Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - so sánh giữa luật tố tụn...

Tài liệu Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội - so sánh giữa luật tố tụng hình sự việt nam, đức và mỹ [tt]

.PDF
17
437
138

Mô tả:

Công trình được hoàn thành tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUND, THỤY ĐIỂN TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH Người hướng dẫn khoa học: KHOA LUẬT ĐẠI HỌC LUND ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH GS.TS. PER-OLE TRÄSKMAN PGS.TS. NGUYỄN THÁI PHÚC LƯƠNG THỊ MỸ QUỲNH Phản biện 1: PGS. TS. Christoffer Wong BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA CỦA Phản biện 2: GS. TS. Hồ Trọng Ngũ NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI - SO SÁNH GIỮA LUẬT TỐ Phản biện 3: GS. TS. Terttu Utriainen TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM, ĐỨC VÀ MỸ Chuyên ngành: Luật quốc tế và Luật so sánh Mã số: 62.38.60.01 Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước, tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Vào hồi 13 giờ 30 ngày 25 tháng 11 năm 2011 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh - Thư viện Khoa Luật Đại học Lund Thụy Điển Tp. Hồ Chí Minh - 2011 NHỮNG BÀI BÁO KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 1. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2010), “Tìm hiểu mô hình tố tụng thẩm vấn và những kiến nghị hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp lý (số 6/2010) 2. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), “Bảo đảm quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Mỹ”, Tạp chí Khoa học Pháp lý (Số 4/2011) 3. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2011), “Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền có người bào chữa”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (số 23/2011) 1 2 MỞ ĐẦU động tranh tụng tại phiên tòa xét xử hình sự, trong đó, nhấn mạnh 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Bảo đảm quyền con người và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS) là vấn đề đang được các quốc gia quan tâm. Tuy nhiên, một trong những khó khăn mà các nước gặp phải trong quá trình hoàn thiện pháp luật là bảo đảm sự cân bằng giữa các mục tiêu của TTHS, đó là việc cân bằng giữa nhiệm vụ xử lý tội phạm và duy trì tính nghiêm minh của pháp luật với việc bảo đảm và không vi phạm các quyền tố tụng của người bị buộc tội. Thực tiễn cho thấy, ở không ít các quốc gia, quyền tố tụng của người bị buộc tội, trong đó có quyền có người bào chữa (NBC) vẫn chưa được bảo đảm trọn vẹn, thậm chí bị vi phạm. Tại Việt Nam, thực tế giải quyết vụ án hình sự cho thấy vẫn còn tồn tại tình trạng oan sai, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cụ thể là quyền có NBC trong vụ án hình sự. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một trong số đó là do những quy định của pháp luật chưa thực sự thống nhất, còn chồng chéo, mâu việc mở rộng hơn nữa quyền của NBC và của người bị buộc tội. Đây là cơ sở vững chắc để nâng cao hiệu quả bảm đảm tính công bằng của pháp luật nói chung và bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội nói riêng. Tuy nhiên, để tiến trình cải cách tư pháp trong lĩnh vực TTHS đạt hiệu quả cao, việc mở rộng hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và hoạt động TTHS nói riêng là một tất yếu khách quan và phù hợp với xu thế hội nhập pháp luật. Với mong muốn góp phần vào việc nâng cao hiệu quả xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC, tác giả đã lựa chọn và thực hiện nghiên cứu ở bậc tiến sỹ với đề tài: “Bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội - So sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ” (Guarantee of the accused person’s right to defense counsel - A comparative study of Vietnamese, German and American Criminal Procedure Law). Theo tác giả, đề tài cần thiết được nghiên cứu bởi những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây: Thứ nhất, giống với Đức và Mỹ và nhiều quốc gia khác trên thế thuẫn. Mặc dù Bộ luật TTHS Việt Nam đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, tuy nhiên cũng mới chỉ khắc phục được phần nào những bất giới, Việt Nam rất chú trọng việc xây dựng và hoàn thiện các quy cập còn tồn tại. Chính vì vậy, quyền và lợi ích pháp lý của người bị buộc tội vẫn chưa được bảo đảm trọn vẹn, thậm chí còn bị vi phạm. người bị buộc tội, trong đó bảo đảm quyền có NBC là vấn đề quan Trước tình hình đó, Nhà nước đã có những động thái thể hiện rõ quyết tâm sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật quyền có NBC của ba quốc gia là cần thiết và có cơ sở. TTHS nói riêng. Tương tự nhiều nước trên thế giới, Việt Nam đã và đang tiến hành cuộc cải cách tư pháp toàn diện về tư pháp hình sự. nhận quyền có NBC là quyền tố tụng cơ bản của người bị buộc tội và Nghị Quyết số 08/NQ/TW ngày 2/1/2002 và Nghị Quyết số 49/NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính Trị đã chủ trương một trong có một số điểm bất cập trong các quy định đó cần phải được phân những nhiệm vụ trọng tâm của công tác cải cách đó là mở rộng hoạt phạm pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm các quyền tố tụng của tâm hàng đầu. Do đó, việc tìm hiểu, so sánh cơ chế pháp lý bảo đảm Thứ hai, luật tố tụng hình sự của Việt Nam, Đức và Mỹ đều ghi cần thiết phải bảo đảm. Bên cạnh những thành công về mặt lập pháp, tích, làm sáng tỏ và cần được hoàn thiện. Đối với Việt Nam, những 3 4 khó khăn, vướng mắc trong nhận thức cũng như trong thực tiễn áp tội được bảo đảm như thế nào trong TTHS của Việt Nam, Đức và dụng những quy định này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy, Mỹ. đề tài nghiên cứu có thể gợi mở một số nội dung của luật cần được hoàn thiện. Thứ ba, thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn có những khoảng cách nhất định đáng lo ngại so với những quy định của pháp luật. Trình độ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ những người tiến hành tố tụng cũng như NBC vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Điều này đã ảnh hưởng, thậm chí gây thiệt hại đến quyền lợi của người bị buộc tội khi tham gia tố tụng. Chính vì vậy, những giải pháp khắc phục hợp lý cần sớm được nghiên cứu. Thứ tư, việc nghiên cứu so sánh pháp luật TTHS của Việt Nam và một số quốc gia khác về bảo đảm quyền có NBC là một yêu cầu cần thiết và đúng đắn, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. Điều này sẽ giúp cho Việt Nam có nhiều cơ hội tìm hiểu và học hỏi có chọn lọc những kinh nghiệm xây dựng, sửa đổi, bổ sung và áp dụng luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền có NBC. Trên cơ sở đó, Việt Nam có thể hoàn thiện những quy định của pháp luật về bảo đảm quyền có NBC, nâng cao hiệu quả trong công tác điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài nghiên cứu đặt ra hai mục đích: Thứ nhất là nghiên cứu pháp luật Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội. Để phục vụ mục đích này, đề tài nghiên cứu tập trung làm sáng tỏ những quan điểm khoa học, những quy định của pháp luật TTHS hiện hành và những tài liệu phản án thực tiễn bảo đảm quyền có NBC ở Việt Nam, Đức và Mỹ. Những công việc này được tiến hành nhằm trả lời câu hỏi quyền có NBC của người bị buộc Mục đích thứ hai của luận án là đề xuất những giải pháp phù hợp và khả thi nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về bảo đảm quyền có NBC, góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình giải quyết vụ án hình sự, đáp ứng tốt nhiệm vụ xử lý tội phạm và bảo đảm quyền con người trong TTHS. Với hai mục đích nêu trên, đề tài nghiên cứu sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất, nghiên cứu so sánh các quan điểm khoa học, quan điểm lịch sử về đảm bảo quyền có NBC và làm rõ cơ sở lý luận chung về bảo đảm quyền này trong TTHS. Thứ hai, làm sáng tỏ nội dung những quy định hiện hành của pháp luật quốc tế, của luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC trong sự so sánh để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt, đồng thời lý giải sự tương đồng và khác biệt. Bên cạnh đó, phân tích và chỉ ra những ưu điểm cũng như những hạn chế của pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về bảo đảm quyền có NBC. Thứ ba, tìm hiểu và đánh giá thực trạng bảo đảm quyền có NBC ở Việt Nam, Đức và Mỹ trong sự so sánh để thấy được những hiệu quả và khó khăn trong việc áp dụng pháp luật ở mỗi quốc gia. Cuối cùng, trên cơ sở nghiên cứu nền tảng lý luận và pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật của Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC, đề tài nghiên cứu đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam, nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội. 3. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu được tiếp cận và thực hiện dưới góc độ luật TTHS và so sánh luật. Những nghiên cứu trong luận án tập trung làm 5 6 sáng tỏ những nội dung bảo đảm quyền có NBC ở phạm vi các cơ cập trong các bài viết này tập trung ở 3 khía cạnh: một là nghiên cứu chế pháp lý, mà không mở rộng ở những khía cạnh khác, ví dụ cơ chế kinh tế, cơ chế quản lý xã hội... Chính vì vậy, đối tượng nghiên cứu những quy định của Bộ luật TTHS dưới góc độ bảo đảm quyền con người (bao gồm quyền của người bị buộc tội); hai là nghiên cứu của luận án là các quan điểm khoa học và những quy định của pháp luật TTHS hiện hành của Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm quyền nguyên tắc TTHS về bảo đảm quyền bào chữa nói chung của người bị buộc tội; ba là nghiên cứu vai trò của NBC trong TTHS. Bên cạnh có NBC; những tư liệu thực tiễn của các cơ quan có thẩm quyền và những phán quyết của các tòa án. Bên cạnh đó, những văn bản pháp đó, một số rất ít bài viết khoa học đề cập đến bảo đảm quyền bào chữa nói chung trong bối cảnh của cuộc cải cách tư pháp. Một vài lý quốc tế có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu cũng được đề cập nhằm làm sáng tỏ mức độ vận dụng của trong pháp luật của các nghiên cứu dưới dạng sách và luận án (ở cấp độ thạc sĩ và tiến sĩ) đã trở nên lạc hậu, không còn tính thời sự. Ở quy mô lớn hơn, đã có quốc gia so với những chuẩn mực quốc tế. 4. Tình hình nghiên cứu những nhóm chuyên gia tiến hành nghiên cứu về thực trạng hoạt động của luật sư trong TTHS, tuy nhiên việc nghiên cứu cũng chỉ Quyền có NBC của người bị buộc tội được ghi nhận từ rất sớm trong lịch sử TTHS thế giới cũng như trong TTHS Việt Nam. Theo dừng ở mức độ khảo sát số liệu. Mặc dù vậy, kết quả từ những nghiên cứu trên đã giúp làm sáng quy định của pháp luật Việt Nam, quyền có NBC được ghi nhận trong Hiến pháp và Bộ luật TTHS như là một nguyên tắc cơ bản định tỏ quy định của luật TTHS về bảo đảm quyền bào chữa nói chung, cũng như chỉ ra tương đối những bất cập còn tồn tại. Tuy nhiên, các hướng các hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT). Mặc dù vậy, việc bảo đảm quyền này trong thực tế còn tồn nghiên cứu trên vẫn chưa tiếp cận trực tiếp và toàn diện về bảo đảm quyền có NBC, nhất là hầu như chưa đề cập tới góc nhìn quốc tế về tại nhiều hạn chế, không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Trên thực tế, việc nghiên cứu nhằm tìm kiến những giải bảo đảm quyền này. Trên diễn đàn nghiên cứu khoa học của nước ngoài, có không ít pháp bảo đảm có hiệu quả quyền lợi của người bị buộc tội trong TTHS đã được nhiều nhà khoa học tiến hành. Tuy nhiên hầu hết các những bài báo, công trình nghiên cứu đề cập đến quyền có NBC. Hầu hết những nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở phạm vi pháp luật quốc gia. nghiên cứu đều đề cập ở phạm vi bảo đảm các quyền tố tụng cơ bản của người bị buộc tội. Những nghiên cứu trực tiếp về bảo đảm quyền Bên cạnh đó, một số nghiên cứu được viết dưới góc độ so sánh và hầu hết mang tính mô tả pháp luật TTHS các nước. Ngoài ra, có có NBC còn khá khiêm tốn, đặc biệt chưa có nghiên cứu nào được thực hiện dưới góc độ so sánh pháp luật. không nhiều các nghiên cứu có liên quan đến quyền tố tụng của người bị buộc tội được tiếp cận ở góc độ pháp luật quốc tế về bảo Ở Việt Nam, các nghiên cứu có liên quan đến bảo đảm quyền có NBC còn khá khiêm tốn. Hầu hết các nghiên cứu ở quy mô các bài đảm quyền con người. Nhìn chung, những nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả một báo khoa học hay các bài tham luận trong các Hội thảo khoa học và chỉ dừng ở mức độ diễn giải luật thực định. Nhìn chung, nội dung đề khối lượng kiến thức nền tảng về TTHS quốc tế và một số các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Đức và Mỹ. Vì vậy, việc nghiên cứu toàn 7 8 diện về quyền có NBC của người bị buộc tội cũng như các cơ chế việc tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt mà còn giúp cho pháp lý bảo đảm quyền trong sự so sánh và đối chiếu với pháp luật nước ngoài là thực sự cần thiết và có ý nghĩa. việc hiểu biết và đánh giá toàn diện một hệ thống pháp luật. Kết quả 5. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và để thực từng hệ thống pháp luật. Kết quả nghiên cứu so sánh cho thấy không hiện tốt những nhiệm vụ đã đặt ra của đề tài, những phương pháp chung được áp dụng để nghiên cứu là: phương pháp phân tích và bảo đảm quyền có NBC, và việc học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau phương pháp tổng hợp. Nhiệm vụ của khoa học nói chung và khoa học pháp lý nói riêng quả từ việc so sánh, đối chiếu với pháp luật TTHS Đức và Mỹ, tác là mô tả, giải thích, đánh giá và dự báo. Đề tài nghiên cứu hướng đến việc tìm hiểu các quy định của luật, do đó những phương pháp đặc Nam về bảo đảm quyền có NBC trên cơ sở đối chiếu, chọn lọc và thù của lĩnh vực luật học được tác giả vận dụng trong quá trình thực hiện luận án. Trước hết là phương pháp phân tích pháp luật dựa trên các học thuyết (legal dogmatics). Phương pháp này được sử dụng để giải thích, phân tích, đánh giá nội dung và hiệu lực của những quy phạm pháp luật, đồng thời hệ thống hóa chúng theo những tiêu chí thống nhất và dự đoán hoặc đề xuất hướng phát triển của những quy phạm pháp luật đó. Ngoài ra, phương pháp này còn được sử dụng trong việc giải thích và hiểu chính xác các lập luận của tòa án và các cơ quan có thẩm quyền, các chính sách của nhà nước cũng như những quan điểm học thuyết có liên quan trong pháp luật quốc tế và nghiên cứu so sánh còn chỉ ra được những ưu điểm và hạn chế trong có sự hoàn hảo tuyệt đối trong pháp luật TTHS của từng quốc gia về giữa pháp luật của các nước cần phải có sự chọn lọc. Vận dụng kết giả đã đề xuất những kiến giải nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt xem xét tính phù hợp với điều kiện pháp luật Việt Nam. Phương pháp lịch sử pháp luật cũng được tác giả sử dụng để thể hiện sự gắn kết và tiếp nối về mặt thời gian của những quy định pháp luật và quan điểm lập pháp về bảo đảm quyền có NBC. Bên cạnh đó, phương pháp đàm thoại cũng được tiến hành để trao đổi với các chuyên gia làm công tác thực tiễn, các luật sư và những người làm công tác nghiên cứu về pháp luật TTHS. Công việc này đã giúp tác giả có những hiểu biết chính xác và đa chiều về các hệ thống pháp luật. 6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận án Đây là một trong những công trình khoa học ở cấp độ tiến sĩ tiếp pháp luật của 3 quốc gia lựa chọn (Việt Nam, Đức và Mỹ) về bảo đảm quyền có NBC. Áp dụng phương pháp này trong việc nghiên cận một cách toàn diện về bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội cứu, chúng tôi mong muốn đưa ra một cách nhìn toàn diện về quy định của những hệ thống pháp luật điển hình về bảo đảm quyền có mới như sau: NBC, đồng thời đề xuất những giải pháp phù hợp cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Phương pháp so sánh luật học là phương pháp mang tính đặc thù của luận án. Việc so sánh giữa các hệ thống pháp luật không chỉ là dưới góc độ so sánh luật TTHS. Đề tài nghiên cứu có những đóng góp 1. Khái quát các quan điểm lịch sử về sự hình thành quyền có NBC. Làm rõ mối liên hệ mang tính quy luật khách quan giữa bảo đảm quyền có NBC với khái niệm về tố tụng công bằng (Due process of law) và nguyên tắc nền tảng về quyền được xét xử công bằng 9 (Right to fair trial) trong TTHS. Chỉ ra được mối liên hệ giữa bảo đảm quyền có NBC và bảo đảm tính công bằng, khách quan trong 10 1.1.1. Những quan điểm lịch sử về quyền có NBC Kết quả nghiên cứu cho thấy, quyền có NBC được ghi nhận từ rất sớm. Những biểu hiện ban đầu của quyền này được tìm thấy trong TTHS. 2. Khái quát hóa các quan điểm, quan niệm của pháp luật quốc tế thời kỳ Trung cổ và phát triển mạnh mẽ ở những quốc gia có nguồn và Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC. Qua đó tổng kết và khẳng gốc Thông luật (common law). Sau đó, những ảnh hưởng tiến bộ về định những nội dung cơ bản về bảo đảm quyền có NBC được ghi quyền có NBC đã lan tỏa sang các nước Châu Âu lục địa. Những nhận trên cả bình diện quốc tế và quốc gia. quan điểm lịch sử nhìn nhận quyền có NBC là một quyền cơ bản và 3. Hệ thống hóa các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam, Đức và Mỹ về bảo đảm quyền có NBC trong sự đối chiếu, so sánh. Đặc biệt là chỉ ra được những điểm tương đồng và khác biệt cũng như những điểm hợp lý và những điểm hạn chế trong từng hệ thống cần được bảo đảm xuất phát từ các cơ sở lý luận và thực tiễn sau: - Sự tham gia của NBC được ghi nhận dựa trên nhu cầu khách quan về sự công bằng trong chính sách xử lý đối với người phạm tội. - Sự tham gia của NBC nhằm phản kháng lại sự hà khắc của các thủ tục xét xử đối với người bị buộc tội; pháp luật. 4. Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam - Sự tham gia của NBC gắn liền với lịch sử hình thành của phiên về bảo đảm quyền có NBC dựa trên việc tiếp thu có chọn lọc những tòa tranh tụng (một điểm đặc trưng của mô hình tranh tụng - kinh nghiệm của Đức và Mỹ. Đồng thời kiến nghị một số biện pháp adversarial model). NBC có vai trò hỗ trợ người bị buộc tội tại phiên nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng luật bảo đảm quyền có NBC ở tòa để chống lại sự cáo buộc của nhà vua. Mô hình này xuất hiện từ Việt Nam. những năm đầu của thế kỷ 12 ở Anh và phát triển mạnh mẽ vào thế 7. Cơ cấu của luận án kỷ 16, 17. Những yếu tố lịch sử này cho thấy, quyền có NBC là bước Cơ cấu của luận án được xây dựng phù hợp với mục đích, đối phát triển của quyền tự bào chữa. tượng và phạm vi nghiên cứu. Luận án gồm phần Mở đầu, Danh mục các từ viết tắt, Danh mục tài liệu tham khảo, và năm chương. - Phát huy quan điểm về sự công bằng và tính nhân đạo của pháp luật, quyền có NBC được bảo đảm trong các vụ việc nghiêm trọng. Thậm chí chính sách bảo đảm quyền có NBC miễn phí cho NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI 1.1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền có NBC người nghèo đã được ghi nhận lần đầu tiên ở Anh vào năm 1494. Những quan điểm lịch sử trên đã tạo nền móng cho sự phát triển về quyền có NBC ngày nay. 1.1.2. Những nguyên tắc pháp lý bảo đảm quyền có NBC Bằng phương pháp nghiên cứu lịch sử pháp luật, kết hợp với phương pháp pháp phân tích pháp luật dựa trên các học thuyết, tác 11 12 giả đã tìm thấy sự liên hệ mang tính quy luật khách quan giữa những Để xác định tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền có NBC khái niệm nền tảng về thủ tục công bằng (Due process of Law), trong TTHS, câu hỏi tìm hiểu mục đích của quyền này cần được lý nguyên tắc về quyền được xét xử công bằng (Right to fair trial) và giải. Quan điểm của nhiều nhà khoa học đều cho thấy, quyền có NBC vấn đề bảo đảm quyền có NBC. Thủ tục công bằng là một khái niệm cần được bảo đảm nhằm: mang tính lịch sử, gắn liền với nhiều cuộc đấu tranh của người dân đi - Trao những cơ hội bình đẳng cho người bị buộc tội, vì bản thân tìm sự công bằng trước những quy định và thủ tục hà khắc của nhà tư cách tố tụng của họ là biểu thị sự không bình đẳng trước sự cáo vua. Trong hoạt động xử lý người phạm tội, yêu cầu về một thủ tục buộc của cơ quan có thẩm quyền; công bằng là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền lợi của người bị buộc tội trước những cáo buộc của nhà nước. Khái niệm về thủ tục công bằng đã tạo nền tảng cho sự hình - Cung cấp NBC nhằm bảo vệ những quyền con người của người bị buộc tội khi họ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế trong TTHS như bắt, tạm giữ, tạm giam v.v… thành và phát triển nguyên tắc được xét xử công bằng. Đây một 1.2. Bảo đảm quyền có NBC trong các văn bản pháp lý quốc tế nguyên tắc cơ bản trong việc bảo đảm quyền tố tụng của người bị 1.2.1. Khái quát hệ thống các văn bản pháp lý quốc tế liên quan buộc tội và được ghi nhận trong hầu hết các văn bản pháp lý quốc tế đến bảo đảm quyền có NBC và pháp luật các quốc gia. Trong vụ án hình sự, nguyên tắc được xét Nội dung này là sự khái quát và hệ thống các văn bản pháp lý xử công bằng bao hàm một nội dung duy nhất, đó là bảo đảm sự công quốc tế liên quan đến quyền có NBC. Những văn bản được đề cập bằng giữa các bên trong TTHS (yếu tố ‘equality of arms’). Theo đó, trong luận án bao gồm: Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính người bị buộc tội được bảo đảm xét xử bởi một phiên tòa công bằng trị; Công ước Châu Âu về quyền con người; Công ước Châu Mỹ về và không thiên vị; được trao những cơ hội ngang bằng với bên buộc quyền con người; Hiến chương Châu Phi về quyền công dân và các tội trong vụ án về việc thu thập và trình bày các chứng cứ bào chữa; dân tộc. Bên cạnh đó, những văn bản, kết luận của các Tổ chức và được tranh luận ngang bằng tại phiên tòa v.v… các Tòa án thực thi các Công ước cũng được xem xét nhằm làm sáng Với luận điểm trên, tác giả đã làm rõ mối liên hệ giữa bảo đảm tỏ những nộ dung bảo đảm quyền có NBC trong phạm vi pháp luật quyền có NBC với nguyên tắc về thủ tục công bằng và nguyên tắc quốc tế. xét xử công bằng. Đây là mối liên hệ giữa vấn đề nền tảng và kết quả 1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền có NBC trong các văn bản pháp lý cụ thể. Quyền có NBC của người bị buộc tội khó có thể được bảo quốc tế đảm trọn vẹn nếu như có sự vi phạm hai nguyên tắc trên. Ngược lại, yếu tố công bằng trong TTHS chỉ được tuân thủ khi quyền có NBC được tôn trọng và bảo đảm. 1.1.3. Mục đích của quyền có NBC trong TTHS Kết quả nghiên cứu cho thấy, quyền có NBC trong các văn bản pháp lý quốc tế được bảo đảm ở những khía cạnh sau: - Quyền được bảo đảm khoảng thời gian hợp lý và những điều kiện thuận lợi cho việc bào chữa; 13 14 - Quyền được có NBC: quyền này xuất hiện ngay khi một người văn. Bản án của tòa án chỉ có giá trị hiệu lực đối với từng vụ việc cụ bị bắt và được bảo đảm trong các giai đoạn điều tra tiền xét xử và tại thể, mà không có giá trị án lệ. Chính vì vậy, TTHS Việt Nam mang những đặc tính của hệ tố tụng thẩm vấn. Theo đó, TTHS Việt Nam phiên tòa; - Quyền được cung cấp NBC miễn phí nếu người bị buộc tội không có khả năng chi trả phí bào chữa hoặc do nhu cầu vì lợi ích công; - Quyền được trao đổi với NBC mà không giám sát bởi một bên thứ ba, trừ những ngoại lệ khác nhằm bảo đảm an ninh công cộng; - Quyền được thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng. Trên đây là những nội dung cơ bản được ghi nhận thống nhất trong các văn bản pháp lý quốc tế. Trên thực tế, những khía cạnh bảo đảm quyền được giải thích cụ thể hơn trong các bản án của các Tòa án xét xử việc thực thi các quy định của Công ước. Mặc dù vậy, những nội dung trên sẽ là tiêu chí để đối chiếu, so sánh và đánh giá các hệ thống pháp luật lựa chọn. Chương 2 BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 2.1. Pháp luật Tố tụng Hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội 2.1.1. Khái quát về TTHS Việt Nam Một trong những yếu tố tạo nên sự khác biệt về cơ chế bảo đảm quyền có NBC giữa các hệ thống pháp luật là những đặc thù về mô hình TTHS. Trong nội dung này, tác giả đã mô tả và khắc họa những điểm đặc trưng về trình tự giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam. Pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa với truyền thống pháp luật thành mang những đặc thù sau: - Hoạt động tố tụng được thực hiện bằng cách thức thẩm tra. Kết quả của việc chứng minh tội phạm được thể hiện bằng các quyết định, đó là bản kết luận điều tra của cơ quan Điều tra và cáo trạng của Viện Kiểm sát. - Phiên tòa được ví như cuộc điều tra công khai. Chứng cứ thu thập phải được điều tra lại tại phiên tòa, gánh nặng xét hỏi do tòa án đảm nhận. Thẩm phán giữ vai trò chủ động trong việc xét xử. Phán quyết của Hội đồng xét xử được đưa ra trên cơ sở niềm tin nội tâm của tòa án về sự thật khách quan của vụ án, mà không chỉ đơn thuần là kết quả tranh tụng công bằng của các bên (bên buộc tội và bên bào chữa) như mô hình tố tụng tranh tụng. - NBC đóng vai trò khá mờ nhạt trong quá trình tố tụng. Các quy định về quyền bào chữa của người bị buộc tội cũng như quyền và nghĩa vụ của NBC vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến quyền có NBC không được bảo đảm trọn vẹn. 2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chế định về quyền bào chữa của người bị buộc tội trong TTHS Việt Nam Tìm hiểu quá trình hình thành và phát triển chế định về quyền có NBC cho thấy chính sách của Nhà nước Việt Nam là nhất quán và luôn đề cao việc bảo đảm các quyền tố tụng cơ bản của người bị buộc tội. Quá trình này được ghi nhận ở 3 giai đoạn: 2.1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến 1954 Đây là thời kỳ đánh dấu sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Trong giai đoạn này, quyền có NBC đã được ghi nhận, 15 16 tuy nhiên quyền này chỉ được áp dụng tại phiên tòa. NBC có thể là tội luật sư hoặc người khác (Sắc lệnh số 33 ngày 13/9/1945 về việc thành lập Tòa án quân sự và Điều 67 Hiến pháp năm 1946). 2.2.2. Chế định người bào chữa trong Bộ luật TTHS 2003 Theo quy định tại Điều 56 Bộ luật TTHS, NBC có thể là: luật 2.1.2.1. Giai đoạn từ 1955 đến 1988 (trước khi BLTTHS có hiệu lực) sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đối tượng Trong giai đoạn này, về cơ bản, quyền có NBC vẫn chỉ được áp dụng trong giai đoạn tại phiên tòa. Lần đầu tiên pháp luật ghi nhận tham gia bào chữa cho người bị buộc tội phổ biến trong vụ án hình sự chủ yếu là đội ngũ luật sư. Trong khi đó, các quy định của Bộ luật trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) trong việc bảo đảm quyền có NBC lần đầu tiên được ghi nhận (Điều 101, Hiến pháp TTHS chưa thực sự hỗ trợ cho luật sư cũng như những NBC khác phát huy được chức năng bào chữa trong vụ án. Thực tế cho thấy chất 1959). Bên cạnh đó, pháp luật cũng đã đề cập đến nghĩa vụ chỉ định NBC đối với những bị cáo là người chưa thành niên (Thông tư số 16- lượng NBC cũng là một trong những vấn đề ảnh hưởng đến hiệu quả bào chữa. TATC ngày 27/08/1974 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm). Đồng thời trong giai đoạn 2.2.3. Trách nhiệm của cơ quan THTT trong việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo này, Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý (Điều 133, Hiến pháp 1980; Pháp lệnh tổ chức Trên cơ sở nguyên tắc ‘Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo’ theo quy định của Điều 10 Bộ luật TTHS, cơ luật sư ngày 18/12/1987). Bổ sung vào đội ngũ NBC còn có sự ra đời của bào chữa viên nhân dân (Thông tư số 691/QLTPK về công tác quan THTT (bao gồm cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án) có nghĩa vụ bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa bào chữa trong toàn quốc ngày 31/10/1983). 2.1.2.2. Giai đoạn từ 1989 đến nay của mình, đồng thời tạo mọi điều kiện thuận lợi để NBC thực hiện tốt chức năng bào chữa. Kết quả nghiên cứu cho thấy, so với những Trong giai đoạn này, chế định về quyền có NBC được quy định khá hoàn chỉnh. Quyền có NBC được ghi nhận là một trong những chuẩn mực của pháp luật quốc tế, Bộ luật TTHS Việt Nam có những quy định tiến bộ trong việc quy định trách nhiệm của cơ quan THTT, quyền hiến pháp của người bị buộc tội (Điều 132 Hiến pháp 1992), và bảo đảm quyền có NBC là một nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS (Điều ví dụ những quy định về trách nhiệm của cơ quan Điều tra trong việc thông báo thời điểm và nơi trốn hỏi cung để NBC có thể tham gia; 10 Bộ luật TTHS 2003). Theo đó, người bị buộc tội được bảo đảm có NBC ngay từ khi có quyết định tạm giữ. Quyền này được bảo đảm trong cấp giấy chứng nhận bào chữa và tạo điều kiện để NBC gặp gỡ thân chủ của mình đang bị tạm giữ, tạm giam v.v... hay những quy định về các quá trình điều tra, truy tố, xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm). 2.2. Pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành về bảo đảm quyền có trách nhiệm đảm bảo quyền được tranh luận công bằng tại phiên tòa xét xử v.v... Mặc dù vậy, Bộ luật vẫn chưa ghi nhận quyền được im người bào chữa của người bị buộc tội 2.2.1. Quyền có người bào chữa là quyền cơ bản của người bị buộc lặng của người bị buộc tội, cũng như trách nhiệm của cơ quan THTT trong việc giải thích quyền được im lặng và quyền không phải khai 17 18 báo những chứng cứ chống lại mình. Đây là một thiết xót cần được Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề bảo đảm quyền có xem xét để bổ sung. 2.3. Thực tiễn đảm bảo quyền có người bào chữa của người bị NBC vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, tập trung ở những khía cạnh chủ yếu sau: buộc tội trong TTHS Việt Nam 2.3.1 Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền có người 2.3.2.1. Những bất cập về mặt quy phạm Đây là hạn chế lớn nhất ảnh hưởng đến quyền có NBC. Có thể bào chữa của người bị buộc tội 2.3.1.1. Những thành tựu về mặt lập pháp khái quát những thiếu xót và bất cập ở những vấn đề liên quan đến quyền của người bị buộc tội (ví dụ như: luật chưa quy định rõ ràng về Kể từ khi bắt đầu công cuộc cải cách tư pháp vào năm 2002, hoạt động xây dựng pháp luật trong lĩnh vực TTHS này càng được quyền từ chối, lựa chọn và thay đổi NBC chỉ định; việc quy định về thời điểm được có NBC còn khắt khe; chưa có quy định đồng bộ về chú trọng. Trước hết phải kể đến việc sửa đổi bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003 với nhiều bước tiến đáng kể, bảo đảm tốt hơn quyền lợi trách nhiệm của người THTT về việc thông báo và giải thích quyền có NBC v.v...). Bên cạnh đó, những quy định về quyền của NBC của công dân và của người bị buộc tội. Quyền bào chữa ngày càng được hoàn thiện và mở rộng. Bên cạnh đó, sự ra đời của Luật Luật sư cũng còn nhiều bất cập. Các quy định chưa hợp lý của Bộ luật TTHS chưa thực sự tạo điều kiện cho NBC tham gia bào chữa hiệu quả, ví (2006) và Luật trợ giúp pháp lý (2006) cũng tạo nên những nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động bào chữa. dụ những quy định về cấp giấy chứng nhận bào chữa; quyền được thông báo về thời điểm và nơi trốn hỏi cung bị can; quy định về 2.3.1.2. Những kết quả đạt được từ hoạt động áp dụng pháp luật - Tinh thần cải cách tư pháp đã có ý nghĩa tác động tích cực đến quyền được thu thập tài liệu liên quan đến việc bào chữa; quyền được gặp gỡ thân chủ đang bị giam giữ; vấn đề về thù lao cho NBC định thái độ và tư duy của đội ngũ những người THTT. NBC được tạo điều kiện thuận lợi hơn khi tham gia tố tụng trong các giai đoạn điều còn chưa phù hợp v.v... 2.3.2.2. Những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật: tra, truy tố, xét xử. - Chất lượng luật sư bào chữa cũng được chú trọng, tạo hiệu quả Nội dung này phản ánh thái độ trình độ và tư duy mang tính tiêu cực của đội ngũ những người THTT đối với việc nhìn nhận vai trò trong công tác bào chữa, nâng cao chất lượng xét xử vụ án. Báo cáo của TANDTC và các Đoàn luật sư cho thấy, sự tham gia bào chữa của NBC khi tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, qua những số liệu khảo sát đã phản ánh khá đầy đủ về chất lượng cũng như ý thức trách của luật sư trong các vụ án hình sự ngày càng tăng, khiến giảm bớt số lượng các vụ việc bị kháng cáo hoặc kháng nghị v.v... nhiệm của NBC khi tham gia tố tụng. Những con số cho thấy, đây là vấn đề cần được quan tâm và khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả bào 2.3.2. Những bất cập trong việc đảm bảo quyền có người bào chữa của người bị buộc tội chữa. Vấn đề hạn chế và thiếu kiến thức xã hội, hiểu biết pháp luật từ phía những người bị buộc tội cũng là nguyên nhân tạo ra những rào cản trong hoạt động bào chữa, nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền có NBC. 19 20 Kết luận: Qua những vấn đề đã được tìm hiểu và phân tích trong - Chi phí cho NBC trong trường hợp bào chữa chỉ định do Nhà Chương 2, có thể khái quát những nội dung cơ bản về đảm bảo quyền có người bào chữa trong pháp luật TTHS Việt Nam ở những nội nước trả. Người bị buộc tội là người nghèo không thuộc đối tượng được chỉ định người NBC. dung cơ bản sau: - Quyền có người bào chữa là một quyền Hiến pháp. Quyền này Có thể nói, quyền có người bào chữa theo quy định của pháp luật Việt Nam được bảo đảm khá đầy đủ và phù hợp với các nội dung được Bộ luật TTHS ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản định hướng đối với các hoạt động tố tụng của cơ quan THTT. trong các Công ước quốc tế về quyền con người. Tuy nhiên, trong những điều luật cụ thể, vẫn còn tồn tại những điểm chưa rõ ràng, - Thời điểm phát sinh quyền có người bào chữa còn quy định khá hạn chế. Quyền này chỉ được áp dụng khi một người nhận được thống nhất, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn, ví dụ như các quy định về quyền của NBC khi tham quyết định khởi tố bị can. Trong trường hợp vụ án có người bị bắt và bị tạm giữ, NBC có quyền tham gia khi có quyết định tạm giữ. Đối gia tố tụng. Những vướng mắc này cần sớm được bổ sung, sửa đổi nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người bị buộc tội. Nội dung của với tội xâm phạm an ninh quốc gia, người bào chữa chỉ có thể tham gia từ khi kết thúc điều tra. Quyền có NBC được bảo đảm trong các Chương 2 đã chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong quy định của pháp luật cũng như trong thực tiễn áp dụng về quyền có người bào giai đoạn điều tra tiền xét xử, tại phiên tòa sơ thẩm và phiên toà phúc thẩm. chữa, đồng thời đã chỉ ra được các nguyên nhân của những vướng mắc. - Người bị buộc tội không được cảnh báo về quyền được im lặng. Chương 3 - Sự tham gia của NBC phụ thuộc vào ý chí của người bị buộc tội. NBC do người bị buộc tội tự lựa chọn. Họ có thể thuê một hoặc nhiều người bào chữa cho mình. - Việc chỉ định NBC được coi là nghĩa vụ bắt buộc đối với cơ ĐẢM BẢO QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỨC 3.1. Khái quát về TTHS Đức 3.1.1. Nguồn luật Đức là nhà nước liên bang, với sự tồn tại của hai hệ thống pháp quan THTT trong hai trường hợp: bị ban, bị cáo về tội theo khung hình phạt cao nhất là tử hình; hoặc bị can, bị cáo là người chưa thành luật Liên bang và pháp luật của các bang. Tuy nhiên, pháp luật điều niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Tuy nhiên sẽ không là bắt buộc nếu bị can, bị cáo đã tự nhờ người bào chữa. Trong phạm vi toàn liên bang và các bang. trường hợp này, người bị buộc tội vẫn có quyền tự yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa do cơ quan THTT chỉ định. chỉnh trong lĩnh vực hình sự và TTHS được quy định thống nhất trên Pháp luật Đức có nguồn gốc của pháp luật Châu Âu lục địa, nguồn luật áp dụng là Hiến pháp và các đạo luật, trong đó Bộ luật TTHS (StPO) đóng vai trò là nguồn luật chính điều chỉnh các hoạt động TTHS. Bên cạnh đó, Công ước Châu Âu về quyền con người, 21 22 các bản án của Tòa án nhân quyền Châu Âu cũng như những văn bản 3.2. Những khía cạnh bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Đức của Liên minh Châu Âu (Hiến Chương về quyền con người 2007) 3.2.1. Thời điểm đảm bảo quyền hiện tại cũng có giá trị áp dụng như nguồn luật chính ở Đức về các Thực tế cho cho thấy, việc không cho phép NBC có mặt trong vấn đề TTHS. Chính vì vậy, việc nghiên cứu luật Đức phải được đối quá trình thẩm tra của cảnh sát là vi phạm nội dung về bảm đảm chiếu với những quy định, chuẩn mực của Cộng đồng Châu Âu và quyền có NBC theo Điều 6.3(c) Công ước Châu Âu về quyền con Liên minh Châu Âu. Ngoài ra, hoạt động giải thích luật cũng đóng người. Mặc dù Bộ luật TTHS Đức có ghi nhận quyền này được bào vai trò quan trọng trong việc định hướng áp dụng pháp luật. đảm trong mọi giai đoạn TTHS, tuy nhiên thực tế quyền này vẫn bị vi 3.1.2. Các giai đoạn TTHS và vai trò của NBC phạm. Theo các án lệ của Tòa án Châu Âu về quyền có NBC, và các TTHS Đức là một biểu hiện đặc trưng của mô hình tố tụng quy định của Bộ luật TTHS Đức, người bị buộc tội phải được thông thẩm vấn truyền thống. Mặc dù vậy, giống với nhiều nước Châu báo về quyền có NBC đồng thời được giải thích về quyền được im Âu, TTHS Đức ngày nay đã có những biến đổi tích cực về mô lặng và không phải khai báo những chứng cứ bất lợi cho họ. Đây là hình tố tụng, và ghi nhận nhiều yếu tố của mô hình tố tụng tranh một trong những điểm khác biệt giữa TTHS Đức và TTHS Việt Nam. 3.2.2. Bào chữa bắt buộc và chỉ định NBC Điểm đặc trưng của TTHS Đức là đề cao tuyệt đối sự tham gia của NBC trong một số trường hợp như: người bị buộc tội bị truy tố mức hình phạt nghiêm trọng; người chưa thành niên; người có nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần và một số trường hợp ngoại lệ khác. Chính vì vậy, chế định về NBC bắt buộc được tuân thủ rất cứng nhắc, thậm chí tước bỏ quyền từ chối NBC của người bị buộc tội. Tương ứng với tính chất bắt buộc, cơ quan THTT có nghĩa vụ chỉ định NBC ngay cả khi người bị buộc tội không yêu cầu. Nghĩa vụ này cũng được áp dụng với những trường hợp người bị buộc tội không có khả năng tự thuê NBC. tụng. Mặc dù vậy, cách thức giải quyết vụ án vẫn mang những đặc trưng của hệ tố tụng thẩm vấn. Cảnh sát và công tố viên đóng vai trò chính trong hoạt động điều tra tiền xét xử. Tòa án mở phiên tòa dựa trên đề nghị truy tố của công tố viên. Thẩm phán đóng vai trò chủ động và điểu khiển phiên tòa thẩm tra với sự tham gia của hội thẩm. Nhìn chung, những quy định về thủ tục TTHS Đức có nhiều điểm tương đồng với pháp luật Việt Nam. Quyền có NBC được bảo đảm không chỉ bởi các quy định của pháp luật TTHS Đức mà còn được bảo đảm theo các chuẩn mực quốc tế. Chính vì vậy, người bị buộc tội và NBC của họ được trang bị khá đầy đủ để tham gia hoạt động bào chữa. Tuy vậy, vai trò của NBC ở Đức mới chỉ thực sự được nhìn nhận đúng đắn trong hoạt động xét xử tại phiên tòa. Một số quyền của NBC trong hoạt động thẩm tra của cảnh sát vẫn bị hạn chế mặc dù pháp luật ghi nhận quyền có NBC được bảo đảm trong mọi giai đoạn tố tụng (Điều 137.1 Bộ luật TTHS). 3.2.3. Chi phí bào chữa Vấn đề chi phí bào chữa đặt ra cho những trường hợp người bị buộc tội không tự mình thuê NBC. Nhà nước sẽ cung cấp một khoản hỗ trợ để người bị buộc tội ngay lập tức có NBC, tuy nhiên khoản chi phí này sẽ phải được hoàn trả nếu anh ta bị tuyên phạm tội. Ngược 23 24 lại, nếu được tuyên tha tội, nghĩa vụ hoàn trả sẽ được giải phóng. Tuy 4.1.1. Nguồn luật nhiên chính sách hỗ trợ phí bào chữa chỉ được áp dụng tại giai đoạn xét xử. Đây là điểm đặc trưng về chính sách trợ giúp pháp lý ở Đức. Mỹ là nhà nước Liên Bang. Hệ thống pháp luật cũng được phân chia thành hai nguồn tách biệt, một là Hiến pháp và pháp luật của 3.2.4. Lựa chọn và từ chối NBC NBC do người bị buộc tội lựa chọn nếu anh ta có khả năng thuê. Liên bang, hai là Hiến pháp và pháp luật của các bang. Tuy nhiên, những nghiên cứu trong Chương 4 chủ yếu tập trung xem xét pháp Tuy nhiên quyền này bị giới hạn nếu NBC do chỉ định trong các trường hợp bắt buộc sự tham gia của NBC. luật của liên bang, pháp luật của bang cũng được đề cập để đối chiếu và làm rõ những quy định liên quan. 3.2.5. Những bảo đảm việc bào chữa hiệu quả Những khía cạnh bảo đảm hiệu quả quyền có NBC bao gồm: Pháp luật Mỹ có nguồn gốc của hệ thống thông luật. Do đó, bên cạnh Hiến pháp, bản án (án lệ) của Tòa án tối cao Mỹ là nguồn luật 3.2.5.1. Quyền được tiếp cận với hồ sơ vụ án 3.2.5.2. Quyền được cung cấp khoảng thời gian hợp lý và điều chủ đạo. 4.1.2. Hệ thống tư pháp đối tụng kiện thuận lợi để chuẩn bị việc bào chữa 3.2.5.3. Quyền trao đổi giữa NBC và thân chủ (người đang bị Yếu tố đối tụng công bằng là một đặc trưng của TTHS Mỹ. Nội dung này đề cao việc bảo đảm quyền lợi của cá nhân khi tham gia giam giữ) 3.3 Những vướng mắc trong pháp luật TTHS Đức về bảo đảm TTHS. Cụ thể là biểu đạt sự bảo đảm tranh tụng công bằng giữa cá nhân người bị buộc tội trước sự cáo buộc của nhà nước. quyền có NBC Những vướng mắc còn tồn tại ở trong TTHS Đức về bảo đảm 4.1.3. Nền tảng về thủ tục công bằng Bản chất về thủ tục công bằng là nguyên tắc nền tảng và chủ đạo quyền có NBC chủ yếu là những quy định về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn điều tra. Những hạn chế về thời điểm tham gia của chi phối các hoạt động TTHS ở Mỹ. Cùng với sự vận hành của hệ thống tư pháp đối tụng, yếu tố về thủ tục công bằng là một điểm khác NBC cũng như chính sách hỗ trợ chi phí bào chữa cho người nghèo chưa thực sự bảo đảm việc thực hiện quyền có NBC trên thực tế. Bên biệt cơ bản với TTHS Đức và Việt Nam. Điều này là nền tảng tạo nên những khác biệt trong quan niệm về vai trò của NBC cũng như cạnh đó, tâm lý xem nhẹ vai trò của NBC cũng như những tiêu cực còn tồn tại về năng lực, trình độ và đạo đức của đội ngũ luật sư vẫn là trách nhiệm bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Mỹ. 4.2. Bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Mỹ những rào cản cho quá trình bảo đảm quyền có NBC ở Đức. 4.2.1. Khái quát về bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Mỹ Quyền có NBC trong TTHS Mỹ được bảo đảm bởi Tu chính án Chương 4 BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ MỸ 4.1. Khái quát về TTHS Mỹ thứ 6 và được cụ thể hóa trong các bản án của Tòa án Tối cao Mỹ và trong một số Đạo luật liên quan. Nội dung của phần này là sự hệ thống hóa các án lệ điển hình của Tòa án Tối cao Mỹ về quyền có NBC. Bằng phương pháp lịch sử, tác giả đã mô tả khái quát, đồng 25 26 thời phân tích những bước tiến trong việc ghi nhận quyền có NBC Một trong những ưu điểm tiến bộ của TTHS Mỹ là chính sách hỗ trợ trong TTHS Hoa Kỳ. Nội dung này đã được tác giả sử dụng làm cơ sở nghiên cứu các khía cạnh bảo đảm quyền ở phần tiếp theo. cho các bị cáo là người nghèo. Theo đó, người nghèo được cung cấp NBC miễn phí bởi các quỹ bào chữa công. Tuy nhiên, việc xem xét và xác định 4.2.2. Những khía cạnh bảo đảm quyền có NBC 4.2.1.1. Thời điểm áp dụng quyền yếu tố ‘nghèo’ hay ‘không nghèo’ cũng như việc tìm kiếm nguồn quỹ cho chính sách nhân đạo này đã và đang là một trong những khó khăn thách Cũng giống với quy định của pháp luật Việt Nam và Đức, quyền có NBC trong TTHS Mỹ được bảo đảm trong các giai đoạn TTHS, bao gồm: thức nền tư pháp hình sự Mỹ. điều tra tiền xét xử, tại phiên tòa xét sử sơ thẩm, và phiên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên, giống với Đức và khác với Việt Nam, người bị buộc tội ở Mỹ 4.3. Thực tiễn bảo đảm quyền có NBC trong TTHS Mỹ Trước rất nhiều ưu điểm trong chính sách bảo đảm quyền có NBC của người bị buộc tội, TTHS Mỹ vẫn đang phải đối diện với rất có quyền im lặng và không buộc phải khai báo những chứng cứ bất lợi cho anh ta. Ngay từ thời điểm một người bị bắt, cảnh sát viên có nghĩa vụ nhiều khó khăn, cụ thể là: thiếu nguồn quỹ hỗ trợ chi phí cho người phải thông báo và giải thích về quyền có NBC, nếu người bị tình nghi không có khả năng thuê NBC, cơ quan có thẩm quyền phải chỉ định NBC tình trạng luật sư thường xuyên thiếu trách nhiệm trong việc bào cho họ, trừ khi họ từ chối quyền của mình một cách tự nguyện và minh mẫn. bất cập... Hiện tại Ủy ban quốc gia về quyền bào chữa của Mỹ đã đề 4.2.1.2. Lựa chọn và từ chối NBC Khác với Việt Nam và Đức, TTHS Mỹ quy định rõ ràng về quyền từ nghèo; tình trạng quá tải về các vụ việc bào chữa miễn phí đã dẫn đến chữa; các điều kiện hỗ trợ luật sư tham gia bào chữa vẫn còn nhiều xuất nhiều giải pháp để khắc phục những tình trạng trên. Đây là những kinh nghiệm đáng học hỏi. Chương 5 chối NBC. Việc từ chối chỉ được chấp nhận với điều kiện người bị buộc tội từ chối NBC phải tự nguyện và minh mẫn. Thậm chí, nếu họ tiếp tục ĐÁNH GIÁ SO SÁNH VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN có nhu cầu được chỉ định NBC, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành chỉ định NBC cho họ. Mặc dù vậy, việc lựa chọn NBC trong các trường hợp NGƯỜI BÀO CHỮA chỉ định cũng bị hạn chế. 4.2.1.3. Người bảo chữa hiệu quả TTHS Mỹ rất đề cao tính hiệu quả của NBC. Theo quan điểm của nhà làm luật, quyền có NBC phải bảo hàm quyền có NBC hiệu quả. Tính hiệu quả được đánh giá ở trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp của NBC. Việc cung cấp NBC không thỏa mãn những điều kiện trên bị xem là sự vi phạm quyền Hiến pháp về quyền có NBC. 4.2.1.4. Chi phí bào chữa PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CÓ Nội dung của Chương 5 gồm hai phần chính. Thứ nhất là những đánh giá so sánh về đảm bảo quyền có NBC trong 3 hệ thống pháp luật Việt Nam, Đức và Mỹ. Hai là những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC 5.1. Những đánh giá so sánh giữa pháp luật Việt Nam, Đức và Mỹ về đảm bảo quyền có NBC của người bị buộc tội Trong phần này, tác giả tập trung nhận xét ở hai khía cạnh, đó là những đánh giá chung và những đánh giá cụ thể. Trong nội dung về 27 28 những đánh giá chung, tác giả tổng kết và phân tích những yếu tố tạo Kiến nghị 2: sửa đổi bổ sung một số nội dung về quyền của người bị nên sự tương đồng và khác biệt trong quan điểm xây dựng các cơ chế bảo đảm quyền có NBC, ví dụ như yếu tố về mộ hình tố tụng truyền buộc tội, cụ thể là: - Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền lựa chọn NBC theo hướng thống, nguyên tắc tố tụng và cách thức chứng minh tội phạm. Ngược lại, những đánh giá cụ thể là việc tổng hợp và phân tích những tương phân định rõ quyền lựa chọn NBC trong trường hợp bị can, bị cáo tự thuê với trường hợp NBC do cơ quan THTT chỉ định, cụ thể là: đồng và khác biệt về các cơ chế pháp lý cụ thể bảo đảm quyền có NBC trong từng hệ thống pháp luật. Trong phần thứ nhất của Chương - Quy định bổ sung Điều luật về quyền từ chối NBC theo hướng: quy định người bị buộc tội có quyền từ chối quyền có NBC (trừ 5, những kết luận so sánh sẽ được phân tích đan xen trong từng tiêu chí cụ thể. trường hợp người bị buộc tội là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất); quy định các cơ quan THTT 5.2 Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC có nghĩa vụ giải thích những hậu quả của việc từ chối quyền có NBC; việc từ chối NBC phải đảm bảo trong điều kiện người từ chối minh Dựa trên kết quả đánh giá ở mục 5.1., kết hợp với việc xem xét các điều kiện và hoàn cảnh của pháp luật Việt Nam, tác giả đã xây mẫn và tự nguyện; việc từ chối phải lập thành văn bản có chữ ký của người từ chối và xác nhận của cơ quan THTT). dựng và đưa ra những kiến giải phù hợp ở hai mức độ, đó là những giải pháp mang tính định hướng và những giải pháp cụ thể. - Mở rộng đối tượng được chỉ định NBC đối với người bị truy tố ở khung hình phạt 20 năm tù và tù chung thân. 5.2.1 Những kiến nghị mang tính định hướng Những kiến nghị tập trung vào 3 vấn đề: Kiến nghị 3: sửa đổi bổ sung khoản 1 Điều 58 Bộ luật TTHS theo hướng cho phép NBC tham gia từ khi khởi tố bị can đối với những 5.2.1.1. Mở rộng hoạt động tranh tụng và ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là một nguyên tắc cơ bản, quan trọng trong TTHS tội xâm phạm an ninh quốc gia. Kiến nghị 4: sửa đổi, bổ sung Điều 190 Bộ luật TTHS theo hướng 5.2.1.2. Nâng cao năng lực và nhận thức của cơ quan THTT, người THTT mọi trường hợp vắng mặt NBC, Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà. Kiến nghị 5: Quy định hình thức phiên tòa xét xử theo hướng phiên 5.2.1.3. Tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật đối với người dân tòa tranh tụng công bằng. Kiến nghị 6: quy định bổ sung Điều luật ghi nhận quyền được im 5.2.2 Những kiến nghị cụ thể Kiến nghị 1: sửa đổi Điều 10 Bộ luật TTHS theo hướng: “Trách lặng của người bị buộc tội. Kiến nghị 7: sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm tạo điều kiện nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan Điều tra và Viện Kiểm sát; Tòa án thực hiện chức năng xét xử; bị can, bị cáo có quyền thuận lợi cho NBC khi tham gia vụ án. Cụ thể là: Một là, cần phải quy định lại Điều 58, khoản 2(b) Bộ luật TTHS nhưng không có nghĩa vụ chứng minh là mình vô tội”. theo hướng cơ quan THTT có nghĩa vụ phải thông báo trước về thời 29 30 gian và địa điểm hỏi cung bị can. NBC có quyền được thông báo mà được trình bày trong Chương 5 cũng đã kết thúc việc nghiên cứu của không chỉ là quyền đề nghị được thông báo như quy định hiện hành. Hai là, quy định nghĩa vụ của cơ quan THTT trong việc tiếp tác giả tại thời điểm này. Hy vọng những đề xuất trên sẽ có ý nghĩa trong việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC. nhận chứng cứ do NBC cung cấp, và trách nhiệm của cơ quan THTT phải hỗ trợ NBC trong việc liên hệ với các cơ quan, tổ chức hoặc cá Tp. Hồ Chí Minh, 10/2011 nhân tạo điều kiện thuận lợi để thu thập chứng cứ. Đồng thời quy định NBC có quyền được nhận thông báo về việc trưng cầu giám NCS: Lương Thị Mỹ Quỳnh định và kết quả giám định. Ba là, bổ sung quy định về quyền của NBC được gặp gỡ và trao đổi với thân chủ đang bị, tạm giữ, tạm giam theo hướng NBC không bị giới hạn số lần và thời gian tiếp xúc với thân chủ của mình. Việc trao đổi có thể trực tiếp hoặc qua thư từ. Trường hợp người đang bị tạm giữ, tạm giam vi phạm những tội xâm phạm an ninh quốc gia thì việc trao đổi bằng thư từ sẽ không được phép. Bốn là, nên bỏ quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận NBC. Năm là, phát triển đội ngũ người bào chữa theo hướng: (1) mở rộng đối tượng được tham gia hành nghề luật sư đối với viên chức nhà nước đang là giảng viên giảng dạy luật tại các trường đại học; (2) xây dựng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý nhằm giúp đỡ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số; (3) hoàn thiện quy định về bào chữa viên nhân dân. Kết luận: Trên đây là toàn bộ những ý kiến của tác giả nhằm đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền có NBC. Cần phải xác nhận rằng, những kiến nghị này được đề xuất dựa trên thực tiễn áp dụng pháp luật của Việt Nam kết hợp với việc học tập những kinh nghiệm từ hai hệ thống pháp luật lựa chọn là Đức và Mỹ. Các đề xuất cũng được tác giả cân nhắc thận trọng theo tiêu chí phù hợp với các điều kiện về truyền thống văn hóa pháp lý và hoàn cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam. Những nội dung
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan