Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ảnh hưởng của văn hóa tộc người hmông, dao tới hoạt động du lịch tuyến hà nội ...

Tài liệu ảnh hưởng của văn hóa tộc người hmông, dao tới hoạt động du lịch tuyến hà nội sa pa

.PDF
99
625
131

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG VĂN CHĂM ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA TỘC NGƯỜI HMÔNG, DAO TỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TUYẾN HÀ NỘI – SA PA Chuyên ngành: Việt Nam học Mã số: 60.22.01.13 LUẬN VĂN THẠC SĨ VIỆT NAM HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM MINH PHÚC HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN DƯƠNG VĂN CHĂM LỜI CẢM ƠN Luận văn với đề tài: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA TỘC NGƯỜI HMÔNG, DAO TỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TUYẾN HÀ NỘI – SA PA là kết quả nghiên cứu của tác giả trong thời gian học cao học Việt Nam học khoá 2014 – 2016 tại Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả được TS. Phạm Minh Phúc trực tiếp hướng dẫn. Sự tận tình chỉ bảo của TS. Phạm Minh Phúc cùng với sự định hướng chuyên môn và phương pháp nghiên cứu đã giúp tác giả hoàn thành luận văn này. Tác giả xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới TS. Trần Hữu Sơn và các nhà nghiên cứu chuyên ngành, các chuyên gia, các nhà quản lý, các công ty du lịch; UBND huyện Sa Pa; UBND xã Lao Chải; UBND xã Tả Phìn và các cộng sự đã giúp đỡ tác giả hoàn thành đề tài này. Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo đã giảng dạy cho lớp cao học Việt Nam học khóa 2014 – 2016 và ban chủ nhiệm khoa Việt Nam học đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả hoàn thành luận văn này. Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 2016 Dương Văn Chăm MỤC LỤC Mở đầu 1 Chương 1: Một số vấn đề lý luận và vài nét về tộc người Hmông, Dao trong hoạt động du lịch tại Sa Pa. 8 1.1. Các khái niệm 8 1.2. Tộc người Hmông, Dao từ góc nhìn nhân học du lịch 11 Chương 2: Thực trạng khai thác văn hóa tộc người Hmông, Dao trong hoạt động du lịch tuyến Hà Nội – Sa Pa. 2.1. Khai thác văn hóa tộc người Hmông, Dao trong các chương trình du lịch tuyến Hà Nội – Sa Pa của các công ty du lịch 2.2. 35 Khai thác các giá trị văn hóa tộc người Hmông, Dao trong hoạt động du lịch của địa phương 2.3. 35 40 Trải nghiệm của khách du lịch về văn hóa tộc người Hmông, Dao ở địa bàn nghiên cứu 44 Chương 3: Bàn luận về hoạt động du lịch gắn với văn hóa tộc người Hmông, Dao ở Sa Pa 3.1. Những tác động của du lịch đến phát triển kinh tế - xã hội 3.2. Hoạt động du lịch gắn với văn hóa tộc người từ góc độ nhà 51 51 nghiên cứu và tổ chức du lịch 53 3.3. Du lịch ở Sa Pa trong “cái nhìn” của du khách 60 3.4. Thế ứng xử của cộng đồng Hmông, Dao trong hoạt động du lịch 64 Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục 72 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Du lịch được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nguồn gốc của du lịch được xem là xuất phát từ cơ cấu công nghiệp phương Tây thế kỉ XIX [16, tr.7], sau đó lan rộng ra các châu lục khác và phát triển mạnh mẽ tại châu Á, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước thuộc châu lục này [31, tr.10]. Do có nhiều lợi thế về nguồn lực tự nhiên, văn hóa và con người, Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển du lịch. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh chóng cả về số lượng khách du lịch lẫn sự đa dạng của các loại hình dịch vụ. Riêng trong tháng 12 năm 2015 lượng khách quốc tế vào Việt Nam khoảng 760.798 lượt, tăng 2,6% so với tháng 11 và 15% so với cùng kì năm 2014 [32]. Liên quan đến nguồn lực văn hóa và con người, Việt Nam là một quốc gia đa văn hóa, đa tộc người, với người Kinh đa số và 53 tộc người thiểu số có bản sắc văn hóa riêng tạo nên nền văn hóa Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Đây chính là nguồn tài nguyên du lịch, nguồn lực đầu vào, góp phần tạo nên các sản phẩm du lịch như du lịch văn hóa tộc người, du lịch cộng đồng… Có thể kể đến các chương trình du lịch tiêu biểu ở phía Bắc như: Hà Nội - Sa Pa; Hà Nội - Hà Giang; Hà Nội - Mù Cang Chải (Yên Bái) - Bắc Hà (Lào Cai)v.v... Trong các tuyến du lịch kể trên, Sa Pa nằm trên dãy Hoàng Liên Sơn là một trong những điểm du lịch nổi tiếng nhất ở phía Bắc, bởi nơi đây không chỉ có đỉnh Phan Xi Păng được mệnh danh là nóc nhà Đông Dương, với những cánh rừng nguyên sinh, nơi có khí hậu trong lành mang nhiều sắc thái ôn đới, cảnh quan thiên nhiên vừa hùng vĩ vừa tươi đẹp, và nhiều sắc thái văn hóa đa dạng của các tộc người thiểu số Hmông, Dao, Tày, Giáy… rất hấp dẫn du khách. 1 Trong các tộc người ở Sa Pa, người Hmông và người Dao là hai tộc người có dân số đông, đã sớm tham gia vào các hoạt động du lịch. Bản thân tôi đang là hướng dẫn viên du lịch, ít nhiều có những trải nghiệm trong môi trường du lịch văn hóa dân tộc, do vậy tôi đã chọn đề tài: “Ảnh hưởng của văn hóa tộc người Hmông, Dao tới hoạt động du lịch tuyến Hà Nội - Sa Pa” để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về nhân học du lịch và du lịch tộc người ở Sa Pa cho đến nay đã có khá nhiều tác giả nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Các công trình “Du lịch Sa Pa - Hiện trạng và giải pháp” của Phạm Quỳnh Phương (1997); “Văn hóa dân gian với vấn đề phát triển du lịch ở Lào Cai” của Trần Thùy Dương (1997) và “Nhân học du lịch - Lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu ở Việt Nam” của Trần Thùy Dương (2015), “Du lịch với dân tộc thiểu số ở Sa Pa” của Lâm Mai Lan và Phạm Thị Mộng Hoa (2000)…, đã nêu lên ảnh hưởng của du lịch đối với kinh tế, môi trường, xã hội của cộng đồng dân tộc thiểu số. Còn trong “Ảnh hưởng của du lịch tới hệ thống xã hội của người Hmông ở Sa Pa”, tác giả Trần Hữu Sơn (2004) đã xem xét ảnh hưởng của du lịch lên một số thiết chế xã hội của người Hmông. Những nghiên cứu trên đều đề cập tới tác động của du lịch trên địa bàn nghiên cứu, đặc biệt những ảnh hưởng của hoạt động du lịch đến cộng đồng dân tộc thiểu số. Tác giả Trịnh Lê Anh (2006) trong “Du lịch Trekking ở Việt Nam - Loại hình và phương thức tổ chức” đã nghiên cứu dưới góc độ loại hình và phương thức tổ chức du lịch. Tác giả Nguyễn Trường Giang (2015) trong “Ruộng bậc thang ở Việt Nam - Bảo tồn và phát triển bền vững” đã đề cập đến hình thức canh tác ruộng bậc thang của hai nhóm tộc người Hmông, Dao ở Sa Pa và những nghi thức liên quan đến ruộng bậc thang ở địa bàn nghiên cứu. Công trình này tiếp cận văn hóa tộc người Hmông, Dao dưới góc độ Nhân học du lịch. 2 Qua phần điểm luận những công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy các công trình có hướng tiếp cận chuyên ngành về văn hóa tộc người và tác động của văn hóa tộc người tới hoạt động du lịch. Luận văn này chúng tôi tiếp tục bổ sung và đánh giá những tác động mới của hoạt động du lịch tới văn hóa truyền thống của đồng bào Hmông, Dao. Đồng thời nghiên cứu giữa khách du lịch và cộng đồng địa phương nơi diễn ra hoạt động du lịch. Du lịch ở Sa Pa phát triển khởi sắc trở lại bắt đầu từ những năm 1990 của thế kỉ trước, hơn 20 năm hoạt động và phát triển, du lịch đã mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng, cư dân sinh sống ở Sa Pa và những địa phương được khai thác vào hoạt động du lịch trong đó phải kể đến những tuyến du lịch từ thị trấn Sa Pa là: Sa Pa - Tả Phìn, Sa Pa - Cát Cát, Sa Pa - Lao Chải Tả Van... Giả thuyết nghiên cứu ở đây là: Du lịch đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội và mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng ở Sa Pa, cộng đồng tộc người thiểu số ở Sa Pa và nhóm cộng đồng Hmông, Dao cũng chịu tác dộng từ hoạt động du lịch này. Câu hỏi nghiên cứu được chúng tôi đặt ra ở đây là: hoạt động du lịch tuyến Hà Nội - Sa Pa có những tác động nào từ văn hóa truyền thống của cộng đồng tộc người Hmông, Dao? Và cộng đồng Hmông, Dao ứng xử với hoạt động du lịch ra sao khi hoạt động này ngày càng phát triển ở Sa Pa? Liên quan đến câu hỏi này, từ cách tiếp cận vấn đề trong bối cảnh hoạt động du lịch tại Sa Pa, chúng tôi hướng đến tìm hiểu những câu hỏi nhỏ về các tác động trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý và nhận thức tới cộng đồng Hmông, Dao. Chẳng hạn như trước kia, khi chưa có du lịch thì đời sống của đồng bào thế nào, sau khi có du lịch thì họ sống ra sao? Đơn cử như việc trước đây người dân sản xuất nông nghiệp để ăn là chính, tự cấp tự túc. Khi có du lịch thì người ta sản xuất phục vụ du lịch như thế nào? Tập quán sản xuất của họ sẽ thay đổi ra sao? Họ phải làm cách nào và tích hợp những gì 3 để làm được điều đó? Họ nghĩ thế nào về việc thay đổi đó? Tốt hơn hay xấu hơn trước đây? Họ có hài lòng không hay nhận thức về du lịch mà họ phải làm những thứ như thế? Họ được lợi gì và họ nhận thức lợi ích đó như thế nào? Đối với công ty lữ hành họ nhận thức văn hóa truyền thống ra sao trong hoạt động tổ chức chương trình du lịch của công ty lữ hành và quy hoạch phát triển du lịch của chính quyền địa phương? Hoạt động du lịch làm văn hóa truyền thống biến đổi trên những bình diện nào? Theo hướng nào và tại sao? Đánh giá như thế nào về truyền thống văn hóa? Ai chịu trách nhiệm cho những biến đổi đó? Cuối cùng họ thấy những biến đổi đó có ý nghĩa gì đối với họ? Trái lại, cộng đồng Hmông, Dao nhận thức và hành động như thế nào đối với những thay đổi mà du lịch mang đến? Họ ứng xử với nó như thế nào? Họ kì vọng điều gì và kết quả ra sao? Tương lai họ nghĩ sẽ như thế nào và họ quan tâm điều gì nhất từ hoạt động du lịch này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn hướng tới các mục đích sau: làm rõ một số đặc điểm văn hóa truyền thống của tộc người Hmông, Dao ở Sa Pa, sự tham gia của các yếu tố văn hóa truyền thống của hai tộc người này vào các hoạt động du lịch và tác động của hoạt động du lịch đến văn hóa tộc người. Bên cạnh đó, làm rõ cách thức khai thác của các nhà tổ chức du lịch, các chuyên gia tư vấn hoạt động du lịch trong việc phát triển du lịch gắn với văn hóa truyền thống tộc người ở Sa Pa, từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu được đề cập ở luận văn này là cộng đồng tộc người Hmông, Dao ở Sa Pa, các công ty du lịch khai thác tuyến du lịch Hà Nội - Sa Pa và khách du lịch đến Sa Pa. 4 Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu một số đặc điểm văn hóa truyền thống và tác động của văn hóa truyền thống của đồng bào Hmông, Dao ở hai địa bàn thôn Lý, xã Lao Chải và thôn Sả Xéng, xã Tả Phìn, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai đến hoạt động du lịch tuyến Hà Nội - Sa Pa. Đây là hai địa bàn sinh sống của cộng đồng người Hmông đen và cộng đồng người Dao đỏ, cũng là các điểm du lịch đã được khai thác sớm ở Sa Pa. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. Trên cơ sở câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết đã được đưa ra, chúng tôi chọn phương pháp nghiên cứu điền dã dân tộc học với các nghiên cứu trường hợp để giải quyết các vấn đề đặt ra của luận văn. Để thu thập thông tin chúng tôi kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng, định tính và phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp (thao tác) cùng với các cuộc quan sát tham dự vào hoạt động của người dân tại thị trấn Sa Pa và hai địa bàn nghiên cứu chính là thôn Lý, xã Lao Chải và thôn Sả Xéng, xã Tả Phìn. Trong các hoạt động nghiên cứu trên, điền dã dân tộc học, quan sát tham dự là phương pháp nghiên cứu đặc trưng của ngành Dân tộc học/Nhân học, có tầm quan trọng hàng đầu trong việc khảo sát thu thập dữ liệu cho luận văn này. Để chọn điểm nghiên cứu cho đề tài, chúng tôi đã tiến hành các cuộc khảo sát địa bàn. Đợt khảo sát thứ nhất từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 8 năm 2015, chúng tôi khảo sát thôn Cát Cát, một trong những điểm du lịch rất sôi động ở tuyến bản và là địa bàn sinh sống của cộng đồng người Hmông đen. Cự ly từ thị trấn xuống Cát Cát khoảng 2,5 km, du khách có thể đi bộ tham quan trong thời gian là hai giờ đồng hồ, nhưng việc lưu trú của du khách hầu như không diễn ra. Vì thế chúng tôi không chọn Cát Cát là điểm nghiên cứu của đề tài. Đợt khảo sát thứ hai bắt đầu từ ngày 24 đến 26 tháng 10 năm 2015, chúng tôi khảo sát thôn Lý, xã Lao Chải cách thị trấn Sa Pa khoảng 6 km, bởi Lao Chải là địa bàn nằm trên tuyến du lịch Sa Pa - Lao Chải - Tả Van khá 5 phát triển của huyện Sa Pa. Đây cũng là địa bàn sinh sống của người Hmông đen, xa thị trấn, du khách có lưu trú tại bản qua đêm. Điểm này đã đáp ứng được yêu cầu đối với nhóm cộng đồng thứ nhất của luận văn. Nhóm thứ hai chúng tôi muốn nghiên cứu là cộng đồng người Dao đỏ. Ban đầu, xã Tả Van là điểm mà chúng tôi quan tâm, vì Tả Van cách thị trấn Sa Pa 10 km và cũng nằm trong tuyến du lịch Sa Pa - Lao Chải - Tả Van. Tả Van cũng là nơi có cộng đồng người Dao đỏ sinh sống. Nhưng qua cuộc khảo sát của chúng tôi thì ở Tả Van hoạt động du lịch khá phát triển nhưng chủ yếu là do đồng bào người Giáy đảm nhận. Cũng trong thời gian này chúng tôi khảo sát tuyến du lịch Sa Pa - Tả Phìn. Tả Phìn là địa bàn sinh sống của nhiều nhóm dân tộc, trong đó người Hmông và người Dao chiếm đa số, là địa bàn du lịch rất phát triển, cách thị trấn Sa Pa 12 km về phía Lào Cai. Tại đây, hoạt động du lịch diễn ra gắn với đa số người Dao đỏ. Hoạt động du lịch chủ yếu diễn ra tại thôn Sả Xéng, một thôn nằm ở vị trí trung tâm của xã và cũng là địa bàn thứ hai chúng tôi chọn điểm nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn cung cấp một miêu tả dân tộc học chi tiết có tính phân tích về các tác động từ hoạt động du lịch tới văn hóa truyền thống qua các khía cạnh như kinh tế, văn hóa, xã hội, tâm lý và nhận thức… của cộng đồng tộc người Hmông, Dao và tâm thế ứng xử của cộng đồng tộc người Hmông, Dao trước những tác động của hoạt động du lịch mang lại. Luận văn còn có ý nghĩa làm cơ sở tham khảo cho các nhà quản lý và quy hoạch du lịch của Sa Pa trong chiến lược bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng tộc người thiểu số mà ở đây là hai nhóm cộng đồng tộc người Hmông, Dao; đồng thời cũng là tài liệu hữu ích cho các công ty du lịch tham khảo trong chiến lược xây dựng sản phẩm du lịch của mình mà không làm ảnh hưởng xấu tới văn hóa tộc người ở Sa Pa. 6 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần dẫn nhập, luận văn gồm có ba chương với nội dung cụ thể như sau: Chương 1. Một số vấn đề lí luận và vài nét về hai tộc người Hmông, Dao trong hoạt động du lịch tại Sa Pa. Chương này bàn luận về một số khái niệm liên quan có tính cơ sở cho việc nghiên cứu. Đồng thời, chúng tôi phân tích những tác động của du lịch trên các bình diện văn hóa truyền thống như văn hóa mưu sinh, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần. Chương 2. Thực trạng khai thác văn hóa tộc người Hmông, Dao trong hoạt động du lịch tuyến Hà Nội - Sa Pa. Chương này phân tích một số phương thức khai thác các giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng Hmông, Dao trong chu trình tạo sản phẩm du lịch, thực trạng khai thác văn hóa hai tộc người này trong khai thác du lịch cùng những trải nghiệm của du khách. Mục tiêu của chương này là từng bước tìm hiểu văn hóa truyền thống của hai tộc người tại điểm nghiên cứu biến đổi do những nguyên nhân nào, từ đó xác định được tác động của văn hóa truyền thống tới hoạt động du lịch tuyến Hà Nội - Sa Pa. Chương 3. Bàn luận về hoạt động du lịch gắn với văn hóa tộc người Hmông, Dao ở Sa Pa trên hai địa bàn nghiên cứu. Chương này phân tích những ý kiến của các chuyên gia, các nhà tổ chức du lịch để tìm hiểu ứng xử của các nhà tổ chức và chuyên gia tư vấn về du lịch với văn hóa truyền thống. Mặt khác, chúng tôi tìm hiểu thế ứng xử của hai cộng đồng cư dân tại điểm nghiên cứu về những thay đổi do hoạt động du lịch. 7 CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ VÀI NÉT VỀ TỘC NGƯỜI HMÔNG, DAO TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI SA PA 1.1. Các khái niệm Với mục đích tập trung nghiên cứu hoạt động du lịch có những tác động nào tới văn hóa truyền thống của cộng đồng Hmông, Dao và cộng đồng tộc người Hmông, Dao ứng xử với hoạt động du lịch ra sao khi hoạt động này ngày càng phát triển ở Sa Pa; chúng tôi đề cập đến những khái niệm liên quan đến nội dung luận văn làm cơ sở phân tích của luận văn. - Văn hóa tộc người: Theo GS.TS. Ngô Đức Thịnh, nhà dân tộc học, văn hóa học thì: văn hóa tộc người là tổng thể các yếu tố văn hóa mang tính đặc thù tộc người, nó thực hiện chức năng cố kết tộc người và phân biệt tộc người này với tộc người kia. Trong văn hóa tộc người, các yếu tố đầu tiên được nhận diện là ngôn ngữ, trang phục, các tín ngưỡng và nghi lễ, vốn văn học dân gian, tri thức dân gian về tự nhiên xã hội, về bản thân con người và tri thức sản xuất, khẩu vị ăn uống, tâm lý dân tộc…[38]. Theo định nghĩa này thì văn hóa tộc người được hiểu bao gồm các giá trị văn hóa vật chất, giá trị văn hóa tinh thần. - Du lịch: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định [22, tr.9]. Trong luận văn này, chúng tôi tìm hiểu chuyến đi của khách du lịch thông qua chương trình du lịch Hà Nội - Sa Pa. - Kinh doanh du lịch: Là kinh doanh dịch vụ, bao gồm các ngành, nghề sau đây [22, tr37]: 8 1. Kinh doanh lữ hành; 2. Kinh doanh lưu trú du lịch; 3. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch; 4. Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch; 5. Kinh doanh dịch vụ du lịch khác. Ở trong luận văn này, chúng tôi khai thác khía cạnh kinh doanh lữ hành để làm cơ sở nghiên cứu của luận văn. - Lữ hành: Lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch [22, tr10]. - Doanh nghiệp lữ hành: Doanh nghiệp lữ hành là một loại hình doanh nghiệp du lịch, kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực tổ chức sản xuất, bán và thực hiện các chương trình du lịch trọn gói cho khách du lịch. Ngoài ra doanh nghiệp lữ hành còn có thể tiến hành các hoạt động trung gian bán sản phẩm của các nhà cung cấp du lịch hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác phục vụ các nhu cầu du lịch của khách từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng [13, tr.45]. Doanh nghiệp lữ hành có hai hình thức kinh doanh: Doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa (doanh nghiệp này không được phép kinh doanh lữ hành quốc tế được qui định tại điểm 2, khoản 3, điều 43, Luật Du lịch 2005). Và doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế (doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế được phép kinh doanh lữ hành nội địa, được quy định tại khoản 3, điều 43, Luật Du lịch, 2005) [22,tr.40]. - Hoạt động kinh doanh lữ hành: Hoạt động kinh doanh lữ hành được hiểu theo nghĩa rộng: Hoạt động kinh doanh lữ hành được hiểu là doanh nghiệp đầu tư để thực hiện một hoặc một số hoặc tất cả các công việc trong quá trình tạo ra và chuyển giao sản 9 phẩm từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch với mục đích hưởng hoa hồng hoặc lợi nhuận. Kinh doanh lữ hành có thể hiểu là kinh doanh một hoặc nhiều hơn một hay tất cả các dịch vụ và hàng hóa thỏa mãn hầu hết các nhu cầu thiết yếu, đặc trưng và các nhu cầu khác của khách du lịch. Theo nghĩa hẹp của lữ hành: kinh doanh lữ hành là hoạt động tổ chức các chương trình du lịch nhằm mục đích sinh lợi [13,tr.30]. - Nhân học du lịch: Trên thế giới cho đến năm 1970, một số nhà nhân học đã có quan tâm tới hoạt động du lịch. Du lịch gắn liền với nhiều vấn đề lý thuyết và thực tiễn trong ngành nhân học. Về mặt nhận thức, các chủ đề chính mà các nhà nhân học đã thực hiện trong nghiên cứu du lịch được chia làm hai hướng nghiên cứu: một hướng tìm hiểu về nguồn gốc của du lịch và một hướng tiếp cận những tác động của du lịch (khách du lịch và cộng đồng địa phương). Nhu cầu đi du lịch của con người là một nhu cầu thiết yếu. Con người biết tổ chức các chuyến đi với những hình thức khác nhau, đến với những nơi có cảnh đẹp cùng với các địa danh di tích lịch sử văn hóa khác với nơi mình sinh sống. Du lịch được coi là một hiện tượng văn hóa - xã hội và kinh tế. Du lịch lúc đầu là một chuyến đi công tác của các nhà lãnh đạo đến làm việc, sau đó nó phát triển gắn liền với các cuộc hành hương đến thánh địa Mecca của các tín đồ Hồi giáo… dần dần nảy sinh nhu cầu nghiên cứu hành vi của khách du lịch thông qua những chuyến đi của họ. Theo tác giả Theron Nunez, 1963 khi ông nghiên cứu “du lịch, truyền thống và tiếp biến văn hóa tại một ngôi làng ở Mexico” ông nghiên cứu mối tiếp xúc nông thôn, thành thị và tiếp biến văn hóa và ông cho rằng các du khách thành thị có thể được cho là đại diện cho một nền văn hóa “cho đi” trong khi cộng đồng địa phương lại có thể coi là nền văn hóa “tiếp nhận”. [17, tr.1]. 10 Từ những phân tích trên, trong khuôn khổ luận văn này nhân học du lịch là nghiên cứu về con người trong hoạt động du lịch, đối tượng nghiên cứu của nhân học du lịch là khách du lịch (đại diện cho nền văn hóa mới) và cộng đồng địa phương (văn hóa truyền thống ) nơi diễn ra hoạt động du lịch. 1.2. Tộc người Hmông, Dao từ góc nhìn nhân học du lịch 1.2.1. Tổng quan về Sa Pa và địa bàn nghiên cứu Sa Pa là một huyện nằm ở phía Bắc tỉnh Lào Cai, cách thành phố Lào Cai 38 km về phía Tây Nam, cách Hà Nội gần 300 km về phía Tây Bắc. Từ Hà Nội lên Sa Pa, nếu đi đường bộ, du khách có thể đi ôtô theo tuyến đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai mất khoảng 4 giờ đồng hồ, sau đó tiếp tục đi thêm khoảng một giờ đồng hồ nữa là tới thị trấn Sa Pa, huyện Sa Pa. Nếu đi bằng đường sắt, du khách đi từ ga Trần Quý Cáp (Hà Nội) tới ga Lào Cai khoảng 10 giờ đồng hồ, sau đó đi xe ôtô thêm khoảng một giờ đồng hồ thì tới Sa Pa. Tổng dân số của huyện Sa Pa là 52.899 người (năm 2009). Huyện Sa Pa có 7 tộc người sinh sống, trong đó người Hmông 51.65%, Dao 23.04%, Kinh 17.91%, Tày 4.74%, Giáy 1.36%, Xá Phó (Phù Lá) 1.06%, Hoa và các tộc người khác 0,23%[ 6]; người Kinh chủ yếu sống ở thị trấn và làm dịch vụ kinh doanh du lịch và thương mại. Các nhóm tộc người thiểu số như Hmông, Dao chủ yếu làm nghề nông nghiệp và sống ở những xã nghèo của huyện Sa Pa, kể từ khi có hoạt động du lịch ở Sa Pa thì một số nhóm người tham gia hoạt động bán hàng và làm các dịch khác phục vụ khách du lịch tại thị trấn và các tuyến du lịch... Sa Pa có đỉnh Phan Xi Păng cao 3.143 m. Thị trấn Sa Pa nằm ở độ cao trung bình từ 1500 đến 1800 m so với mực nước biển, nên khí hậu ít nhiều lại mang sắc thái của xứ ôn đới, với nhiệt độ trung bình từ 150 C đến 180 C. Từ tháng 5 đến tháng 8 mưa nhiều. 11 Đơn vị hành chính của huyện Sa Pa có 17 xã, một thị trấn, đa phần các xã hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính, một số xã phát triển về du lịch như: San Sả Hồ, Thanh Kim, Thanh Phú, Lao Chải, Tả Van, Tả Phìn. Hiện nay huyện Sa Pa đang triển khai kế hoạch xây dựng và nâng cấp tuyến du lịch liên xã để thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Xã Tả Phìn là một xã thuộc khu vực III miền núi của huyện Sa Pa, cách trung tâm thị trấn huyện 12 km. Xã có 6 thôn, tổng diện tích đất tự nhiên là 2178 ha, với 601 hộ gia đình và 3043 nhân khẩu, trong đó nam giới 1507 khẩu (chiếm 49,52%), nữ 1536 khẩu (chiếm 50,48%). Số người Hmông có 332 hộ (55,2%); Dao có 219 hộ (35,44%); Giáy 01 hộ (0,17%); Tày 02 hộ (0,33%); Kinh 47 hộ (7,82%)[36]. Trong 06 thôn thì có 03 thôn của người Dao (Thôn Sả Xéng, Tả Chải và Lủ Khấu), thôn Sả Xéng là thôn trung tâm của xã và cũng là nơi diễn ra hoạt động du lịch chính của xã Tả Phìn. Xã Lao Chải là xã nằm ở phía Đông Nam và cách huyện lỵ Sa Pa khoảng 7km, với số dân đa số là người Hmông, phân bố ở các thôn Lý, thôn Hàng, thôn San 1, San 2, thôn Lồ. Tên gọi của các thôn ở đây gắn với tên của dòng họ có vai trò trong việc lập thôn. Toàn xã có 631 hộ và 3919 nhân khẩu. Thôn Lý có 175 hộ (người Hmông có 158 hộ chiếm 90,3%; người Kinh 17 hộ chiếm 9,7%), thôn Lý dòng họ chiếm số đông là họ Lý, ngoài ra còn có một số người dòng họ khác. Nguồn thu nhập chủ yếu của thôn là làm nông nghiệp và tham gia hoạt động du lịch.[34] 12 Hình 1.1. Các điểm thăm quan du lịch ở Sa Pa [nguồnhttp://laocai.gov.vn/sites/sapa/bandohuyen/Trang/634046080866084190.aspx, truy cập ngày: 01/03/2016]. 13 1.2.2. Một số đặc điểm lịch sử và văn hóa tộc người Hmông 1.2.2.1. Lịch sử tộc người Người Hmông ở Việt Nam có 4 nhóm chính, đó là: Hmông Xanh, Hmông Trắng, Hmông Hoa và Hmông đen [37.tr.400]. Họ vốn có nguồn gốc từ phía nam Trung Quốc. Lịch sử thiên di của người Hmông cũng là lịch sử đấu tranh không ngừng chống phong kiến áp bức dân tộc. Đến Việt Nam họ mong muốn có cuộc sống ổn định và ấm no hơn. Trong đồng bào có lưu truyền rằng “Việt Nam là nơi đất đai màu mỡ dễ làm ăn, nơi có quả bí to như cái Vạc mà lợn rừng có thể khoét lỗ chui vào đó đẻ, nó vừa là ổ, vừa là thức ăn cho lợn, nơi trồng cây lương thực, gốc có củ, thân có bắp, ngọn trổ lúa” [37,tr.401]. Người Hmông ở tỉnh Lào Cai cũng có 4 nhóm: Hmông hoa (Hmông lềnh) là ngành có số dân đông nhất, chiếm tới 70% số người Hmông ở Lào Cai, cư trú ở 8 huyện nhưng tập trung ở Bắc Hà, Mường Khương, Sa Pa, Bảo Thắng và Bảo Yên; Hmông đen (Hmông đu) cư trú tại Bát Xát, Sa Pa; Hmông xanh (Hmông súa) cư trú tập trung ở xã Nậm Xé, huyện Văn Bàn và Hmông trắng (Hmông đơ) cư trú ở huyện Bắc Hà, Bát Xát, Văn Bàn, Sa Pa [27, tr.9-10]. Người Hmông di cư đến Lào Cai cách ngày nay hơn hai trăm năm. Đợt di cư đầu tiên vào Lào Cai gồm 80 gia đình [27, tr.10]. Thủ lĩnh dẫn đầu đoàn di cư người Hmông đến Lào Cai là ông Hoàng Sín Dần, một tộc trưởng có uy tín và giỏi võ nghệ. Họ sinh sống ở Bắc Hà được ba đời thì có ba gia đình lại tiếp tục di cư sang Sa Pa. Đoàn di cư do ông Lý Thàng Pua dẫn đầu. Người Hmông dù đến cư trú ở Lào Cai sớm hay muộn đều coi Lào Cai là quê hương, Việt Nam là tổ quốc mình. Người Hmông ở huyện Sa Pa phần lớn là Hmông Đen (Hmông đu), ngoài ra còn có nhóm Hmông hoa và người Hmông xanh. Người Hmông Đen di cư từ vùng Quý Châu, Trung Quốc sang Sa Pa (Việt Nam). Nhóm Hmông ở thôn Lý, xã Lao Chải là Hmông đen. 14 1.2.2.2. Một số đặc điểm văn hóa mưu sinh Trước đây, đồng bào trồng đậu răng ngựa, củ đao, khoai lang, khoai sọ, rau cải, rau muống… chủ yếu cung cấp cho sinh hoạt hàng ngày, nếu có nhiều thì mang trao đổi với những người trong bản. Hiện nay, đồng bào trồng rau cải mèo, bắp cải, cải trắng... một phần phục vụ cho sinh hoạt, phần khác cung cấp cho các nhà hàng, khách sạn ở thị trấn Sa Pa. Ngoài ra, đồng bào còn trồng đào, mận để ăn và bán tại địa phương, và cũng để cho khách du lịch mua về làm quà khi đến Sa Pa. Thu hoạch xong, đồng bào chủ yếu mang ra thị trấn Sa Pa bán vào thứ 6, thứ 7 và chủ nhật vì thời điểm này khách du lịch đến Sa Pa đông nhất trong tuần. Còn nếu gia đình nào trồng số lượng lớn thì mang bán cho những hộ kinh doanh ở thị trấn. Trước đây đồng bào trồng 3 loại ngô: ngô nếp (po cừ lảu), ngô trắng (po cừ đây), ngô vàng (po cừ đằng). Theo kinh nghiệm của đồng bào thì ngô trắng để lâu hay bị sâu, ngô đỏ để lâu thì không bị sâu và ngô trắng mềm hơn. Trước đây đồng bào trồng toàn ngô trắng, còn bây giờ trồng hai loại như nhau. Ngô nếp trồng để cho con người ăn, nhất là bán cho khách du lịch, không dùng cho chăn nuôi, ngoài ra còn làm bánh ăn vì có vị dẻo, thơm. Đồng bào toàn ăn ngô trắng, cách chế biến là xay ngô thành bột để làm mèn mén ăn. Ngô nếp cũng ăn nhưng không ăn nhiều, chỉ ăn một vài bữa, không ăn liên tục được. Trước đây, một số gia đình hết gạo trước tết từ một đến hai tháng thì bắt đầu ăn ngô thay thế, hoặc dùng ngô độn với cơm để ăn. Đồng bào ở đây trồng ngô sớm để thu hoạch sớm, để có cái ăn vào ngày làm mùa. Đến tháng chín mới thu hoạch lúa và có lúa ăn. Hiện nay, với sự trợ giúp của khoa học kĩ thuật và sự quan tâm của chính quyền địa phương nên đồng bào không phải ăn ngô nữa, mà ngô bây giờ chỉ để chăn nuôi. Cho nên những người trẻ bây giờ không biết làm mèn mén. Đồng bào ít ăn ngô dần từ khoảng năm 1995, 1996 đến nay. Thời kì đó 15 bắt đầu có giống lúa mới cho năng suất cao hơn nên có đủ gạo ăn. Bây giờ trồng giống ngô mới, những gia đình nghèo thì nhà nước cho, còn những gia đình khác tự mua. Ngô không chỉ để bổ sung cho khẩu vị ăn khi hết gạo, mà còn dùng để nấu rượu, một loại rượu đặc trưng của người Hmông. Rượu vừa được để dùng trong cuộc sống hàng ngày và bán cho khách du lịch khi du lịch ngày càng phát triển. “Gia đình tôi trước đây trồng ngô chủ yếu để ăn khi hết gạo, sau khi có giống thóc mới từ nhà nước, thì gia đình từ thiếu ăn sang đủ ăn và không phải ăn ngô nữa. Ngô được dùng trong chăn nuôi lợn, gà. Rượu ngô thì gia đình tôi cũng làm từ lâu và cũng chỉ để dùng hàng ngày và sử dụng trong các nghi lễ của năm. Từ khi có khách du lịch đến Sa Pa, người kinh doanh trên thị trấn xuống có tìm mua rượu trong thôn, và lúc đó gia đình tôi cũng bán cho họ. Nhưng do số lượng rượu làm ra thì ít, mà nhu cầu họ mua thì nhiều, nên họ có đặt gia đình tôi và vài gia đình khác trong thôn làm rượu ngô cung cấp cho họ số lượng nhiều và thường xuyên”. (Ông L.A.P(1957) và bà T.T.V,(1958), thôn Lý, xã Lao Chải). Đồng bào Hmông ở đây chủ yếu canh tác trên ruộng bậc thang với cây trồng chính là lúa nước. Trong những năm qua, do công tác thủy lợi được tăng cường, ruộng bậc thang đã dần dần được khai phá thêm nhiều. Ruộng thường được cầy ải, bừa kĩ, cấy trồng, bón phân và được làm cỏ hai đến ba lần. Việc chọn giống, mặc dù chỉ theo thói quen nhưng đồng bào thường chọn được giống tốt, thích hợp với điều kiện thiên nhiên của địa phương. Loại hình ruộng bậc thang ở đây cũng là một nhân tố thu hút khách du lịch đến tham quan, trải nghiệm. Vào mùa lúa chín khoảng tháng tám, tháng chín âm lịch, khách du lịch đi từ thị trấn Sa Pa theo tuyến Lao Chải - Tả Van được ngắm những ruộng lúa chín và chụp hình làm lưu niệm. Cũng vào thời kì này, lượng khách đến Lao Chải rất đông, đặc biệt là khách nước ngoài. “Vào thời kì lúa chín, thì dòng khách đến và đi qua xã tăng một cách đột biến, tuy hình thức này không mang lợi nhuận gì trực tiếp cho cộng đồng, nhưng đây lại là cầu nối cho việc quảng bá hoạt động du lịch của Lao Chải” (Theo Ông Hoàng Ngọc Kiến, Chủ tịch UBND xã Lao Chải) 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan