài Ý thức dân tộc trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài - Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. - Phạm vi khách thể nghiên cứu: Là thanh niên quân đội bao gồm: sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan và binh sĩ; trong đó, chủ yếu tập trung vào thanh niên thuộc các đơn vị của: Hải quân nhân dân Việt Nam, Cảnh sát biển Việt Nam, Bộ đội Biên phòng Việt Nam, Quân chủng Phòng không - Không quân trực tiếp tham gia bảo vệ CQBĐVN. - Phạm vi thời gian nghiên cứu: Các số liệu nghiên cứu từ năm 2006 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận, thực tiễn Cơ sở lý luận Dựa vào các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cô nâ g sản Viê tâ Nam về YTDT, về bảo vệ Tổ quốc, về thanh niên và xây dựng quân đội cách mạng của giai cấp công nhân và Nhà nước XHCN. Cơ sở thực tiễn Thực trạng YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội, thông qua kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu đã được công bố liên quan đến đề tài luận án; dựa vào các tư liệu, tài liệu, báo cáo, thống kê của các đơn vị đóng quân trên các vùng biển, đảo của Việt Nam; từ sự khảo sát điều tra xã hội học của tác giả luận án đối với đội ngũ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan và binh sĩ độ tuổi thanh niên ở các đơn vị: Hải quân nhân dân Việt Nam, Cảnh sát biển Việt Nam, Bộ đội Biên phòng Việt Nam, Quân chủng Phòng không Không quân. 9 * Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luâ ân chung Luận án được thực hiện từ sự vận dụng phương pháp luâ nâ chủ nghĩa duy vâ tâ biê nâ chứng và chủ nghĩa duy vâ tâ lịch sử. Phương pháp chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học Phương pháp chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học chủ yếu được sử dụng trong nghiên cứu đề tài là phương pháp lôgic - lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp chuyên gia. Ngoài ra, tác giả luận án còn vận dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành khác như: thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, xin ý kiến chuyên gia... 6. Những đóng góp mới của luận án - Đưa ra quan niê m â mới và luận giải rõ quan niệm về YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội hiện nay. - Luận giải thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội hiện nay. - Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần phát triển lý luận về YTDT trong bảo vệ CQBĐVN và biểu hiện ở thanh niên Quân đội nhân dân Việt Nam; đồng thời, cung cấp luận cứ khoa học để Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trước hết là lãnh đạo, chỉ huy quản lý trực tiếp thanh niên nâng cao YTDT trong bảo vệ CQBĐVN của thanh niên quân đội hiện nay ở các đơn vị cơ sở. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy các vấn đề liên quan ở các nhà trường trong quân đội và cho đội ngũ cán bộ cơ sở hiện nay. 8. Kết cấu của luận án Luận án gồm: Mở đầu; tổng quan các vấn đề nghiên cứu; 3 chương (6 tiết); danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu của đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo được trích dẫn, sử dụng trong luận án và phụ lục. 10 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Ý THỨC DÂN TỘC TRONG BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM CỦA THANH NIÊN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến đề tài luận án 1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về ý thức dân tộc Trong cuốn sách “Dân tộc trong lịch sử và thời đại ngày nay”, An-phơ-rét Co-đin-gơ đã viết: “Khái niệm “Ý thức dân tộc” trong triết học Mácxít-Lêninnít trước đây hầu như không được nghiên cứu” [31, tr. 335]. Vì vậy, đây là một khó khăn tác giả luận án trong tiếp cận, nghiên cứu và kế thừa các nội dung liên quan đến đề tài luận án. Trước đây, các nhà lý luận của Liên Xô và một số nước Đông Âu cũng đã đề cập trên góc độ triết học về vấn đề dân tộc trong đó có một số khía cạnh về YTDT, cụ thể: Trong cuốn sách “Dân tộc và cá nhân” [41] của tác giả A.F. Dashdamirov đã đề cập tới mối quan hệ qua lại giữa dân tộc và cá nhân, xem xét cá nhân với tính cách là chủ thể của các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ dân tộc và cũng đã đề cập sơ lược đến YTDT và ý thức tự giác tộc người. Trong cuốn sách “Dân tộc trong lịch sử và thời đại ngày nay” [31] của tác giả An-phơ-rét Co-đin-gơ đã phân tích về vấn đề dân tộc trên quan điểm duy vật lịch sử, trong đó có đề cập đến vấn đề YTDT. Nhìn chung, những cuốn sách của những tác giả nêu trên có nhiều giá trị về góc độ nghiên cứu dân tộc trong lịch sử. Tuy nhiên, thực tiễn mấy năm gần đây đã cung cấp dữ kiện, một mặt chứng minh cho tính đúng đắn của những luận điểm đã được nêu trên, mặt khác cũng làm bộc lộ những thiếu sót của nhiều luận điểm khác, làm cho chúng không còn đứng vững. Cụ thể, An-phơ-rét Co-đin-gơ đề cập tới “Sự phát triển của ý thức dân tộc xã hội chủ nghĩa ở nước Cộng hòa Dân chủ Đức”, “Những quy luật trong sự phát triển dân tộc xã hội chủ nghĩa và triển vọng của dân tộc Đức xã hội chủ nghĩa”… cho đến nay thực tế đã thay đổi ngoài dự kiến của tác giả. Hiện nay, có một số công trình của các nhà nghiên cứu đi sâu phân tích sự biến đổi của vấn đề dân tộc như : “Ethnic Conflic in Southeast Asia” (Mâu thuẫn dân tộc ở Đông Nam Á), Singapore; “The New Global Polictics of the Asia Pacific” (Chính trị toàn cầu mới của Châu Á - Thái Bình Dương), của các tác giả 11 Michael K.Connors, Resmy Davison (Australia) và Jorn Dosch (Anh) [210], đã phân tích tình hình an ninh khu vực, đặc biệt là điểm nóng Biển Đông, Hồi giáo cực đoan và các nhóm nổi dậy địa phương do kinh tế còn yếu kém và thiếu một mạng lưới an ninh khu vực. Đây là những tư liệu hữu ích cung cấp thông tin bổ ích giúp tác giả trong quá trình nghiên cứu nội dung YTDT ở khu vực này. Bài “Tình hình cơ bản Việt Nam và quan hệ Trung - Việt” (Vietnam Basic Situation and the China - Vietnam Relationship) [194] của Cổ Tiểu Tùng, giáo sư Cốc Nguyên Dương cũng có hàng loạt bài viết như: “Bàn cờ Đông Nam Á và nước cờ đột phá Việt Nam” (The Southeart Asia Chessboard and the Ground breaking Movement of Vietnam và bài “Trung - Việt đã giải quyết 2/3 tranh chấp lãnh thổ” (China-Vietnam have Resolved 2/3 of Territorial Disputes) [31]. Các tác giả đều nhận định khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam là trọng điểm bố trí chiến lược của Trung Quốc cũng là nơi được các nước lớn bên ngoài khu vực quan tâm “chăm sóc” vì lợi ích của chính họ khiến tình hình nơi này thiếu ổn định. Tác giả cũng phân tích vai trò địa kinh tế và chính trị của Việt Nam từ đó đề xuất Trung Quốc cần coi trọng ý nghĩa của Đông Nam Á trong địa chính trị toàn cầu. Việt Nam nên trở thành một trong những quốc gia trọng điểm được coi trọng của Trung Quốc và hợp tác kinh tế toàn diện với Việt Nam; nên là một trong những trọng điểm để tăng cường ngoại giao xung quanh với Đông Nam Á của Trung Quốc. 1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Theo nghiên cứu của tác giả luận án, cũng như các công trình nghiên cứu về YTDT, hiện nay không có một công trình nào ở nước ngoài trực tiếp nghiên về ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN - một vấn đề liên quan đến YTDT trong bảo vệ CQBĐ. Tuy nhiên, ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cũng được đề cập đến trong một số công trình dưới dạng những cuốn sách, tiêu biểu là: Cuốn sách “Xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu” [152] của tác giả M.V. Phrude; “Phép biện chứng và lĩnh vực quân sự hiện đại” [70] của tác giả I. A. Gruđinhin; “Những vấn đề phương pháp luận của lý luận và thực 12 tiễn quân sự” [69] của tác giả A. X. Gientop; “Cuộc cách mạng về học thuyết quân sự của Trung Quốc” [136] của hai tác giả G. Munvenon và M. Phinhkenxten... Các công trình khoa học nêu trên đã phân tích, làm rõ bản chất quá trình đổi mới tư duy bảo vệ Tổ quốc XHCN; tác động, ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hóa, của cuộc “cách mạng quân sự” đến nhận thức, tư duy của các chủ thể quân sự trong quá trình chuẩn bị và tiến hành chiến tranh, trong hiện đại hóa nền quốc phòng, hiện đại hóa vũ khí, trang bị và xây dựng quân đội, trong xây dựng kế hoạch và chiến lược bảo vệ Tổ quốc XHCN. Các tác giả nhận định rằng, cách mạng trong lĩnh vực quân sự đã và đang làm thay đổi một cách căn bản cách thức tiến hành chiến tranh, phương thức tác chiến và tổ chức quân sự; tác động trực tiếp đến sự thay đổi ý thức, tư duy bảo vệ Tổ quốc XHCN về mặt chiến lược, chiến dịch và chiến thuật; tác động to lớn đến sự thay đổi trong học thuyết quân sự, khoa học và nghệ thuật quân sự. 1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về chủ quyền biển, đảo Trong các công trình nghiên cứu ở nước ngoài, nội dung đề cập nhiều vấn đề liên quan đến kinh tế, chính trị, quốc phòng - an ninh của khu vực Biển Đông nói chung và vùng biển, đảo Việt Nam nói riêng, trong đó, chủ yếu các công trình tập trung luận giải mấy vấn đề chính sau: Một là, nghiên cứu về vấn đề tranh chấp CQBĐ giữa các quốc gia trong khu vực, nhất là vấn đề tranh chấp CQBĐ trên biển Đông Những công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề tranh chấp CQBĐ giữa các quốc gia trong khu vực, nhất là vấn đề tranh chấp chủ quyền quốc gia trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tiêu biểu có: “Cuộc tranh chấp quần đảo Trường Sa: Ai là người sở hữu đầu tiên?” [41] của Daniel - J.Dzuck, “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” [134] của Monique Cheminier, “Phân tích về địa lý - chính trị cuộc xung đột và tranh chấp biên giới Việt Trung liên quan đến quần đảo Paracel và Sparaly ở biển Nam Trung Hoa” [146] của Peaun Medes Antunes, “Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa: Thử phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc” [185] của Từ Đặng Minh Thu, “Lập trường của Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền trên hai hòn đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật quốc tế” [186] của Đào Văn Thụy, “Cộng hòa nhân 13 dân Trung Hoa và sự sử dụng luật quốc tế trong tranh chấp chủ quyền quần đảo Trường Sa” [133] của Michael Bennett,… Điểm chung của các công trình nghiên cứu về tranh chấp CQBĐ giữa các quốc gia trong khu vực đều khẳng định: Biển Đông đang là “vùng biển nóng”, nơi hội tụ nhiều mâu thuẫn về kinh tế, chính trị của khu vực và thế giới; tranh chấp chủ quyền trên biển ở khu vực vừa là vấn đề của lịch sử vừa là vấn đề hiện tại đang diễn ra hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường. Trên cơ sở đánh giá thực trạng tranh chấp và nhận định cơ sở pháp lý, lịch sử, có tính chứng cứ để khẳng định chủ quyền của các bên tranh chấp, một số công trình đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề tranh chấp, trong đó nhấn mạnh đến giải pháp thương lượng hoà bình. Tuy nhiên, có một số nhà khoa học trong các công trình nghiên cứu, do nhiều yếu tố chủ quan (chủ yếu là xuất phát từ lập trường chính trị) và khách quan (chủ yếu xuất phát từ tính phức tạp, nhạy cảm của vấn đề, sự thay đổi trong thực tiễn luật pháp quốc tế về biển…), dưới góc độ này hay góc độ khác cũng có những quan điểm khác nhau về nhiều vấn đề liên quan đến tranh chấp CQBĐ ở khu vực Biển Đông. Thực tế cho thấy, xuất phát từ lập trường dân tộc, từ lợi ích của quốc gia, trong các công trình thường hay cố gắng tìm mọi cách đưa ra các chứng lý mang tính chủ quan của mình nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia của họ trên vùng biển, đảo đang có tranh chấp. Vì lý do đó, những công trình của họ thường thiếu tính khách quan khoa học. Hai là, nghiên cứu về chiến lược của một số nước lớn đối với Biển Đông và tác động của nó đối với bảo vệ CQBĐ của Việt Nam Có thể nêu ra một số công trình có liên quan chủ yếu sau: Hai tác giả Ikenberry.J và Mastanduno.M trong công trình “International Relations Theory and the Asia Pacific” (Lý thuyết quan hệ quốc tế và khu vực Châu Á - Thái Bình Dương) (Columbia University, New York, 2003) [209] cho rằng, tranh chấp giữa các nước ở Biển Đông sẽ lôi cuốn sự quan tâm của các nước lớn ngoài khu vực, nhất là Mỹ. Xu hướng chung là Mỹ sẽ ngày càng can dự sâu hơn vào vấn đề tranh chấp Biển Đông nhằm đảm bảo lợi ích an ninh chủ yếu của mình và điều đó đặt 14 quan hệ Mỹ - Trung luôn đứng trước trạng thái vừa hợp tác, vừa đấu tranh và kiềm chế lẫn nhau. Công trình “America’s Role in Asia and the South China Sea” (Vai trò của Mỹ ở Châu Á và Biển Đông) [204] của Amitar Acharya đã phân tích sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ đối với châu Á, trong đó có Việt Nam. Công trình này nêu bật những cố gắng của Mỹ những năm đầu thế kỷ XXI, nhằm gia tăng vai trò ở Đông Nam Á và Việt Nam, trong đó cùng với việc tăng cường sự hiện diện ở khu vực, Mỹ ngày càng quan tâm đến tình hình an ninh Biển Đông trước việc Trung Quốc tăng cường các hoạt động quân sự và khẳng định chủ quyền ở Biển Đông. Những công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề này, tiêu biểu có: một số công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nước ngoài được Trung tâm Thông tin tư liệu Khoa học - Công nghệ và Môi trường (Bộ Quốc phòng) tập hợp lại trong tập tài liệu có tiêu đề “Đông Nam Á và chiến lược của các cường quốc chủ chốt” [19], ví dụ: “Đặc điểm mới trong chính sách Đông Á của Mỹ” và “Mỹ thúc đẩy chương trình đối tác cảnh vệ” của Kim Xán Vinh - Chu Hán Vũ, “Chiến lược của Ấn Độ trong việc tăng cường quan hệ với ASEAN” của Trương Đảng Nặc - Kiệt Nhân Quý, “Nga tiến vào Châu Á thông qua Inđônêxia” của Đông Phương Thuần, “Trung Quốc và Ấn Độ cạnh tranh ảnh hưởng đối với ASEAN” của Sheng Lijun; cùng một số tham luận khoa học tại Hội thảo quốc tế về Biển Đông được tập hợp trong cuốn sách “Biển Đông Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực” [165] do tác giả Đặng Đình Quý chủ biên, ví dụ: “Những diễn biến gần đây ở Biển Đông - Hệ lụy đối với hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực” của Daniel Schaeffer, “Thực địa chính trị của khu vực cùng tồn tại trong cái ao của Trung Quốc” của Ba Hamzah, Carlyle A. Thayer, “Những diễn biến gần đây ở Biển Đông: Hệ lụy đối với hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực” và “Cách tiếp cận quản lý các tranh chấp biên giới của Trung quốc và Việt Nam - Bài học, liên hệ và tác động đối với tình hình Biển Đông” của Ramses Amer, hoặc những công trình nghiên cứu khác, như: “Chiến lược của Hải quân Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu 15 vực Biển Đông” [93] của Ngô Vĩnh Long, “Trung Quốc tấn công trên biển Nam Trung Hoa” [77] của Shigeo Hiramatsu,... Về cơ bản các công trình nêu trên đều khẳng định: Biển Đông là vùng biển chiến lược có tác động lớn tới sự phát triển về kinh tế, quốc phòng - an ninh không chỉ đối với khu vực mà còn với cả thế giới, vì thế các quốc gia trong khu vực và các nước khác, nhất là những nước lớn luôn tìm cách cạnh tranh, khẳng định vị thế, tầm ảnh hưởng của mình ở địa bàn chiến lược này; tình hình Biển Đông đã và đang diễn biến vô cùng phức tạp bởi sự tranh chấp về lợi ích, chủ quyền giữa các quốc gia trong khu vực và sự can thiệp của các nước lớn vào địa bàn Biển Đông; chiến lược của các nước lớn đối với Biển Đông một mặt góp phần tạo thế cân bằng lực lượng ở khu vực nhưng mặt khác cũng khiến cho an ninh khu vực, trong đó có Việt Nam thêm phức tạp. Đối với Trung Quốc, một quốc gia có những lợi ích chiến lược trực tiếp ở Biển Đông lại có nhiều tham vọng vươn lên trở thành một cường quốc mà trước hết là một cường quốc về biển, nhiều nhà nghiên cho rằng: chiến lược biển của Trung Quốc, nhất là ở Biển Đông, có tác động rất lớn đến an ninh CQBĐ của các nước trong khu vực. Trong công trình “Chiến lược của Hải quân Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu vực Biển Đông” [91] của Ngô Vĩnh Long, trên cơ sở phân tích những động thái mới của Trung Quốc trong những năm gần đây, đặc biệt là việc Trung Quốc tăng cường xây dựng một lực lượng hải quân hùng mạnh, tác giả đã chỉ rõ ý đồ của Trung Quốc là muốn thao túng khu vực Biển Đông đồng thời dùng Biển Đông như lá bài để mặc cả với các nước khác trong toan tính về kinh tế, chính trị của mình, cũng như coi Biển Đông là bàn đạp để vươn ra biển xa khẳng định vị thế nước lớn đối với khu vực và thế giới. Các bài báo nghiên cứu về ảnh hưởng chiến lược của Trung Quốc đối với biển Đông gồm: bài “Tham vọng biển của Trung Quốc và phản ứng của Mỹ” [183, tr.19-25] của tác giả Nguyễn Vĩnh Thuận, cho rằng tham vọng về biển cuả Trung Quốc bằng hành động răn đe, gây sức ép với các nước láng giềng và chiếm lĩnh, quân sự hóa các hòn đảo mà họ chiếm đóng ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh khu vực. Tác giả Hoàng Đình Nhàn với bài “Sự 16 phát triển của hải quân Trung Quốc và những tác động đối với an ninh khu vực Châu Á - Thái Bình Dương” [139, tr.76-81] đã phân tích sự phát triển của hải quân Trung Quốc và hành động cứng rắn ở Biển Đông đã tác động trực tiếp đến hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải ở khu vực. Bài “China’s Rise and Capability of Territory Expansion in the Perspective of International Relations” (Sự trỗi dậy của Trung Quốc và khả năng bành trướng lãnh thổ của nước này dưới góc độ lý thuyết quan hệ quốc tế) [135] của M.Taylor Fravel nhận định rằng các hành vi gây hấn của Trung Quốc đã châm ngòi cho quá trình hình thành các liên minh quốc tế với mục tiêu kiềm chế Trung Quốc. Đối với Mỹ, hầu hết giới quan sát và các nhà nghiên cứu đều cho rằng: vị thế, tầm ảnh hưởng, sự chi phối của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á nói chung và Biển Đông nói riêng là rất lớn, không chỉ bởi Mỹ luôn coi địa bàn này là một trong những địa bàn hết sức quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ, mà còn bởi Biển Đông gắn với những lợi ích sát sườn của Mỹ (cả về kinh tế và chính trị). Trong bài “Đặc điểm mới trong chính sách Đông Á của Mỹ” [21] của tác giả Kim Hán Vinh - Chu Hán Vũ, bài viết “Mỹ thúc đẩy chương trình đối tác cảnh vệ” [21] của Robert J. Coy, đã khẳng định rằng Mỹ đã và đang điều chỉnh chiến lược của mình ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á; đồng thời tăng cường sự có mặt ở khu vực bằng nhiều cách thức khác nhau; an ninh khu vực, an ninh Biển Đông cũng sẽ phụ thuộc rất lớn vào Mỹ. Bài viết “Mỹ trở lại Đông Nam Á có tác động thế nào đối với an ninh Biển Đông” [79, tr.38-45] của tác giả Quang Huy đã đưa ra đánh giá rằng việc Mỹ “quay trở lại” Đông Nam Á ảnh hưởng nhiều đến tình hình an ninh Biển Đông, thái độ của các nước Đông Nam Á về vấn đề Biển Đông sẽ chịu sự “cổ vũ” trực tiếp hơn, sự quan tâm chú ý của các nước lớn ngoài khu vực như Nhật Bản, Ấn Độ. Đối với Ấn Độ, các công trình: “Chiến lược của Ấn Độ trong việc tăng cường quan hệ với ASEAN” [21] của tác giả Trương Đảng Nặc - Kiệt Quý Nhân; “Trung Quốc và Ấn Độ cạnh tranh ảnh hưởng đối với ASEAN” [21] của tác giả 17 Sheng Lijun, công trình “Ấn Độ tăng cường ảnh hưởng tại Đông Nam Á” [21] của Viện Nghiên cứu và phân tích quốc phòng Ấn Độ, đã làm rõ quyền lợi của Ấn Độ ở Đông Nam Á nói chung, Biển Đông nói riêng. Các công trình trên cũng chỉ rõ, hiện nay Ấn Độ đang tìm cách tăng cường sự có mặt của mình và cạnh tranh với các cường quốc khác về lợi ích kinh tế, chính trị ở khu vực này. Với nước Nga, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nước Nga hiện nay cũng đang mở cuộc chạy đua với các cường quốc khác vào khu vực Đông Nam Á và Biển Đông vì lợi ích của Nga ở khu vực này là rất quan trọng. Công trình “Đông Nam Á nằm trong lợi ích của Nga” [21] của Viện nghiên cứu và phân tích quốc phòng Ấn Độ, “Nga tiến vào châu Á thông qua Inđônêxia” [21] của tác giả Đông Phương Thuần, đã phân tích lợi ích của Nga ở khu vực đồng thời chỉ rõ nỗ lực cũng như sự điều chỉnh chiến lược trong quá trình khẳng định ảnh hưởng của Nga ở Đông Nam Á và trên địa bàn Biển Đông. Đối với Nhật Bản, cuốn sách “Chính sách ngoại giao của Nhật Bản đối với ASEAN trong thế kỷ mới” do Nhà xuất bản Nhân dân (Trung Quốc) ấn hành, trên cơ sở phân tích tổng quan chính sách ngoại giao của Nhật Bản với các nước ASEAN, cuốn sách nhận định: một trong những ý đồ chiến lược trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản đối với ASEAN, bao gồm cả chính sách với Biển Đông chính là cạnh tranh với các nước khác, đặc biệt là với Mỹ và Trung Quốc tạo cơ sở khẳng định vị thế nước lớn về chính trị ở khu vực; việc can thiệp vào Biển Đông không chỉ thuần tuý về mặt kinh tế mà còn kiềm chế các cường quốc tạo lợi thế cạnh tranh về mọi mặt của Nhật Bản trên trường quốc tế. 1.4. Nhóm công trình nghiên cứu về thanh niên và vai trò của thanh niên trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền quốc gia Cuốn sách “Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc” [142] của nhiều tác giả - là nhóm thanh niên Trung Quốc đang học tập tại Trường đại học Phương Đông (Liên Xô) đã giới thiệu khái quát lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hoá, xã hội và con người Trung Quốc; trình bày tình cảnh các tầng lớp nhân dân Trung Quốc qua các giai đoạn lịch sử, nhất là trong thời kỳ Trung Quốc bị chủ nghĩa tư bản quốc tế xâu xé, cùng thống trị. Bằng các luận cứ thuyết phục, cuốn sách khẳng định: 18 Chủ nghĩa đế quốc xâm nhập vào Trung Quốc, bóc lột, nô dịch các tầng lớp nhân dân là nguồn gốc của đói khổ, bệnh tật, chết chóc; nông dân bị bóc lột hà khắc, công nhân bị đày đọa trong các công xưởng nhà máy, thanh niên bị đầu độc, bưng bít. Cuốn sách cũng chỉ rõ những nét đặc trưng về phong trào cách mạng Trung Quốc, sự phát triển của phong trào công nhân và đề ra những nhiệm vụ chủ yếu của tuổi trẻ Trung Quốc trong sự nghiệp cách mạng đó là giành lại độc lập, chủ quyền và tự do cho dân tộc Trung Hoa. Cuốn sách “Hình thành niềm tin cộng sản cho thế hệ trẻ” [203] của tác giả V.A.Xukhomlinxki đã nhấn mạnh: “người nào có một lý tưởng cao đẹp thúc đẩy, lý tưởng đó đối với anh ta trở thành một thực tế hiển nhiên thì người đó không những sẽ yêu cầu cao đối với chính bản thân mình, đối với hành vi của mình mà còn thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với những công việc của người khác” [203, tr. 19]. 2. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài 2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về ý thức dân tộc Ở nước ta, nhiều công trình cũng đã đề cập tới YTDT, tiêu biểu là: Công trình “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” [68] của tác giả Trần Văn Giầu đã chỉ ra hệ giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, trong đó có chỉ ra một số biểu hiện của YTDT. Bài viết “Ý thức dân tộc - Giá trị dân tộc” [198] của tác giả Nguyễn Ngọc Vân với đã đề cập tới vấn đề YTDT là quá trình tự ý thức của con người với tư cách là chủ thể của môi trường dân tộc, tiếp cận YTDT như là một giá trị của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa. Trong luận án “Xây dựng ý thức và tình cảm dân tộc chân chính cho con người Việt Nam trước những thách thức mới” [140] của tác giả Nguyễn Thị Ngân đã tiếp cận và làm rõ ý thức và tình cảm dân tộc là một bộ phận cấu thành nhân cách con người, luận giải rất công phu những nội dung chủ yếu của ý thức và tình cảm dân tộc chân chính, xu hướng, thực trạng và vấn đề cần giải quyết trong tình hình hiện nay ở nước ta; từ đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu xây dựng ý thức và tình cảm dân tộc cho con người Việt Nam trước những 19 thách thức mới. Đây là công trình duy nhất liên quan trực tiếp đến đề tài luận án mà tác giả có thể tham khảo, kế thừa. Hiện nay, một số nhà khoa học nghiên cứu vấn đề YTDT như: Giáo trình “Tâm lý học dân tộc” [49] của tác giả Vũ Dũng, dưới góc độ nghiên cứu của tâm lý học, tác giả đã đưa ra một số biểu hiện cơ bản để nhận diện ý thức cộng đồng, YTDT và ý thức quốc gia. Tác giả đưa ra khái niệm YTDT với tính cách là ý thức của một tộc người, trong đó, YTDT là ý thức về cộng đồng của mình, mà mình luôn luôn thuộc về cộng đồng đó. Nhìn chung, các công trình khoa học nêu trên đã phân tích về các giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam. Từ nhiều góc độ nghiên cứu, các tác giả đã đề cập tới các giá trị: lòng yêu nước, ý thức cộng đồng, tinh thần đoàn kết, YTDT, đức cần cù lao động, lòng nhân ái của con người Việt Nam với những nét độc đáo, sâu sắc và những hạn chế của nó. Đồng thời, các tác giả cũng đưa ra các giải pháp để phát huy các giá trị truyền thống dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta chưa có công trình khoa học độc lập nào nghiên cứu trực tiếp YTDT trong bảo vệ CQBĐ của thanh niên quân đội với tính cách là một bộ phận cấu thành nhân cách người quân nhân cách mạng. 2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Trong cuốn sách “Xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho người dân Việt Nam - định hướng và giải pháp” [202] của hai tác giả Lê Minh Vụ và Nguyễn Bá Dương; đây là công trình công bố kết quả nghiên cứu của đề tài cấp Nhà nước thuộc Chương trình khoa học chính trị trọng điểm giai đoạn 2006 - 2010, mã số KX.04.22/06-10: “Nghiên cứu định hướng và giải pháp xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cho mọi người dân Việt Nam trong thời kỳ mới”. Cuốn sách này là một công trình khoa học công phu, đề cập toàn diện và sâu sắc về ý thức bảo vệ tổ quốc, ý thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đặc biệt đưa ra hệ thống quan điểm chỉ đạo, phương hướng và giải pháp xây dựng ý thức bảo vệ Tổ quốc XHCN cho mọi người dân Việt Nam trong thời kỳ mới. Đặc biệt, công trình này cho rằng: 20 Ý thức bảo vệ Tổ quốc là một dạng đặc thù của ý thức dân tộc, không thoát ly, không xa lạ với ý thức dân tộc. Từ ý thức bảo vệ quê hương, ruộng vườn, nhà cửa, đất đai, cuộc sống, quyền làm chủ, lợi ích... phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc và ý thức bảo vệ Tổ quốc phát triển thành ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa bao hàm cả ý thức bảo vệ quê hương, ruộng vườn, nhà cửa, đất đai, cuộc sống, quyền làm chủ, lợi ích… của mỗi người dân, cộng đồng xã hội, các tầng lớp dân cư, dân tộc, tôn giáo, và chế độ. Từ đây có thể khẳng định rằng, ý thức “tự bảo vệ”, ý thức dân tộc, ý thức bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam là mạch nguồn và là “giá đỡ” cho sự hình thành, phát triển ý thức bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của mọi người dân Việt Nam trong thời kỳ mới” [202, tr. 42]. 2.4. Nhóm công trình nghiên cứu về chủ quyền biển, đảo và bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam Một là, nghiên cứu về vai trò của biển, đảo Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam là quốc gia có vị trí chiến lược đặc biệt thuận lợi về biển, và biển có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình xây dựng, bảo vệ đất nước và sự trường tồn của dân tộc. Vì thế, cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò to lớn của biển, đảo, triệt để phát huy mọi tiềm năng, lợi thế của biển, đảo để phát triển và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, tiêu biểu là các công trình: “Việt Nam đất, biển, trời” [95] của tác giả Lưu Văn Lợi, trên cơ sở phân tích vị trí, vai trò của biển, đảo nước ta, tác giả nhấn mạnh: Biển đối với quốc gia là an ninh và phát triển, đối với hàng chục triệu con người thuộc hơn nửa các tỉnh, thành, đặc khu (của Việt Nam) là đời sống và phồn vinh, biển không thể tiếp tục bị coi nhẹ như hiện nay và chỉ hiểu là biển ven bờ. Biển hiểu theo ý nghĩa đầy đủ của nó phải là một trong hai vế của chiến lược bảo vệ và xây dựng đất nước để đưa dân tộc thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu [95, tr.185]. 21 Hai là, nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam trên biển, đặc biệt là chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Đã có nhiều công trình đề cập trực tiếp đến vấn đề này dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau, trong đó có những công trình tập trung đi sâu luận giải về chủ quyền của Việt Nam trên biển, như: “Vùng biển và quyền làm chủ” [134]; Lưu Văn Lợi “Việt Nam đất, biển, trời” [95] của tác giả Vũ Phi, đề tài khoa học cấp nhà nước “Chiến lược bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển Việt Nam đến năm 2020” [19] của Bộ Kế hoạch và Đầu tư... Đó là những công trình có giá trị khoa học và thực tiễn, luận giải về chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông. Những công trình này đã đưa ra bằng chứng và những lập luận xác đáng về chủ quyền của Việt Nam trên biển; đồng thời, khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Một số công trình đã có những đề xuất và đưa ra những giải pháp nhằm góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, bảo vệ vững chắc chủ quyền của đất nước trên biển. Trong công trình “Việt Nam đất, biển, trời” [95] của tác giả Lưu Văn Lợi đã tập trung luận giải các vấn đề rất quan trọng về tiềm năng, lợi thế của biển, đảo Việt Nam; về lịch sử tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa giữa hai quốc gia Việt Nam và Trung Quốc, đưa ra những luận chứng xác đáng, khẳng định chủ quyền của Viê tâ Nam đối với hai quần đảo này; đồng thời, cũng đặt ra các yêu cầu để Việt Nam tiếp tục cuộc đấu tranh bảo vệ, giành và giữ chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa; liên quan đến vấn đề về bảo vệ CQBĐVN, tác giả cũng đã đề cập đến kinh nghiệm quản lý biển, kinh nghiệm tiến hành cuộc đấu tranh đòi CQBĐ của một số quốc gia trong lịch sử và kiến nghị cần phải vận dụng những kinh nghiệm đó vào thực tiễn đấu tranh giành và giữ chủ quyền quốc gia trên biển. Đặc biệt, với công trình “Chiến lược bảo vệ chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo Việt Nam đến năm 2020” [19], trên cơ sở khảo cứu và luận giải nhiều vấn đề có tính chất cấp bách đối với việc quản lý, khai thác và bảo vệ CQBĐ của Tổ quốc, công trình đã nhấn mạnh đến các vấn đề như: thực tiễn tranh chấp chủ quyền trên biển giữa Việt Nam và các quốc gia khác ở Biển
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan