Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận 6, thàn...

Tài liệu áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn quận 6, thành phố hồ chí minh

.PDF
65
332
98

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quận 6 là một trong 24 quận huyện của Thành phố Hồ Chí Minh, cửa ngõ phía Tây Nam Thành phố Hồ Chí Minh; phía Bắc giáp với quận Tân Phú và Quận 11 có ranh giới dọc theo rạch Lò Gốm, đại lộ Hồng Bàng; phía Đông giáp với Quận 5, có ranh giới dọc theo đường Nguyễn Thị Nhỏ, qua bến xe Chợ Lớn, đường Ngô Nhân Tịnh; phía Nam giáp Quận 8, có ranh giới kênh Bến Nghé (bến Trần Văn Kiểu cũ); phía Tây giáp với quận Bình Tân, có ranh giới đường An Dương Vương. Quận 6 có tổng diện tích tự nhiên là 7,14km2, chiếm 0,34 diện tích tự nhiên của toàn thành phố Hồ Chí Minh. Dân số hiện nay của Quận 6 tính đến năm 2016 là 260.742 người. Về thành phần dân tộc, đa số là người Kinh (chiếm 73,40%), kế đến là người Hoa chiếm 26, 01%, ngoài ra còn một số dân tộc khác như người Chăm (chiếm 0,21%), Khmer (chiếm 0,28%), Tày, Thái … Trong những năm qua, Quận 6 phát huy lợi thế của mình đã và đang phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định hướng “Thương mại - Dịch vụ - Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp”, các ngành dịch vụ chất lượng cao, các tuyến đường khu vực kinh doanh chuyên ngành, đa ngành từng bước hình thành và phát triển. Quản lý đô thị có chuyển biến tích cực, nhiều công trình, dự án trọng điểm được triển khai xây dựng, nhất là các công trình hạ tầng kỹ thuật, cải thiện môi trường sống, góp phần thay đổi rõ nét diện mạo đô thị quận theo hướng văn minh, hiện đại. Lĩnh vực văn hoá – xã hội đạt nhiều kết quả tích cực; môi trường văn hoá có bước phát triển; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, phòng chống dịch bệnh được tập trung; chính sách an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, giải quyết việc làm được thực hiện ngày càng tốt hơn; giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, không ngừng củng cố nhiệm vụ quốc phòng và an ninh. 1 Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, Quận 6 vẫn còn gặp nhiều khó khăn như chưa phát triển đạt yêu cầu đối với các ngành dịch vụ có giá trị kinh tế cao do địa bàn quận chưa có nhiều trung tâm thương mại, chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, hạ tầng đô thị chưa thông thoáng, chưa thuận lợi nên chưa thu hút các nguồn lực đầu tư. Các tệ nạn xã hội và tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp nhất là các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ và các tội xâm phạm sở hữu, trong đó nổi cộm là tội trộm cắp tài sản. Từ những phân tích nêu trên, học viên chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh” làm luân văn cao học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài được giao, học viên đã xem tham khảo các công trình khoa có liên quan sau: Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2017), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2014), giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb thông tin và truyền thông, Hà Nội; Trần Văn Biên – Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội; Trần Văn Biên – Đinh Thế Hưng (2017), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội. Các công trình trên cần thiết cho việc nghiên cứu để thực hiện đề tài Luận văn vì nó chứa đựng lý luận khoa học Luật hình sự về các vấn đề cơ bản mà luận văn phải giải quyết. Bên cạnh đó, các công trình đó còn chỉ dẫn cho việc xác định phương pháp nghiên cứu đề tài từ tổng quan đến chi tiết để hoàn thành luận văn. Ngoài ra, tác giả còn tham khảo thêm các luận văn thạc sĩ, 2 tiến sĩ có liên quan đến tội trộm cắp tài sản có thể kể đến như: Luận văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước” của tác giả Lê Thị Bình, Học viện Khoa học xã hội, 2018; luận văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn từ huyện Sóc Sơn, Thành phố Hà Nội” của tác giả Phạm Tuấn Anh, Học viện Khoa học xã hội; luận văn thạc sĩ “ Áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Trần Thị Kim Quy, Học viện Khoa học xã hội, 2017….. Các công trình, đề tài trên đã làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận chung của tội trộm cắp tài sản, các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản…. Tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, thông qua luận văn này tác giả muốn đi sâu nghiên cứu thực tiễn tội trộm cắp tài sản, những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó, kế thừa các công trình của các tác giả trước để đưa ra các giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện và áp dụng đúng các quy định pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản. 3. Mục đích và nhiệm vụ 3.1 Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn làm rõ những vấn đề chung về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh, đề xuất các giải pháp đảm bảo việc áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng tại Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ 3 Để đạt được mục đích nói trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau: - Làm rõnhững vấn đề lý luận và phân tích các quy định pháp luật về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. - Phân tích các yếu tố cấu thành và đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. - Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. - Đề xuất các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản n trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian, đề tải sử dụng số liệu nghiên cứu trong vòng năm năm (05 năm) từ năm 2014 đến năm 2018, bao gồm số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự cấp quận và các bản án hình sự sơ thẩm trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. - Về cơ sở pháp lý, đề tài đề cập đến tội trộm cắp tài sản quy định tại chương XIV điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). - Về không gian, Đề tài luận văn được thực hiện trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin với phép duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và 4 Nhà nước ta về Nhà nước pháp luật, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp, về đấu tranh phòng chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phương pháp hệ thống; phương pháp lịch sử, logic; Phương pháp phân tích, so sánh; Phương pháp thống kê, tổng hợp. Trong đó, tác giả chú trọng cách tiếp cận kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. 6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn. Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trôm cắp tài sản và thực tiễn áp dụng tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn đề xuất một số yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, danh mục các bảng, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2014 – 2018. Chương 3: Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 1.1. Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản và đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản 1.1.1. Các yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản * Mặt khách quan của tội phạm Hành vi khách quan: trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn lén lút, lợi dụng sơ hở của người bị hai. Hành vi lén lút của tội phạm là lén lút đối với việc chiếm đoạt tài sản, có thể tội phạm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trước mặt nhiều người nhưng người đó không biết được đó là hành vi trộm cắp tài sản (Ví dụ như: lợi dụng lúc cả nhà anh B đi về quê, không có người ở nhà, A cạy cửa nhà anh B, ngang nhiên vào nhà lấy tài sản trước sự chứng kiến của nhiều người nhưng họ không hay biết A đang chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp của nhà người khác mà đều nghĩ A là người thân của gia đình anh B). Cũng có thể người phạm tội thực hiện hành vi lén lút với người bị hại nhưng công khai với người khác (như: hành vi móc túi nơi công cộng) Hậu quả: hậu quả của tội phạm này là gây thiệt hại về tài sản cho người bị hại. Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội trộm cắp tài sản. Nếu một người có ý định trộm cắp tài sản của người khác nhưng chưa thực hiện được hành vi chiếm đoạt tài sản mà bị phát hiện thì chưa cấu thành tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, người phạm tội đã có hành vi chuyển tài sản ra khỏi vị trí ban đầu của nó thì sẽ bị truy tố về tội trộm cắp tài sản dù mục đích chiếm đoạt tài sản có đạt được hay không (Ví dụ: Y lén vào nhà A trộm cắp tài sản, nhưng chưa kịp đem số tài sản ra khỏi nhà A thì bị phát hiện. Trường hợp này Y đã phạm tội 6 trộm cắp tài sản, nếu Y bị phát hiện trước khi lấy tài sản thì mới không phạm tội). * Mặt chủ quan của tội phạm Tội trộm cắp tài sản được người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý. Mục đích của tội phạm là chiếm đoạt tài sản của người khác. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp, người đồng phạm với người trộm cắp tài sản nhưng không có mục đích chiếm đoạt tài sản mà không cấu thành tội khác thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản (Ví dụ: A ghét B nên xúi giục C trộm tài sản của B. Trường hợp này mặc dù A không có mục đích chiếm đoạt tài sản của B nhưng A vẫn bị truy cứu về tội trộm cắp tài sản với vai trò đồng phạm. * Khách thể của tội phạm Khách thể trực tiếp của tội trộm cắp tài sản là quyền sở hữu, cụ thể là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ tài sản đối với tài sản bị trộm cắp. Đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản là tài sản. Tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền về tài sản. Vật là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản phải thoả mãn 3 điều kiện: Thứ nhất, phải là sản phẩm lao động của con người; thứ hai, không có tính chất và công dụng đặc biệt; thứ ba, chưa bị chủ tài sản huỷ bỏ. Tiền luôn là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. Giấy tờ có giá chỉ là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu khi nó vô danh. Quyền về tài sản không phải là đối tượng tác động của tội trộm cắp tài sản. * Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS. Theo quy định tại Điều 12, Điều 173 Bộ luật Hình sự hiện hành thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình 7 sự về tội trộm cắp tài sản theo khoản 3, 4 Điều 173 Bộ luật hình sự; đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu trách nhiệm hình sự đối với cả những hành vi thuộc khoản 1,2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. 1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản có các đặc điểm sau: Thứ nhất, là một dạng đặc biệt của áp dụng pháp luật, khi nhà nước áp dụng biện pháp trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất đối với người phạm tội. Áp dụng pháp luật là hình thức đặc thù luôn có sự tham gia của Nhà nước, thông qua các cơ quan hoặc người có thẩm quyền. ADPL là hình thức thực hiện pháp luật diễn ra trong hoạt động hành pháp và tư pháp của Nhà nước. Áp dụng pháp luật được tiến hành chủ yếu theo ý chí đơn phương của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị ADPL. Sự áp dụng này có tính bắt buộc đối với chủ thể bị ADPL, được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế nhà nước. Ví dụ công dân B đủ dấu hiệu cấu thành tội trộm cắp tài sản theo Điều 173 BLHS năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) thì thẩm phán phải áp dụng hình phạt tương xứng được quy định tại Điều luật này, không được phép xử cao hơn hay thấp hơn. Thứ hai, là sự điều chỉnh cá biệt các quan hệ xã hội khi có hành vi trộm cắp tài sản xảy ra. Đối tượng của hoạt động ADPL là những quan hệ cần đến sự điều chỉnh cá biệt trên cơ sở những mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật. Bằng hoạt động ADPL những quy phạm pháp luật nhất định được cá biệt hoá vào những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội. Ví dụ: A trộm cắp tài sản 8 của B, thì thông qua quá trình điều tra, truy tố xét xử các cơ quan ADPL căn cứ vào Bộ luật hình sự để áp dụng định tội danh tội trộm cắp tài sản và mức hình phạt tương xứng đối với A. Thứ ba, là khi có phát sinh quan hệ pháp luật hình sự. Quan hệ pháp luật hình sự phát sinh khi đảm bảo hai chủ thể với những địa vị pháp lý khác nhau là Nhà nước và người phạm tội. Căn cứ làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự là hành vi phạm tội đã diễn ra trong thực tế và thời điểm chấm dứt quan hệ pháp luật hình sự là khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt hoặc bất kỳ biện pháp nào của mà Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội; hoặc người phạm tội chết. Cụ thể, đối với tội trộm cắp tài sản thì quan hệ pháp luật hình sự phát sinh khi hành vi trộm tài cắp tài sản diễn ra trong thực tế và thời điểm chấm dứt quan hệ pháp luật hình sự là người phạm tội trộm cắp tài sản chấp hành xong hình phạt hoặc các biệp pháp khác của Nhà nước áp dụng với người phạm tội trộm cắp tài sản. Thứ tư, thủ tục tiến hành chặt chẽ theo quy định của bộ luật TTHS Điều này có nghĩa là việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sàn không thể tiến hành một cách tùy tiện mà phải diễn ra trên cơ sở, trong những điều kiện và theo những thủ tục nhất định do pháp luật quy định, đó là thủ tục TTHS. Cuối cùng, chủ thể áp dụng là các cơ quan tiến hành TTHS Pháp luật quy định mỗi loại cơ quan nhà nước nhất định được tiến hành hoạt động ADPL nhất định. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản và những cơ quan này còn được biết đến là các cơ quan tiến hành TTHS đối với loại tội này nếu như xem xét hoạt động áp dụng pháp luật hình 9 sự là một quá trình từ khi bắt đầu đến khi ra được văn bản áp dụng pháp luật hình sự. 1.2. Nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản 1.2.1. Định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản 1.2.1.1. Khái niệm, đặc điểm định tội danh tội trộm cắp tài sản Theo GS.TS Võ Khánh Vinh “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự” [66, tr. 9-10]. Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội phạm có tên tội danh là “Tội trộm cắp tài sản”, do đó dựa trên khái niệm định tội danh mà GS.TS Võ Khánh Vinh đã xây dựng, chúng ta có thể đưa ra khái niệm định tội danh tội trộm cắp tài sản như sau: Định tội danh tội trộm cắp tài sản là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 173 BLHS. - Đặc điểm định tội danh tội trộm cắp tài sản Định tội danh tội trộm cắp tài sản là một trường hợp định tội danh cụ thể, vì vậy nó có đặc điểm của định tội danh: [66, tr.10] Thứ nhất, định tội danh tội trộm cắp tài sản là một quá trình lôgic nhất định, là hoạt động xác nhận và ghi nhận sự phù hợp của trường hợp phạm tội cụ thể với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS. Thứ hai, định tội danh tội trộm cắp tài sản là việc đánh giá nhất định về mặt pháp lý đối với hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nguy hiểm cho xã hội. 10 1.2.1.2. Các trường hợp định tội danh tội trộm cắp tài sản: Tương ứng với các căn cứ phân loại khác nhau, việc định tội danh tội trộm cắp tài sản được phân chia thành các trường hợp khác nhau: Đầu tiên, căn cứ vào các yếu tố cấu thành tội phạm căn bản (tức là căn cứ vào khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017), định tội danh tội trộm cắp tài sản được chia thành định tội danh tội trộm cắp tài sản theo, mặt khách quan, mặt chủ quan, khách thể và chủ thể. Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo mặt khách quan của tội phạm là định tội danh theo các dấu hiệu hành vi khách quan, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả được quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo mặt chủ quan của tội phạm là định tội danh theo dấu hiệu lỗi cố ý trực tiếp của tội trộm cắp tài sản hoặc trong các trường hợp sai lầm. Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo khách thể của tội phạm là định tội danh theo quan hệ sở hữu mà hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản xâm hại. Định tội danh tội trộm cắp tài sản theo chủ thể của tội phạm là định tội danh theo dấu hiệu chủ thể thường của tội trộm cắp tài sản. Thứ hai, căn cứ vào cách phân loại cấu thành tội phạm theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của cấu thành tội trộm cắp tài sản, định tội danh tội trộm cắp tài sản được chia thành định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm tăng nặng (theo các khoản 2,3,4 Điều 173 BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cuối cùng, căn cứ vào tính chất đặc biệt của tội phạm, định tội danh tội trộm cắp tài sản được chia thành định danh tội trộm cắp tài sản trong ba 11 trường hợp: trường hợp hành vi phạm tội chưa hoàn thành, trường hợp đồng phạm và trường hợp có nhiều tội phạm. Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp đồng phạm là định tội danh trong trường hợp hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp có nhiều tội phạm là trường hợp định tội danh trong trường hợp người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội nhưng trong đó có hành vi trộm cắp tài sản. Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp hành vi phạm tội chưa hoàn thành là định tội danh trong trường hợp chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản và phạm tội chưa đạt trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, theo Điều 14 BLHS về chuẩn bị phạm tội thì chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản không phải chịu TNHS, vì vậy, định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp hành vi phạm tội chưa hành thành thì chỉ gồm trường hợp hành vi phạm tội chưa đạt. 1.2.1.3. Ý nghĩa định tội danh tội trộm cắp tài sản - Đối với hoạt động định tội danh đúng Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp luật rất lquan trọng, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Định tội danh đúng sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện các nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận trong Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, bình đẳng trước pháp luật, nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm, trách nhiệm cá nhân, nhân đạo…. Định tội danh đúng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, loại trừ việc kết án vô căn cứ đối với những hành vi không có hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội, không trái pháp luật, tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết định hình phạt công bằng đối với người phạm tội. 12 Định tội danh đúng còn là cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật TTHS về thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử: thời hạn điều tra, áp dụng biện pháp ngăn chặn, thành phần Hội đồng xét xử, truy tố và xét xử. - Đối với hoạt động định tội danh sai. Định tội danh sai sẽ dẫn đến hàng loạt các hậu quả tiêu cực: bỏ lọt người phạm tội, truy cứu trách nhiệm hình sự người vô tội, không đảm bảo tính công minh. Những vụ oan, sai chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá các chứng cứ thiếu thận trọng, phiến diện, nôn nóng khởi tố, suy diễn chủ quan theo định kiến buộc tội. Định tội danh sai làm giảm uy tín cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hưởng đến hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm. 1.2.2. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản 1.2.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản Quyết định hình phạt là khái niệm có thể được nghiên cứu từ hai góc độ khác nhau, từ góc độ luật hình sự và từ góc độ luật tố tụng hình sự. Từ góc độ luật hình sự có thể định nghĩa quyết định hình phạt như sau: “Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình phạt có các mức độ khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS”. Quyết định hình phạt đối với chủ thể chịu TNHS là sự lựa chọn một trong số các hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt có mức độ khác nhau trong khung hình phạt được quy định. Nếu chế tài được quy định chỉ có một loại hình phạt chính và có các mức độ khác nhau thì quyết định hình phạt trong trường hợp này là xác định mức hình phạt trong phạm vi khung hình phạt được quy định. Quyết định hình phạt bổ sung có nội dung tương tự như quyết định hình phạt chính. Đó là việc lựa chọn loại hình phạt bổ sung, có thể là một 13 hoặc nhiều loại nếu luật quy định có thể áp dụng nhiều loại hình phạt bổ sung và xác định mức hình phạt trong khung quy định để áp dụng kèm theo hình phạt chính. Như vậy, quyết định hình phạt bao gồm quyết định hình phạt chính và quyết định hình phạt bổ sung. Quyết định hình phạt theo nghĩa này được coi là theo nghĩa hẹp. Quyết định hình phạt cũng có thể hiểu theo các nghĩa rộng khác nhau như: Quyết định hình phạt là quyết định hình phạt chính, quyết định hình phạt bổ sung và quyết định biện pháp tư pháp. Hay quyết định hình phạt là quyết định biện pháp xử lý đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội. Khái niệm quyết định hình phạt có thể được hiểu theo nhiều nghĩa nhưng quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp vẫn được đa số các tác giả ghi nhận trong các sách, báo pháp lý. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra khái niệm về quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản như sau: “Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản”. 1.2.2.2. Căn cứ quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản Điều 50 BLHS quy định căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội như sau: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS”. Theo quy định này, các căn cứ quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản bao gồm: Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của BLHS gồm: Các quy định trong Phần chung BLHS: quy định về cơ sở của TNHS (khoản 1 Điều 2 BLHS); quy định về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội 14 (khoản 1 Điều 3 BLHS); các quy định về hình phạt (từ Điều 30 đến Điều 45 BLHS); các quy định về biện pháp tư pháp (từ Điều 46 đến Điều 49 BLH); các quy định về căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50 BLHS), về các tình tiết giảm nhẹ TNHS (Điều 51 BLHS), các tình tiết tăng nặng TNHS (Điều 52 BLHS), về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53 BLHS); các quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể (từ Điều 54 đến Điều 59 BLHS). Các quy định trong Phần các tội phạm BLHS: đó là các quy định về khung hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung của tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 BLHS. Thứ hai, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một thuộc tính của tội phạm thể hiện ở việc gây thiệt hại hoặc tạo ra nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là đối tượng bảo vệ của luật hình sự. Các khung hình phạt được xây dựng chủ yếu dựa trên tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội trộm cắp tài sản phụ thuộc vào các yếu tố: tính chất của hành vi phạm tội như thủ đoạn, công cụ, phương tiện, hình thức thực hiện; tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi trộm cắp tài sản đã thực hiện và mức độ của hậu quả do tội trộm cắp tài sản gây ra; mức độ lỗi như tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tộ, nguyên nhân và điều kiện phạm tội; hoàn cảnh phạm tội như hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của địa điểm và thời gian xây ra hành vi phạm tội; những tình tiết và nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Thứ ba, căn cứ vào nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản. Đây là nguyên tắc thể hiện nguyên tắc cá thể hoá hình phạt trong luật hình Việt Nam. Nguyên tắc này biểu hiện nhân đạo, công bằng và cá thể hoá 15 được thể hiện rõ trong luật hình sự Việt Nam, được thực tiễn khẳng định, có ý nghĩa to lớn trong giáo dục, phòng ngừa tội phạm. Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản là tổng hợp những đặc điểm riêng của người phạm tội như: phạm tội lần đầu hay đã có tiền án, tiền sự, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không; là người đủ 18 tuổi hay chưa đủ 18 tuổi; có thái độ hối cải hay tự thú không; là người có hoàn cảnh đặc biệt hay không…. Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản được coi là căn cứ để quyết định hình phạt nhằm đạt được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội. Cuối cùng là căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS Luật hình sự Việt Nam coi các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS là căn cứ quyết định hình phạt độc lập để quyết định hình phạt. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS được xác định tại Điều 51 và Điều 52 là có tính chất chung và chỉ được áp dụng đối với tội phạm cụ thể khi tình tiết đó chưa được quy định là dấu hiệu phạm tội. 1.2.2.3. Ý nghĩa quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản Quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng có vai trò vô cùng to lớn về mặt chính trị - xã hội đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền đề, điều kiện để đạt mục đích hình phạt (cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng). Nếu hình phạt quá nhẹ sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa của hình phạt, bởi nó có thể làm phát sinh ý định phạm tội, thái độ vô trách nhiệm và coi thường pháp luật. Nhưng hình phạt quá nặng sẽ tạo tâm lý không công bằng, không hợp lý ở người bị kết án dẫn đến thái độ tiêu cực, không tin tưởng pháp luật, không tích cực lao động cải tạo để trở thành người có ích khi tái hòa nhập cộng đồng. Hình phạt có đạt mục đích hay không và đến mức độ nào phụ 16 thuộc vào nhiều yếu tố như: xây dựng pháp luật hình sự, chấp hành hình phạt, ý thức pháp luật…nhưng yếu tố quyết định hình phạt giữ vai trò quan trọng vì chỉ trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn pháp luật cho từng trường hợp phạm tội cụ thể thì Toà án mới có thể cho ra đời một bản án tuyên hình phạt đúng đắn và có hiệu quả. 1.3. Các giai đoạn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. Áp dụng pháp luật hình sự trải qua các giai đoạn sau: Giai đoạn đầu tiên, phân tích, đánh giá các điều kiện hoàn cảnh, tình tiết thực tế khách quan của vụ việc. Khi áp dụng các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét toàn bộ các tình tiết của sự việc, phân tích, chứng minh các sự kiện có liên quan. Khi điều tra xem xét cần đảm bảo tính công bằng, khách quan và các đặc trưng pháp lý của vụ việc. Tuân thủ tất các các qui định mang tính chất bắt buộc gắn với mỗi loại vụ việc. Yêu cầu nghiên cứu khách quan, toàn diện và dầy đủ tất cả các tình tiết liên quan của vụ việc để đưa ra quyết định đúng đắn nhất. Ví dụ như điều tra vụ trộm cắp tài sản phải tìm hiểu rõ hiện trường, lời khai, người làm chứng, tang vật, trị giá tài sản…. để xử lý đúng người, đúng tội. Giai đoạn thứ hai, lựa chọn quy phạm pháp luật cần áp dụng. Trên cơ sở của gia đoạn đầu tiên, cần tìm kiếm các quy phạm pháp luật tương ứng để áp dụng. Phải xác định vụ việc do ngành nào điều chỉnh, sau đó lựa chọn quy phạm pháp luật thích ứng với vụ việc. Quy phạm pháp luật đang có hiệu lực; tuyệt đối không được mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Xác định tính chân chính của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng qui phạm pháp luật áp dụng, đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, có thẩm quyền. Trong trường hợp có nhiều văn bản giải quyết cùng vụ việc thì ta chọn văn bản mới nhất; nếu nhiều cơ quan ra văn bản thì ta sử dụng văn 17 bản của cơ quan cấp trên cao hơn. Đối với tội trộm cắp tài sản do Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổ, bổ sung năm 2017) điều chỉnh và là văn bản quy phạm mới nhất để áp dụng đối với tội này. Giai đoạn thứ ba, làm sáng tỏ nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật. Mục đích đảm bảo tính đúng đắn của pháp luật. Yêu cầu là nhận thức đúng đắn nội dung tư tưởng của quy phạm pháp luật đưa ra áp dụng. Đây là quá trình vận dụng tổng hợp các tri thức chính trị, kinh tế xã hội, đặc biệt là tri thức pháp lý. Giai đoạn thứ tư, ban hành văn bản áp dụng pháp luật Đây là giai đoạn cụ thể hóa các quy phạm pháp luật thành các xử sự trên thực tế của các chủ thể. Yêu cầu của giai đoạn này là quyết định ADPL phải phù hợp với quy phạm pháp luật đưa ra áp dụng. Văn bản ADPL phải được ban hành đúng thẩm quyền, có cơ sở thực tế và cơ sở pháp lý theo thể thức đã qui định; nội dung phải rõ ràng, chính xác, nêu rõ trường hợp cụ thể, chủ thể cụ thể và chỉ được thực hiện một lần. Giai đoạn cuối cùng, tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn cuối của áp dụng pháp luật nên yêu cầu phải đảm bảo về mặt vật chất, kỹ thuật cho việc thực hiện đúng văn bản ADPL được tiến hành. Bên cạnh đó, phải tiến hành các hoạt động kiểm tra giám sát việc thực hiện văn bản ADPL. Ví dụ như trong đơn vị, các giai đoạn đầu tiên, thứ hai, thứ ba do các chuyên viên, công chức thực hiện; giai đoạn thứ tư do thủ trưởng có thẩm quyền quyết định; giai đoạn cuối cùng do cán bộ công chức thực hiện. Vì vậy cần phải có kiểm tra, giám sát đảm bảo văn thực thi quyền lực. * Vai trò của các cơ quan áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản 18 Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì việc giải quyết, xử lý các vụ án hình sự là một quá trình thống nhất, đồng bộ và kết quả hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan mật thiết với nhau. Đó là quá trình từ khởi tố, điều tra của CQĐT, đến việc truy tố của VKS và xét xử của Toà án nhân dân. Ở mỗi giai đoạn khác nhau thì vai trò của các cơ quan áp dụng pháp luật có vai trò khác nhau: - Vai trò của cơ quan điều tra: Một mặt, điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm; Mặt khác, điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự; Cuối cùng, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. - Vai trò của viện kiểm sát: Một trong những chức năng của VKS được quy định là “thực hành quyền công tố”, gồm các hoạt động làm rõ sự thật của vụ án, xác định tội 19 phạm, người phạm tội, quyết định việc truy tố, buộc tội người phạm tội theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Thực hành quyền công tố được thực hiện từ khi có thông tin về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử nhằm bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội Vai trò của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án thể hiện qua việc đề ra yêu cầu điều tra, phê chuẩn các lệnh hoặc quyết định của CQĐT có liên quan đến việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn… Để đảm bảo tính nghiêm minh của văn bản tố tụng do VKS ban hành, đồng thời khắc phục được tình trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài, nâng cao trách nhiệm của VKS và CQĐT trong đấu tranh chống tội phạm, - Vai trò của Toà án nhân dân: Thông qua hoạt động xét xử Tòa án có vai trò bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trước nguy cơ xâm hại của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể khác. Bằng những bản án nghiêm minh, Tòa án đã góp phần vào việc duy trì trật tự xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được quy định tại Điều 1 BLHS hiện hành. Kế đến, ADPL hình sự của Tòa án có vai trò to lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thực định nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Bên cạnh đó, ADPL hình sự của Tòa án có vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp luật đối với nhân dân. Ngoài ra, ADPL của TAND có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách của Nhà nước và đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam. 1.4. Phân biệt tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam với một số tội xâm phạm sở hữu khi áp dụng pháp luật hình sự 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan