BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
********
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
(HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI, 2016
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
********
BÙI THỊ DUNG
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA
LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
(HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH)
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Xuân Đính
HÀ NỘI, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tác giả.
Các kết quả nghiên cứu và các kết luận trong Luận án này là trung thực,
không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc
tham khảo các nguồn tài liệu đã được thực hiện trích dẫn và ghi nguồn tài liệu
tham khảo theo đúng quy định.
Hà Nội, ngày 26 tháng 02 năm 2016
Tác giả luận án
Bùi Thị Dung
1
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Trang
2
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
3
DANH MỤC CÁC HỘP
4
MỞ ĐẦU
5
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ TỔNG QUAN VỀ LÀNG DỆT
19
PHƢƠNG LA
1.1. Những vấn đề lý luận chung
19
1.2. Tổng quan về làng dệt Phương La
31
Tiểu kết
51
Chƣơng 2: NGHỀ DỆT VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA LÀNG PHƢƠNG LA
53
HIỆN NAY
2.1. Nghề dệt của làng Phương La hiện nay
53
2.2. Văn hóa vật chất của làng dệt Phương La hiện nay
70
Tiểu kết
78
Chƣơng 3: VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA TINH THẦN CỦA LÀNG DỆT
80
PHƢƠNG LA HIỆN NAY
3.1. Văn hóa xã hội của làng dệt Phương La hiện nay
80
3.2. Văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La hiện nay
100
Tiểu kết
118
Chƣơng 4: NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU BIẾN 120
ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
4.1. Những tác động của sự biến đổi văn hóa làng dệt Phương La đến kinh tế xã hội và văn hóa của làng
120
4.2. Dự báo xu hướng văn hóa làng dệt Phương La trong thời gian tới
126
4.3. Đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng dệt Phương La
130
Tiểu kết
143
KẾT LUẬN
144
TÀI LIỆU THAM KHẢO
147
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
157
PHỤ LỤC
158
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNH - HĐH: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
HTX: Hợp tác xã
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
TTCN: Tiểu thủ công nghiệp
UBND: Ủy ban nhân dân
VHTT: Văn hóa thông tin
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
NCS: Nghiên cứu sinh
ĐSVHCS: Đời sống văn hóa cơ sở
3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
1
Bảng 1.1: Các loại đất đai của làng Phương La năm 2012
31
2
Bảng 1.2: Số hộ, số khẩu của làng Phương La năm 2012
32
3
Bảng 1.3: Các lễ tiết chính trong năm của làng Phương La xưa
50
4
Bảng 2.1: Các giai đoạn biến đổi của nghề dệt làng Phương La
54
5
Mô hình 2.2: Mô hình sản xuất theo hộ gia đình
59
6
Mô hình 2.3: Mô hình sản xuất theo công ty, xí nghiệp
61
7
Bảng 2.4: Nhóm đối tượng được gia đình truyền nghề
69
8
Bảng 2.5: Đánh giá về một số khía cạnh của làng nghề hiện nay
70
so với trước năm 1996
9
Bảng 2.6: Đánh giá về mức độ sạch đẹp của cảnh quan làng
71
nghề hiện nay so với trước 1996
10
Bảng 2.7: Đánh giá về hạ tầng làng nghề hiện nay so với trước
72
năm 1996
11
Bảng 2.8: Sơ đồ các cửa hàng dịch vụ trên một đoạn trục
73
đường chính gần chợ Mẹo
12
Bảng 3.1: Đánh giá việc duy trì hoạt động dòng họ
94
13
Bảng 3.2: Số người đến dệt thuê ở Phương La, theo các năm
99
14
Bảng 3.3: Đánh giá mức độ coi trọng vấn đề tâm linh của người 103
dân hiện nay so với trước năm 1996
15
Bảng 3.4: Việc thực hành các tiết chính trong tang ma của
114
người Phương La
16
Bảng 3.5: Đánh giá việc tham gia lễ hội của người Phương La
116
hiện nay so với trước năm 1996
17
Bảng 4.1: Những tác động của sự biến đổi
121
văn hóa làng Phương La
18
Bảng 4.2: Đánh giá về tình trạng ô nhiễm môi trường ở Phương 123
La
4
DANH MỤC CÁC HỘP
Trang
1
Hộp 2.1: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của công ty, doanh
55
nghiệp
2
Hộp 2.2: Ý kiến về nguyên liệu đầu vào của các hộ sản xuất nhỏ
56
3
Hộp 3.1: Sự hình thành chủ doanh nghiệp ở Phương La
80
4
Hộp 3.2: Đóng góp của các doanh nghiệp xây dựng các công trình
88
phúc lợi
5
Hộp 3.3: Quan hệ giữa chủ - thợ
91
6
Hộp 3.4: Nhận thức về vị trí, trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp
98
7
Hộp 3.5: Biểu hiện tính cần cù, kiên nhẫn của người Phương La
104
8
Hộp 3.6: Vấn đề ăn uống trong đám tang
113
9
Hộp 3.7: Việc tham gia lễ hội Đình Đông của người Phương La
117
5
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vùng châu thổ Bắc Bộ từ xưa đã hình thành nhiều loại hình làng, tùy thuộc
vào cách phân chia dựa vào các tiêu chí về điều kiện tự nhiên, kinh tế, lịch sử lập làng
v.v. Nếu phân theo cơ sở kinh tế (hay nghề nghiệp), bên cạnh số đông các làng nông
nghiệp, còn có làng nghề, làng buôn bán v.v. Trên khuôn mẫu chung của làng nông
nghiệp, mỗi loại hình làng lại có sắc thái riêng do đặc thù nghề nghiệp quy định. Đối
với làng nghề, nét khác biệt rõ nhất thể hiện ở việc người thợ thủ công tuy chưa hoàn
toàn tách khỏi sản xuất nông nghiệp, song đã có những tố chất “làm nền” cho việc
hình thành người công nhân công nghiệp, các chủ doanh nghiệp sau này.
Làng nghề tạo ra giá trị kinh tế lớn và ổn định hơn so với các loại hình làng
khác, bảo đảm công ăn việc làm cho dân làng, thu hút nhiều lao động dư thừa từ các
làng quê khác. Đây là một trong những nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, hình
thành các thị tứ, góp phần đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa nông thôn. Thu nhập của
người làng nghề cao nên có điều kiện để xây dựng, tu bổ các công trình thờ cúng
(đình, chùa, đền, miếu...) và tổ chức các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội. Sản phẩm của
làng nghề làm ra mang tâm hồn, cốt cách, sự khéo léo của đôi bàn tay người thợ, nên
mỗi sản phẩm là một tác phẩm riêng, độc đáo. Người làng nghề có bí quyết, công
thức nghề riêng, vì vậy, việc giữ bí quyết nghề hết sức nghiêm ngặt. Quan hệ xã hội
của người làng nghề cũng mở rộng hơn do người thợ đi khắp nơi làm ăn và cũng có
nhiều người từ nơi khác đến làm thuê, trao đổi nguyên vật liệu và sản phẩm; tạo ra
những khác biệt về nếp nghĩ, tầm nhìn, quan niệm về các giá trị của làng xã. Đặc
điềm nghề nghiệp cũng quy định cường độ và nhịp độ lao động, nhịp sống của cư dân
làng nghề, có nhiều khác biệt so với làng nông nghiệp.
Tất cả các khía cạnh trên hợp thành một “văn hóa làng nghề” với những nét
khác biệt dễ nhận thấy, trong khung chung của “văn hóa làng”. Nghiên cứu văn hoá
làng nghề không chỉ góp phần vào việc nghiên cứu làng Việt, đặc điểm kinh tế - xã
hội truyền thống mà còn tìm ra những dáng nét văn hoá khác biệt của người Việt thể
hiện qua các mặt đời sống, của nghề.
6
Công cuộc Đổi mới, đặc biệt là việc đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HĐH tạo cho
các làng nghề những cơ hội để phát triển, văn hóa làng nghề cũng có những thay đổi
sâu sắc. Song, làng nghề và văn hóa làng nghề cũng phải đối mặt với những thử thách
khắc nghiệt của kinh tế thị trường, ảnh hưởng đến tổ chức làm nghề, tiêu thụ sản phẩm;
với vấn đề môi trường; cơ cấu dân cư, sự phân tầng xã hội, các quan hệ xã hội trong và
ngoài làng, nhịp sống, nếp sống, phong tục tập quán và tôn giáo tín ngưỡng. Đến lượt
chúng, các yếu tố trên lại tác động đến sự phát triển của nghề và làng nghề.
Những biến đổi văn hóa làng nghề diễn ra khác nhau ở từng làng, phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Ngoài các yếu tố chung là sự phát triển kinh tế- xã hội dưới tác
động của các chủ trương, chính sách của Nhà nước, còn có yếu tố riêng, như đặc
điểm nghề, sự năng động của cộng đồng cư dân, hay truyền thống lịch sử văn hóa
của địa phương… cần được nghiên cứu.
Thái Bình nằm trong vùng châu thổ sông Hồng, có nhiều nghề thủ công hình
thành và phát triển ở tất cả các huyện; trong đó, Hưng Hà là điển hình của một
huyện đa nghề, với những làng nghề nổi tiếng bởi các sản phẩm đặc trưng, được
“dân biết mặt, nước biết tên”, như làng dệt chiếu Hới, làng dệt vải Phương La v.v.
Các làng này được giới thiệu trong một số công trình chủ yếu, nêu những nét lớn về
lịch sử làng nghề trong quá khứ, ít nghiên cứu về phương diện Văn hóa học, nhất là
không đề cập đến sự biến đổi văn hóa truyền thống trong điều kiện kinh tế - xã hội
hiện nay; khi coi văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, hay văn
hóa là một trong bốn trục của phát triển bền vững (ba trục khác là tăng trưởng kinh
tế, ổn định chính trị - xã hội và giữ gìn tài nguyên - môi trường).
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng
nghề và biến đổi văn hóa làng nghề ở nhiều chiều cạnh khác nhau, nhưng chưa có
công trình nào nghiên cứu về Biến đổi văn hóa làng dệt Phương La (huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình). Vì vậy, việc nghiên cứu, giải quyết đề tài này sẽ góp phần tìm
hiểu về thực trạng biến đổi văn hóa làng nghề, xu hướng văn hóa làng nghề Phương
La trong thời gian tới và từ đó đưa ra giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
làng Phương La trong giai đoạn CNH - HĐH đất nước.
7
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1. Những công trình nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng nghề của
ngƣời Việt ở Bắc Bộ
- Các nghiên cứu chung về làng nghề, văn hoá làng nghề ở Bắc Bộ trong
nghiên cứu chung về làng xã người Việt
Điểm nổi bật của việc nghiên cứu nghề thủ công và làng nghề từ trước đến
nay là được đặt trong khung cảnh nghiên cứu về làng Việt nói chung, dưới nhiều
góc độ khác nhau; do nghề thủ công là bộ phận gắn chặt với nông nghiệp, các làng
nghề có mối quan hệ chặt chẽ với các làng nông nghiệp. Đến nay, đã có một khối
lượng lớn các công trình được công bố. Dưới đây là một số công trình tiêu biểu.
Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của Nhà Địa lý học Pháp Pièrre Gourou, từ
cách tiếp cận địa lý nhân văn chỉ ra những nét chung về các mặt đời sống của người
nông dân Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Tác
giả đã khảo tả rất chi tiết địa hình châu thổ Bắc Kỳ, về dân cư trong sự vận động,
dịch chuyển và quần tụ - đặc điểm điển hình tạo nên làng của vùng châu thổ Bắc
Bộ. Tác giả nghiên cứu sâu về văn hóa mưu sinh của các làng và luôn đặt các vấn
đề nghiên cứu trong sự vận động biến đổi và linh hoạt. Trong Chương 2, P. Gourou
đưa ra con số 108 nghề thủ công (phân theo nhóm nghề) được gọi là “ công
nghiệp làng xã”, gồm các nghề dệt, đan lát, gỗ và các nghề khác. Công nghiệp dệt
gồm dệt bông, tơ tằm, những ngành lụa thô, tơ đũi, the, đan lưới, võng.., có 242
làng nghề [39].
Công trình Sơ khảo lịch sử phát triển thủ công nghiệp Việt Nam của tác giả
Phan Gia Bền [11] được coi là chuyên khảo lớn nhất về nghề thủ công. Thông qua
cuốn sách, tác giả đã giới thiệu sơ lược lịch sử phát triển của thủ công nghiệp Việt
Nam, tìm hiểu những nét lớn về tình hình phát triển của nghề thủ công qua các thời
kỳ, tìm hiểu về mầm mống tư bản chủ nghĩa trong thủ công nghiệp Việt Nam, tác
dụng của chủ nghĩa tư bản phát triển đối với thủ công nghiệp Việt Nam. Tác giả còn
đúc kết 6 đặc điểm của thủ công nghiệp Việt Nam và tình hình phát triển của một số
8
nghề thủ công tiêu biểu. Tác giả đã đưa ra những định nghĩa về thủ công nghiệp, về
thợ thủ công ... mà cho đến bây giờ những định nghĩa ấy vẫn được các nhà nghiên
cứu sử dụng, làm tiền đề cho các nghiên cứu của mình.
Bộ sách hai tập Nông thôn Việt Nam trong lịch sử [115], trong tập đầu xuất
bản năm 1977 đã có hai bài viết về nghề thủ công và làng nghề. Mặc dù đây mới chỉ
là khảo sát tổng quát về sự phân bố các nghề và làng nghề của Việt Nam trong quá
trình lịch sử, tuy chưa khảo sát chi tiết nhưng tác phẩm đã rất quan tâm đề cập tới
nghề và làng nghề thủ công. Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại [116] do
Viện Sử học biên soạn. Các bài viết của Phạm Văn Kính, Nguyễn Khắc Tụng và
Bùi Xuân Đính phân tích những nét cơ bản về thủ công nghiệp trong đời sống kinh
tế của người nông dân thời phong kiến và thời Pháp thuộc.
Làng Việt Nam, mấy vấn đề kinh tế - xã hội và văn hóa của Phan Đại Doãn
[25] là công trình nghiên cứu tổng thể về làng Việt dưới góc độ Sử học. Tác giả chỉ rõ
một số đặc điểm cơ bản của nền kinh tế, sản xuất tiểu nông, thủ công nghiệp kết hợp
chặt chẽ với nông nghiệp, các nghề thủ công tồn tại và phát triển phụ thuộc chặt vào
kinh tế hộ gia đình người nông dân. Tác phẩm còn chỉ rõ vấn đề ruộng công, ruộng tư
và mối quan hệ giữa nông thôn với thành thị giúp NCS hiểu rõ hơn về sự tác động
qua lại giữa nông thôn và thành thị giai đoạn những năm cuối của thế kỷ XX.
Ngoài ra, còn nhiều công trình khảo sát những nét tiêu biểu về nghề thủ công
truyền thống, như: Văn hóa truyền thống làng Đồng Kỵ do Lê Hồng Lý chủ biên,
nghiên cứu làng Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) [79]; Ninh Hiệp truyền
thống và phát triển của nhóm tác giả do Tô Duy Hợp chủ biên nghiên cứu về làngxã Ninh Hiệp (huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội) [55]…
- Các nghiên cứu về làng nghề, văn hóa làng nghề của người Việt ở Bắc Bộ
Thứ nhất, ngoài những ghi chép trong các bộ chính sử, nghề và làng nghề
được đề cập đến đầu tiên trong các cuốn địa chí, thông qua mục ghi “sản vật”, như
Dư địa chí của Nguyễn Trãi [107] là tác phẩm ghi chép sớm nhất về các nghề thủ
công ở Việt Nam, ở tác phẩm này Nguyến Trãi đã đề cập tới nghề dệt lụa ở Hà
9
Đông. Công trình Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn [87] hay
các cuốn địa phương chí là nguồn tài liệu ghi chép về các nghề thủ công và làng
nghề khá phong phú, song chủ yếu nêu sản vật của các nghề thủ công gắn với làng
nghề ở mỗi địa phương, không miêu tả quy trình làm nghề.
Thứ hai là các công trình nghiên cứu về lịch sử các ngành nghề, chủ yếu đề
cập đến nguồn gốc nghề thông qua các vị tổ nghề, tiêu biểu là các cuốn sách Nghề
thủ công truyền thống Việt Nam và các vị tổ nghề của Trần Quốc Vượng [121],
Truyện các ngành nghề của nhóm tác giả Tạ Phong Châu [16] v.v. Nghề cổ đất Việt
(khảo cứu) của Vũ Từ Trang [106] điểm tới 21 nghề cổ truyền như: nghề gốm,
nghề rèn, đúc đồng, chạm vàn bạc, làm cày bừa, làm nón, dệt chiếu, nghề trồng dâu,
nuôi tằm ...
Thứ ba là các công trình khảo tả về nghề gắn với làng nghề và vùng nghề
khác nhau, tiêu biểu là Nghề cổ truyền của Tăng Bá Hoành [52], Quê gốm Bát
Tràng của Đỗ Thị Hảo [43], Gốm Bát Tràng thế kỷ XV- XIX do Phan Huy Lê chủ
biên [71], Làng tranh Đông Hồ của Nguyễn Thái Lai [70]. Các cuốn sách này dùng
phương pháp miêu tả Dân tộc học để đưa ra các tư liệu, từ đó nêu những nét lớn của
một nghề, từ nguồn gốc nghề (tổ nghề), nguồn nguyên liệu, công cụ làm nghề, quy
trình kỹ thuật làm nghề, tổ chức sản xuất đến các loại hình và đặc trưng sản phẩm,
phương thức tiêu thụ sản phẩm, thu nhập của người làm nghề và tâm lý làng nghề.
Viện Nghiên cứu Văn hóa đã tập hợp các công trình viết về nghề và làng nghề
thành bộ Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam (gồm 6 tập). Công
trình đồ sộ này đã tổng tập các công trình viết về nghề và làng nghề; gồm giới thiệu
làng nghề (nguồn gốc, tổ nghề, lịch sử hình thành và phát triển, thực trạng sản xuất
...), khảo sát và nghiên cứu về nghề (kỹ thuật, kỹ xảo, quy trình công nghệ, dụng cụ
hành nghề, bí quyết nghề ...), sản phẩm nghề (kiểu cách, mẫu mã, nghệ thuật tạo
hình và trang trí ...), hoạt động sản xuất (phương thức hành nghề, truyền nghề, thị
trường, kinh tế làng nghề, du lịch làng nghề và văn hóa nghề nghiệp...). Tập một,
nhóm tác giả đề cập về nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam bao gồm những
vấn đề lý luận chung về nghề và làng nghề truyền thống, giới thiệu tổ nghề và nghệ
10
nhân dân gian, các vùng nghề, địa danh và địa chí làng nghề. Đặc biệt, nhóm tác giả
dành hẳn chương 5 để bàn về sự biến đổi làng nghề trong bối cảnh hiện nay. Tóm
lại, bộ Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam giúp chúng ta có một cái
nhìn tương đối tổng quan về các công trình nghiên cứu về nghề và làng nghề truyền
thống Việt Nam của các tác giả trong và ngoài nước. Thông qua Tuyển tập, chúng
ta có cái nhìn khái quát về nghề, làng nghề; những vấn đề lý luận chung đến nguồn
gốc hình thành nghề, tổ nghề, quy trình sản xuất, sự biến đổi của nghề, làng nghề
trong giai đôạn hiện nay...
Nghề và làng nghề cũng là đề tài hấp dẫn cho nhiều luận án tiến sĩ của các
chuyên ngành Dân tộc học, Văn hóa dân gian và Văn hóa học trong khoảng hơn 20
năm trở lại đây, như Biến đổi làng nghề thủ công truyền thống Triều Khúc, xã Tân
Triều, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội [125], Làng nghề sơn quang Cát Đằng
[60], Sự biến đổi văn hóa làng nghề ở châu thổ sông Hồng từ năm 1986 đến nay
[108], hay các luận văn thạc sĩ như Làng thêu Quất Động [88]; Gốm sành nâu ở
Phù Lãng [41]; Làng Cọi Khê: Truyền thống và đổi mới [51] v.v. Các luận án, luận
văn này khảo tả tương đối kỹ lưỡng các nội dung liên quan đến nghề, chỉ ra được
những đặc điểm của làng nghề về các mặt: cấu trúc làng xóm, di tích thờ cúng, các
phong tục, tín ngưỡng, hội hè...
Bên cạnh đó, còn có một khối lượng lớn các bài đăng trên tạp chí, giới thiệu
tổng thể hay từng mặt một nghề, hoặc làng nghề của các địa phương.
Nhìn chung, các tác phẩm nói trên đã phản ánh nhiều khía cạnh về nghề, làng
nghề như sản vật của các nghề thủ công, lịch sử ngành nghề, khảo tả nghề, những
đặc điểm của làng nghề về cấu trúc làng xóm, di tích thờ cúng. Tuy nhiên, các tác
phẩm này đề cập đến khía cạnh văn hóa làng nghề còn ít, chưa nghiên cứu tổng thể
các thành tố góp phần tạo nên văn hóa làng nghề.
2.2. Những công trình nghiên cứu về biến đổi làng nghề, văn hoá làng nghề
Công trình Làng nghề, phố nghề, Thăng Long - Hà Nội của Trần Quốc
Vượng và Đỗ Thị Hảo [123] là công trình đầu tiên bàn về biến đổi làng nghề, văn
11
hóa làng nghề. Sau khi đưa ra định nghĩa về làng thủ công, đặt vị trí làng nghề trong
diễn trình lịch sử văn hóa Việt Nam, các tác giả nêu một số quan điểm phát triển
làng nghề: Mô hình sản xuất hộ gia đình vẫn hiệu quả nhất vì nó không bị phụ thuộc
vào vốn. Tuy nhiên theo các tác giả, trong nền kinh tế thị trường, nghề và làng nghề
đang đứng trước những khó khăn thách thức. Vấn đề đầu ra của sản phẩm nghề thủ
công, vấn đề môi trường ... phải được quan tâm. Các tác giả cũng cho rằng, để nghề
và làng nghề phát triển cần có hệ thống chính sách, cơ chế phù hợp và là vấn đề cấp
bách cần phải làm ngay.
Công trình “Làng nghề phố nghề Thăng Long - Hà Nội trên đường phát
triển” của nhóm tác giả Vũ Quốc Tuấn [104], sau khi đưa ra phác thảo về làng nghề
phố nghề trong lịch sử, đề cập đến thực trạng của làng nghề phố nghề hiện nay;
đồng thời, nhóm tác giả đã chỉ ra hướng phát triển và các giải pháp để phát triển
làng nghề.
Ngoài ra, công trình Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá [53]; Làng nghề truyền thống trong quá trình công
nghiệp hoá và hiện đại hoá [124]; Làng nghề Việt Nam và môi trường phản ánh về
các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển các làng nghề, tiềm năng và sự vận động
của nó trong nền kinh tế thị trường, hướng bảo tồn và phát triển làng nghề truyền
thống [18].
Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ bảo vệ trong 20 năm trở lại đây và các
bài báo (đã nêu ở trên), sau phần giới thiệu về đặc điểm của nghề truyền thống đã
đưa ra một số tư liệu cùng nhận xét về sự thay đổi của nghề dưới tác động của các
điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.
Dưới góc độ Dân tộc học/Nhân học, trong vài năm qua, nhiều công trình bàn
sâu về biến đổi của làng nghề truyền thống từ sau hòa bình lập lại đến nay, nhất là
dưới tác động của quá trình CNH – HĐH.
- Sự phát triển của làng nghề La Phù do Tạ Long chủ biên, nghiên cứu
trường hợp về sự thay đổi của một làng nghề qua các thời kỳ trước đây và hiện nay,
12
nổi bật là việc hình thành các công ty và những đóng góp của làng nghề này vào
ngân sách Nhà nước, nghề phát triển có liên quan đến các tổ chức quan phương (hệ
thống chính trị, chính sách) và phi quan phương (xóm, ngõ, dòng họ); đồng thời,
các tác giả cũng đã đưa ra những khó khăn cần phải giải quyết của làng nghề La phù
trong giai đoạn hiện nay [76].
- Làng nghề thủ công huyện Thanh Oai (Hà Nội) - truyền thống và biến đổi
do Bùi Xuân Đính chủ biên, nghiên cứu về biến đổi của nghề, làng nghề thủ công
huyện Thanh Oai. Công trình đề cập đến những đặc điểm của làng nghề (không
gian kiến trúc, cơ cấu tổ chức làng xã, di tích lịch sử văn hóa…). Các tác giả dành
Chương 3 để bàn hướng đi lên của làng nghề thủ công của huyện trong bối cảnh
CNH- HĐH [31].
Trong suốt thời gian qua, đã có một khối lượng lớn các công trình nghiên
cứu về nghề, làng nghề thủ công; sự biến đổi kinh tế - xã hội, biến đổi văn hóa và
cuộc sống của người nông dân ở ở các làng quê Việt Nam nói chung với nhiều cách
tiếp cận khác nhau. Các tác giả đã đều đồng thuận chỉ ra rằng sự biến đổi ở các khu
vực nông thôn, nông nghiệp là một tất yếu hiện nay. Trong quá trình biến đổi đó,
những đặc trưng cơ bản của làng cũng như những đặc tính nổi bật của người nông
dân được thể hiện vẫn rất đậm nét. Trong quá trình biến đổi ấy chính là cầu nối giữa
nông thôn và đô thị, làng vẫn giữ tính tự trị tương đối của nó nhưng đã rất cởi mở
và linh hoạt, ở đó có những sự tái cấu trúc từ không gian, cảnh quan làng cho đến
kinh tế, văn hóa và xã hội. Người nông dân ở các làng không thụ động và phụ thuộc
như trước kia mà họ thực dụng hơn, có khả năng làm xoay chuyển tình huống theo
hướng có lợi. Và như vậy, cuộc sống của người dân ổn định và phát triển hơn.
Nghiên cứu sự biến đổi làng nghề, văn hóa làng nghề nói riêng đã có nhiều tác
giả đề cập tới. Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu tiếp cận dưới góc độ Sử học
(nghiên cứu về lịch sử nghề và làng nghề), Văn hóa Dân gian, Dân tộc học/ Nhân học
(đi sâu nghiên cứu quy trình sản xuất, các loại hình sản phẩm). Các công trình nghiên
cứu dưới góc độ Văn hóa học, xem xét các yếu tố văn hóa, các giá trị văn hóa của sản
13
phẩm nghề, của nghề và làng nghề; những biến đổi về các giá trị truyền thống trong
bối cảnh hiện nay chưa nhiều. Các công trình đó còn nặng về nghiên cứu truyền
thống, ít nghiên cứu những vấn đề của nghề, làng nghề và văn hóa làng nghề trong
cuộc sống đương đại. Còn ít các nghiên cứu điểm (case stady) để thấy được tính đa
dạng, điểm chung và nét riêng của văn hóa làng nghề và biến đổi của làng nghề.
2.3. Tổng quan các nghiên cứu về làng nghề Phƣơng La
Có thể chia các nghiên cứu về làng nghề Phương La từ trước đến nay thành
các nhóm sau:
- Nhóm công trình nghiên cứu về lịch sử - văn hóa Thái Bình, trong đó có đề
cập đến làng Phương La
Các tác phẩm Chú thích về tỉnh Thái Bình [65]; Nhận diện văn hóa làng ở
Thái Bình [97]; Lễ hội truyền thống ở Thái Bình [98]; Địa danh Thái Bình trong
lịch sử [99]; Tên làng xã Thái Bình [103]… đề cập giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể
một số làng ở Thái Bình, trong đó có làng Phương La.
Tác phẩm Ngàn năm đất và người Thái Bình đề cập đến làng nghề Phương
La ở khía cạnh nghề, vai trò của nghề trong phát triển kinh tế [89].
Trong công trình Địa chí Thái Bình nói về các làng nghề ở Thái Bình, về sản
phẩm của làng nghề, nêu rõ nghề dệt vải lụa, số lượng thợ thủ công, số khung cửi
dùng để dệt, giá sản phẩm: “… Thái Bình có khoảng 750 thợ dệt các loại: sồi, đũi,
lụa, là, nái, sa… tập trung ở các làng Bộ La (Vũ Thư), Nam Lỗ (Tiên Hưng), Vân
Tràng (Thụy Anh), Phương La (Hưng Nhân); Quận Hành, Động Trung, Đông Nhuế,
Niên Hạ (Kiến Xương)… " [100].
- Nhóm công trình nghiên cứu về nghề thủ công ở Thái Bình, trong đó có
nghề dệt làng Phương La
Sách Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí và Đại Nam nhất thống chí nói về
nghề thủ công ở Thái Bình, trong đó ghi chép huyện Vũ Tiên có làng Bộ La dệt lụa,
ở làng Mẹo phủ Tiên Hưng có nghề dệt lụa, nái..." [35, 87].
14
Sách Tiên Hưng phủ chí ghi chép về phủ Tiên Hưng viết năm 1928 của Đốc
học phủ Tiên Hưng Phạm Nguyên Hợp (lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu
A.3167) ở phần “công nghệ” (nghề thủ công) có ghi: “Dân các xã Phương La, Trác
Dương (xã Thái Phương), Yên Nghiệp (Minh Tân) huyện Hưng Nhân (Hưng Hà)
thường đi mua kén tằm đem về kéo thành sợi, chia ra làm mấy loại. Loại sợi tơ mảnh
đem dệt thành lụa gọi là lục sồi, loại sợi tơ hơi thô dệt ra thành lụa nái, rồi đem đi bán
ở chợ các nơi" [58]. Sách Tiên Hưng phủ chí còn cho biết: “Người xã Nguyên Xá,
huyện Thần Khê kéo kén thành tơ phiếu (ngâm, phơi khô để tơ mất đi màu vàng, ngả
sang màu trắng lụa), cho tơ trắng ra, cuộn vào guồng xe cho săn sợi rồi mới dệt. Lụa
dệt ra màu trắng có hoa văn rất đẹp. Nghề này có từ thời Lê Cảnh Hưng”.
Tài liệu Chú thích về tỉnh Thái Bình (“Notice sur la Province de Thái Bình”),
ký hiệu M.10372 (Thư viện Quốc gia) cho biết, các huyện trong tỉnh Thái Bình có
trồng dâu (trước năm 1945) “Dâu, tằm: theo thống kê toàn bộ về các bãi dâu tiến
hành năm 1931 - 1932, diện tích trồng dâu tằm lên tới 1.830 mẫu (dâu trồng ở vườn
và dâu trồng ở các bãi cát). Diện tích trồng dâu phân bổ ở 10 phủ, huyện trong tỉnh,
diện tích trồng dâu ở Duyên Hà (286 mẫu) và Hưng Nhân (50 mẫu), hai huyện nay
nhập thành Hưng Hà, có diện tích trồng lớn nhất tỉnh” [65].
Theo Lịch sử Đảng bộ huyện Hưng Hà, đầu thế kỷ XX thợ dệt Phương La và
làng Tống Lạp rất nổi tiếng. Thợ ở hai làng dệt này từng có sản phẩm bày bán tại
Hội chợ triển lãm kinh tế Pháp - Việt ở nhà Đấu Xảo - Hà Nội [7].
- Nhóm đề tài, bài báo bàn luận, nghiên cứu trực tiếp về Phương La
+ Đầu tiên, phải kể đến Kỷ yếu hội thảo khoa học Hoằng Nghị Đại Vương và
việc bảo tồn, tôn tạo khu di tích lịch sử - văn hóa Phương La do UBND tỉnh Thái Bình
và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức, viết về làng Phương La dưới góc độ Sử học
nhằm phục vụ mục đích chính là làm sáng rõ thân thế, sự nghiệp của Hoằng Nghị Đại
Vương, khẳng định vai trò của dòng họ Trần ở Phương La. Do vậy, tập Kỷ yếu này
chưa đề cập tới làng nghề một cách toàn diện, chưa quan tâm tới văn hóa truyền thống,
biến đổi văn hóa làng nghề trong giai đoạn đẩy mạnh CNH - HĐH [111].
15
+ Đề tài cấp ngành Một số giá trị văn hóa của các nghề thủ công truyền
thống ở Thái Bình của tác giả Nguyễn Ngọc Phát, tại chương II, giới thiệu sơ bộ về
quy trình sản xuất, sản phẩm, một số giá trị di tích của làng Phương La, chưa đề cập
tới văn hóa truyền thống của làng nghề một cách đầy đủ, không bàn đến sự biến đổi
văn hóa trong điều kiện CNH - HĐH đất nước [91].
+ Ngoài ra còn có một số bài báo nói về nghề, làng nghề Phương La dưới các
góc độ khác nhau.
Nhìn chung, các tác phẩm nói trên chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể của
nghề, làng nghề Phương La: nguồn gốc làng xã, các dòng họ, kinh tế, giá trị các văn
bia, di tích, một phần về nghề (quy trình sản xuất, sản phẩm) mà chưa nghiên cứu
về văn hóa làng nghề; những vấn đề nổi bật của văn hóa làng nghề một cách hệ
thống, đặc biệt dưới tác động của CNH - HĐH. Tuy vậy, các nghiên trên là cơ sở,
sự gợi mở cho hướng tiếp cận của tác giả khi nghiên cứu về biến đổi văn hóa làng
Phương La.
3. MỤC ĐÍCH, VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
3.1. Mục đích nghiên cứu của Luận án
Thông qua việc khảo sát, phân tích thực trạng biến đổi văn hóa làng nghề dệt
Phương La; Luận án dự báo xu hướng văn hóa làng nghề dệt Phương La thời gian
tới, từ đó đưa ra những giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa làng nghề dệt
Phương La trong điều kiện CNH - HĐH, giúp làng Phương La và các làng nghề ở
Thái Bình phát triển bền vững.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, Luận án sẽ phải giải quyết
những nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hóa lý luận về biến đổi văn hóa, biến đổi văn hóa làng nghề và
một số khái niệm cơ bản có liên quan đến luận án, làm cơ sở lý luận chung cho toàn
bộ đề tài;
16
- Giới thiệu tổng quan về làng dệt Phương La, nghề dệt và văn hóa làng
Phương La trong xã hội truyền thống ;
- Khảo sát, phân tích thực trạng biến đổi văn hóa làng dệt Phương La;
- Dự báo xu hướng của văn hóa làng nghề dệt Phương La những năm tiếp
theo, đề xuất giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của làng nghề dệt Phương
La trong điều kiện CNH - HĐH.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của Luận án
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là các khía cạnh liên quan đến biến đổi
văn hóa làng nghề dệt Phương La (thực trạng và xu hướng biến đổi, nguyên nhân
biến đổi …).
4.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận án
- Về không gian, địa bàn nghiên cứu chính của Luận án là làng Phương La
(xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình); đồng thời, Luận án có nghiên
cứu mở rộng sang xã nghề dệt đũi Nam Cao (huyện Kiến Xương) và dệt khăn Minh
Tân (huyện Hưng Hà) tỉnh Thái Bình.
- Về thời gian, Luận án nghiên cứu biến đổi văn hóa làng Phương La khi
nghề dệt phát triển, nhất là giai đoạn CNH - HĐH đất nước (từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII, tháng 6/1996 đến nay).
5. HƢỚNG TIẾP CẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
5.1. Hƣớng tiếp cận
- Tiếp cận Văn hóa học: là hướng tiếp cận chính yếu của Luận án. Luận án
chú trọng xem xét, nghiên cứu các thành tố văn hóa trong xã hội truyền thống của
làng nghề Phương La; xác định thực trạng biến đổi, nguyên nhân và xu hướng văn
hóa trong điều kiện CNH - HĐH và hội nhập quốc tế.
- Ngoài ra, Luận án còn sử dụng các cách tiếp cận khác để bổ trợ, như: tiếp cận
Nhân học/Dân tộc học để xem xét các mối quan hệ của con người trong các yếu tố văn
hóa; tiếp cận lịch sử để xem xét các yếu tố văn hóa hiện nay của làng Phương La; tiếp
17
cận hệ thống để đặt sự hình thành, tồn tại và phát triển của các yếu tố văn hóa làng
nghề dệt Phương La trong mối liên hệ với các yếu tố địa lý tự nhiên, cơ sở kinh tế…
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã Dân tộc học là phương pháp chính được Đề tài sử
dụng để thu thập tư liệu. Ngoài việc thu thập các số liệu thống kê, các báo cáo trên
thực địa, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể là: Nghiên cứu tham dự các hoạt
động làm nghề, các sinh hoạt văn hóa xã hội, tín ngưỡng của dân làng. Phỏng vấn
thợ thủ công, chủ doanh nghiệp, các bậc cao niên trên địa bàn nghiên cứu... Các thao
tác phụ trợ: chụp ảnh, ghi âm, ghi hình.
- Phương pháp điều tra Xã hội học, sử dụng phương pháp điều tra Xã hội
học để điều tra về các vấn đề văn hóa, xã hội... theo nội dung các Chương 2,3,4 của
Luận án. Trên cơ sở kế thừa, tham khảo mẫu phiếu điều tra của những người nghiên
cứu trước, NCS đã hoàn chỉnh bộ mẫu phiếu điều tra xã hội học với bốn nội dung
điều tra chính yếu: điều tra về cảnh quan môi trường làng dệt Phương La; về truyền
nghề và mối quan hệ của người làng nghề; về biến đổi nghề dệt; về tín ngưỡng, lễ
hội, phong tục tập quán.
NCS đã điều tra 224 người về truyền nghề, mối quan hệ của người làng nghề;
về biến đổi nghề dệt (trong đó, có 69.23% số người là thợ thủ công; 23.08% số người
là buôn bán, dịch vụ 20.8%; 7.69% là nội trợ); 208 người về cảnh quan môi trường
làng nghề và về tín ngưỡng, lễ hội, phong tục tập quán (trong đó, có 69.23% số người
là thợ thủ công; có 7.69 % số người là cán bộ, viên chức; 15.38% số người là cán bộ
hưu trí; 7.6% là các đối tượng khác).
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành, sử dụng các phương pháp nghiên cứu
của Văn hóa học, Nhân học/ Dân tộc học, Sử học, Xã hội học,… để xem xét, lý giải
các yếu tố văn hóa của làng dệt Phương La.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, phương pháp phân tích sử dụng
để đánh giá, phân loại các tài liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu, tìm ra
đặc trưng văn hóa truyền thống của làng dệt Phương La. Phương pháp tổng hợp sử
- Xem thêm -