Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở hà nội hiện nay qua nghiên...

Tài liệu Biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở hà nội hiện nay qua nghiên cứu một số xã, phường

.PDF
203
533
149

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI Bùi Thị Như Ngọc BIẾN ĐỔI VỀ VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH Ở HÀ NỘI HIỆN NAY QUA NGHIÊN CỨU MỘT SỐ XÃ, PHƯỜNG Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 62 31 06 40 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học GS. TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH 1 Hà Nội, 2017 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục 1 Danh mục chữ viết tắt 2 MỞ ĐẦU 3 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ĐỊA BÀN 10 NGHIÊN CỨU VÀ LÝ THUYẾT VẬN DỤNG 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 10 1.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và văn hóa gia đình ở Hà Nội 18 1.3. Lý thuyết vận dụng 28 Chương 2: VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH Ở 43 HÀ NỘI TRƯỚC NĂM 1986 2.1. Vai trò làm vợ 43 2.2. Vai trò làm mẹ 49 2.3. Vai trò trong hoạt động kinh tế gia đình và các hoạt động khác 57 Chương 3: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ 69 NỮ TRONG GIA ĐÌNH Ở HÀ NỘI TỪ SAU NĂM 1986 3.1. Biến đổi vai trò làm vợ 69 3.2. Biến đổi vai trò làm mẹ 80 3.3. Biến đổi vai trò trong hoạt động kinh tế gia đình và các hoạt động khác 99 Chương 4: NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ XU HƯỚNG BIẾN 115 ĐỔI VAI TRÒ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH Ở HÀ NỘI 4.1. Những nhân tố ảnh hưởng 115 4.2. Xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội 140 KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 162 2 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT GS Giáo sư NCS Nghiên cứu sinh Nxb Nhà xuất bản Tp Thành phố xb Xuất bản 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xã hội hiện đại ngày nay, vai trò và những đóng góp, cống hiến của phụ nữ trong đời sống nói chung, trong gia đình nói riêng ngày càng được khẳng định thông qua các hoạt động trên nhiều lĩnh vực, trong cả gia đình và ngoài xã hội. Dưới ảnh hưởng của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa ở nước ta, phụ nữ Việt Nam ngày càng có nhiều điều kiện, cơ hội thuận lợi để thể hiện, khẳng định năng lực, trình độ bản thân cũng như tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng, phát triển gia đình và đất nước bền vững. Có một thực tế, cũng là thành tựu đáng ghi nhận, là các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ngày càng thể hiện rõ quan điểm xóa bỏ phân biệt, bất bình đẳng nam - nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ được hưởng thụ các thành tựu của công cuộc xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước, tham gia các hoạt động xã hội và được ghi nhận những đóng góp của mình trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa… Hướng tới bảo đảm quyền bình đẳng và quyền lợi chính đáng cho phụ nữ là một mục tiêu chiến lược để đất nước và con người Việt Nam phát triển bền vững. Thành quả mà chúng ta đạt được trong những năm qua, là phụ nữ và vai trò của người phụ nữ ngày càng được khẳng định và nhìn nhận, đánh giá đúng đắn hơn bởi hiệu quả không chỉ từ những chủ trương, chính sách mang tính chiến lược đó, mà còn từ chính những nỗ lực và sự đóng góp về cả vật chất và tinh thần mà phụ nữ mang lại cho gia đình và xã hội… Song rõ ràng, bên cạnh những thành tựu, vẫn có những tồn tại, hạn chế trong việc đánh giá, nhìn nhận vai trò của người phụ nữ cũng như những đóng góp, cống hiến của họ trong nhiều lĩnh vực xã hội, mà trước tiên là trong gia đình. Thực trạng này tồn tại không phải ở đâu xa, mà ở ngay Thủ đô Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của nước ta. Trong bối cảnh Thủ đô đang có những sự biến chuyển, phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực hòa vào tiến trình hội nhập chung của đất nước, người phụ nữ Hà Nội ngày càng có điều kiện, cơ hội tham gia, hòa nhập sâu, rộng vào các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội. Cùng với những biến chuyển về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật trong bảo vệ và phát huy vai trò của phụ nữ, cùng với những đổi thay nhất định về nhận thức của xã hội…, vai trò của phụ nữ trong gia đình cũng vì thế mà có những biến đổi. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, người phụ nữ dù trong gia đình Hà Nội gốc hay không, có việc làm (công việc chuyên môn, làm nông hoặc làm nghề) hay không, đa phần đều gặp một “lực cản” chung về quan niệm vốn tồn tại đã lâu, là việc đảm nhiệm 4 vai trò làm vợ, làm mẹ, chịu trách nhiệm các công việc nhà, nuôi dạy con cái… đương nhiên được coi là của phụ nữ chứ không phải của nam giới; sự chia sẻ, thông cảm của các thành viên trong gia đình với các vai trò nói trên của phụ nữ vì thế cũng khá hạn chế, nên dễ dẫn đến những xung đột và gây trở ngại cho phụ nữ trong việc cống hiến trí và lực cho nghề nghiệp và các hoạt động xã hội khác. Mâu thuẫn giữa những biến đổi đã và vẫn đang diễn ra giữa vai trò của người phụ nữ trong gia đình với những quan niệm, rào cản xã hội, định kiến giới…, giữa mong muốn và hiện thực, giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa phụ nữ và nam giới cũng như các thành viên khác trong gia đình v.v.. đang cản trở không nhỏ đến việc phát huy vai trò, năng lực của người phụ nữ, đến tiến trình xây dựng văn hóa gia đình, đánh giá một cách công bằng và phát huy hiệu quả nguồn nhân lực nữ phục vụ công cuộc đổi mới, phát triển Thủ đô nói riêng, đất nước nói chung. Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã dành nhiều quan tâm cho phụ nữ nước ta nói chung, phụ nữ Hà Nội nói riêng, bảo vệ những quyền lợi chính đáng của phụ nữ và phát huy vai trò của họ, trước hết là trong gia đình. Cũng có không ít bài viết, sách, công trình nghiên cứu… nói về phụ nữ và vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội với những khía cạnh nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, thực tiễn sự biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình trên địa bàn luôn luôn đa dạng và phức tạp, đòi hỏi có sự nghiên cứu, kiến giải thấu đáo, kịp thời và thỏa đáng hơn nữa để tiếp tục gìn giữ, phát huy, phát triển một cách chính đáng và tích cực các vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Nghiên cứu những biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay dưới góc nhìn văn hóa nhằm tìm hiểu những nguyên nhân, căn nguyên văn hóa sâu xa dẫn đến những đổi thay trong đời sống gia đình và xã hội, đồng thời góp phần tìm hiểu những biến đổi về gia đình và văn hóa gia đình với những sắc thái, giá trị điển hình, đặc sắc hội tụ nơi mảnh đất Thủ đô ngàn năm văn hiến đang là vấn đề thời sự đặt ra trong bối cảnh hội nhập với nhiều thời cơ và thách thức đan xen. Việc gìn giữ, phát huy bền vững giá trị nguồn nhân lực nữ trong gia đình, lấy đó là cơ sở, động lực cho sự phát triển xã hội, đất nước ta nói chung có trở nên hiệu quả hay không phụ thuộc một phần không nhỏ vào hoạt động nghiên cứu, tìm hiểu biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay trên thực tế. Với những lý do trên, tôi chọn “Biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay qua nghiên cứu một số xã, phường” làm đề tài nghiên cứu. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu 5 Luận án nghiên cứu những biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay; đồng thời, tìm hiểu những căn nguyên văn hóa, những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến sự biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Từ đó, luận án nhận diện một số xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng hợp, thu thập các tư liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu thông qua điều tra điền dã, phỏng vấn, các tài liệu sách, báo… nhằm nêu rõ thực trạng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay, trên cơ sở so sánh, đối chiếu với vai trò của người phụ nữ trong gia đình thời gian trước đây. - Tìm hiểu và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng làm biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay. - Trình bày những xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Thực hiện những nhiệm vụ trên, tức là tác giả luận án đã trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau: - Người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội có những vai trò gì và biểu hiện cụ thể của các vai trò đó? - Hiện nay vai trò đó biến đổi như thế nào? - Xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội thời gian tới? 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Những biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình, như biến đổi về vai trò làm vợ, làm mẹ, vai trò trong hoạt động kinh tế gia đình, vai trò trong các hoạt động đối nội, đối ngoại và các hoạt động khác của gia đình. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2.1. Không gian nghiên cứu Không gian nghiên cứu ở Hà Nội, cụ thể là các địa bàn: + Phường Hàng Bông (quận Hoàn Kiếm) - địa bàn đô thị Hà Nội gốc, với nhiều nét văn hóa đặc trưng của Hà Nội và người Hà Nội được duy trì, gìn giữ trải qua nhiều thế hệ. + Phường Mỹ Đình 1 (quận Nam Từ Liêm) - địa bàn từ nông thôn chuyển thành đô thị, đang trong quá trình đô thị hóa, hội nhập với những bước chuyển mình mạnh mẽ khi từ xã thành phường. 6 + Xã Đồng Trúc (huyện Thạch Thất) - xã thuần nông, chưa chịu ảnh hưởng quá nhiều bởi tiến trình đô thị hóa, hội nhập. 3.2.2. Thời gian nghiên cứu Thời gian nghiên cứu được tiến hành từ Đổi mới, tháng 12/1986 đến hiện nay. Trong quá trình nghiên cứu, để có cái nhìn khách quan và tổng thể, rõ ràng, sâu sắc hơn, cũng như có cơ sở so sánh, đối chiếu, đánh giá và chỉ rõ được những biến đổi đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình hiện nay ở Chương 3, luận án dành Chương 2 trình bày vai trò của người phụ nữ trong gia đình từ năm 1930 đến trước tháng 12/1986 (trước Đổi mới). Việc nghiên cứu vai trò của người phụ nữ trong gia đình từ năm 1930 đến trước tháng 12/1986 chủ yếu dựa vào các tài liệu thứ cấp, bên cạnh điều tra xã hội học và phỏng vấn hồi cố. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Luận án vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Cụ thể, luận án xem xét, nhìn nhận, đánh giá… đối tượng nghiên cứu trong sự vận động và trong mối liên hệ giữa sự việc, hiện tượng này với sự việc, hiện tượng khác nhằm làm rõ và lý giải những biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay so với trước đây. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điền dã dân tộc học: Là phương pháp chủ yếu nhất được sử dụng. NCS quan sát tham dự, phỏng vấn các đối tượng liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận án, điều tra hồi cố… Việc điền dã, thu thập tư liệu ở địa bàn đô thị và nông thôn có những thuận lợi và khó khăn riêng. Mang theo giấy giới thiệu, NCS liên hệ với lãnh đạo phường Hàng Bông, phường Mỹ Đình 1 và xã Đồng Trúc để xin thông tin, tài liệu và đề nghị tạo điều kiện tiếp xúc, gặp gỡ người dân. NCS cũng làm việc với chủ tịch Hội Phụ nữ các phường, xã nói trên để nắm bắt được tình hình vai trò và biến đổi vai trò của phụ nữ, cũng như các hoạt động của Hội Phụ nữ đối với chị em trên địa bàn… và nhờ các chị giới thiệu đến nhà dân. Sau những ngày đầu làm quen với các hộ gia đình và nắm bắt địa hình, NCS lên kế hoạch về lịch sinh hoạt, làm việc của cộng đồng dân cư, để từ đó xây dựng lịch trình điền dã hợp lý. Với người dân ở phường Hàng Bông, do nhiều người bận việc kinh doanh, buôn bán và đi làm nên NCS thường đến gặp vào buổi chiều hoặc tối. Với người dân ở phường Mỹ Đình 1, nhiều người cho thuê nhà trọ, kinh doanh hàng quán… tại nhà nên thời gian gặp có thể linh động hơn, tùy thuộc vào thời gian rỗi của người dân. Ở xã Đồng Trúc, do có nhiều người vẫn đi làm đồng nên NCS thường đến vào buổi tối, kết hợp với một số buổi ban ngày theo chân họ ra 7 đồng, ăn mặc như nông dân, vừa giúp họ làm việc, vừa trò chuyện với họ nhằm tạo sự chân tình, thân mật. Nhờ thế, NCS có thể hiểu rõ hơn thực trạng, cũng như nhận được chia sẻ, tâm sự thật lòng về vai trò và biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình với những quan điểm, biểu hiện, suy nghĩ… từ cả hai giới nam và nữ, ở các lứa tuổi và nghề nghiệp, trình độ khác nhau. Nếu như ở nông thôn (xã Đồng Trúc), đa phần người dân sống cởi mở, chan hòa, việc tìm hiểu thông tin cũng dễ dàng hơn, thì nhiều người ở đô thị dè dặt, đóng kín, thậm chí đề phòng, nghi ngại, khó gần và có phần lạnh lùng với người lạ, nên NCS phải vận dụng những kinh nghiệm cá nhân để xử lý linh hoạt các tình huống. Ở phường Hàng Bông và Mỹ Đình 1, dù có sự giới thiệu lãnh đạo phường hoặc của Chủ tịch Hội phụ nữ phường, NCS vẫn gặp sự “đề phòng” của một số người dân khi một số người cung cấp thông tin rất dè chừng. Thời gian đối với người dân đô thị là “vàng ngọc” nên NCS phải rất linh hoạt nhằm thu thập thông tin một cách hiệu quả nhất, như vừa vừa trò chuyện, vừa giúp họ làm việc (ví dụ, với vợ chồng chủ quán bán cơm gần bến xe Mỹ Đình, NCS vừa hỏi chuyện, vừa giúp họ vo gạo, nhặt rau, chuẩn bị bát đũa và các nguyên vật liệu khác để nấu nướng). Với đối tượng được phỏng vấn là người cao tuổi, NCS phải kết hợp sàng lọc, kiểm chứng thông tin thông qua những người thân trong gia đình; cụ nào nói khó nghe (đặc biệt là các cụ ở xã Đồng Trúc hay sử dụng phương ngữ), NCS nhờ người thân (con, cháu) của cụ ngồi cạnh và “phiên dịch” lại hộ. Với phương pháp phỏng vấn, NCS tiến hành phỏng vấn 90 người, gồm các cán bộ ở địa phương và người dân sinh sống trên các địa bàn nghiên cứu (mỗi địa bàn 30 người). Tùy theo đối tượng nghiên cứu, NCS sử dụng cách phỏng vấn phi cấu trúc và phỏng vấn bán cấu trúc để thấy được quan điểm, nhận thức và thực trạng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình hiện nay so với trước đây. Phỏng vấn phi cấu trúc được dùng nhiều nhất trong những ngày điền dã để trò chuyện, tìm hiểu thông tin, thu thập tư liệu từ người dân. Phỏng vấn bán cấu trúc được sử dụng khi làm việc với các cán bộ quản lý, cán bộ địa phương… là những người có ít thời gian hoặc quen sử dụng thời gian một cách hiệu quả. - Phương pháp điều tra xã hội học: NCS thiết kế bảng hỏi với các tiêu chí về biến đổi vai trò của người phụ nữ ở khía cạnh làm vợ, làm mẹ, vai trò trong hoạt động kinh tế gia đình và các hoạt động khác của gia đình. NCS phát 450 phiếu điều tra xã hội học (mỗi địa bàn nghiên cứu phát ra 150 phiếu, trong đó mỗi địa bàn phường Hàng Bông và phường Mỹ Đình 1 thu về được 150 phiếu, xã Đồng Trúc thu về được 113 phiếu) để đưa ra số liệu định lượng phục vụ kết quả nghiên cứu. - Phương pháp lịch sử và logic: Do nghiên cứu sự biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình, nên luận án sử dụng phương pháp lịch sử và logic nhằm tìm 8 hiểu vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở các giai đoạn, thời kỳ lịch sử trước đây và hiện nay; xâu chuỗi và đánh giá, nhận xét dưới cái nhìn logic nhằm tạo sự xác thực về cứ liệu lịch sử - văn hóa và thuyết phục về các nội dung được đề cập trong luận án. - Phương pháp thống kê: Các thông tin, số liệu thu thập được sẽ được thống kê theo nhóm (đối với các đối tượng trả lời phỏng vấn) hoặc theo số liệu nội dung (đối với các đối tượng tham gia trả lời phiếu điều tra xã hội học) nhằm đưa ra thông tin, cứ liệu khách quan phục vụ mục đích nghiên cứu của luận án. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: Được sử dụng đối với cả các tài liệu thứ cấp và các số liệu, chi tiết thu thập, quan sát được trong thực tế để phục vụ mục đích nghiên cứu của luận án. - Phương pháp so sánh: Dựa trên cơ sở các thông tin, dữ liệu thu thập được qua các tài liệu và từ thực tế nghiên cứu, luận án sử dụng phương pháp so sánh để nhận biết đặc điểm chung và nét riêng về biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở ba địa bàn nghiên cứu trải qua thời gian và những sự biến đổi văn hóa. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Trình bày các kết quả khảo sát và hệ thống, khái quát hóa những biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay ở ba địa bàn nghiên cứu cụ thể dưới góc nhìn văn hóa học. 5.2. Tìm hiểu, xác định nguyên nhân văn hóa dẫn đến sự biến đổi, những tương đồng hoặc khác biệt trong vai trò của người phụ nữ trong gia đình thuộc phạm vi các địa bàn nghiên cứu. 5.3. Phân tích các xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận 6.1.1. Góp phần nhận diện, tìm hiểu thực trạng vai trò của người phụ nữ trong gia đình trải qua sự phát triển, vận động của thời gian, lịch sử và văn hóa; nhận diện sự biến đổi vai trò này trong bối cảnh hội nhập ngày nay. 6.1.2. Làm rõ vai trò tác động qua lại giữa các thành tố trong một hệ thống với toàn bộ hệ thống và sự tương tác giữa các yếu tố trong một hệ thống. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn 6.2.1. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, các cấp có thẩm quyền trong việc phát huy và nâng cao vai trò của người 9 phụ nữ trong gia đình, xây dựng và phát triển văn hóa gia đình, văn hóa con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam bền vững. 6.2.2. Luận án góp phần thêm tiếng nói vào nhận thức của người dân về vai trò của người phụ nữ trong gia đình để từ đó có cách nhìn nhận, ứng xử và hành động đúng đắn với người phụ nữ không chỉ trong các hoạt động của gia đình. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án có bốn chương như sau: Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu và lý thuyết vận dụng Chương 2. Vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội thời gian trước năm 1986 Chương 3. Thực trạng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay Chương 4. Những nhân tố ảnh hưởng và xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội. 10 Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ LÝ THUYẾT VẬN DỤNG 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1. 1. Về các nghiên cứu biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình của các tác giả nước ngoài Nhiều công trình của các nhà khoa học nước ngoài khi nghiên cứu biến đổi vai trò của người phụ nữ nói chung, người phụ nữ trong gia đình nói riêng thường bắt đầu từ cái nhìn về phụ nữ, coi sự khác biệt về đặc điểm giới tính và quan niệm về giới dẫn đến những phân biệt trong đánh giá, nhìn nhận vai trò của người phụ nữ. Sherry B. Ortner trong bài Từ nữ đến nam như từ tự nhiên đến văn hóa cho rằng, phụ nữ được coi là gần với tự nhiên do “mọi thứ bắt đầu với thân thể và các chức năng sinh sản tự nhiên chỉ dành riêng cho phụ nữ… thân thể phụ nữ và những chức năng của thân thể ấy khiến họ mất nhiều thời gian quan tâm đến “đời sống loài” hơn, đặt họ gần tự nhiên hơn, đối lập với chức năng sinh lý nam, cái cho phép anh ta hoàn toàn tự do hơn để tham gia các dự phóng văn hóa. …Thân thể phụ nữ và những chức năng của thân thể ấy đặt họ trong các vai trò xã hội, mà trong tiến trình văn hóa, nó ngày càng bị đánh giá thấp hơn vai trò của đàn ông; và… các vai trò xã hội truyền thống của phụ nữ, bị áp đặt vì thân thể và các chức năng thân thể của họ, dần dần tạo cho phụ nữ một cấu trúc tâm lý khác… tương tự như cái sinh lý tự nhiên và các vai trò xã hội của họ, được coi là thực thể gần với tự nhiên” [100, tr. 495)]. Nhà nhân học Pháp Lévi-Strauss, trong The elementary structure of kinship (Cấu trúc cơ bản của quan hệ thân tộc, 1949), thể hiện quan điểm phụ nữ không bao giờ trở thành một ký hiệu theo đúng nghĩa, vì ngay cả trong thế giới của đàn ông, họ vẫn là một con người và vì khi được xác định như là một ký hiệu, họ phải được coi là nhân tố sản sinh các ký hiệu [141]. Simone de Beauvoir trong sách The Second Sex (Giới thứ hai, 1949) xuất phát từ quan điểm nam nữ bình quyền để bàn vấn đề phụ nữ bị kẹt trong tình trạng bị áp bức lâu dài qua sự loại bỏ mình nên dần trở thành giới ít quan trọng hơn (giới thứ hai) trong mối quan hệ với nam giới. Thông qua việc dùng kiến thức của khoa học sinh học, nhân loại học, thần thoại học, tác giả khẳng định không ngành nào đủ khả năng để giải thích định nghĩa phụ nữ là giới thứ hai đối với nam giới cũng như vị thế bị áp bức của họ, nhưng mỗi ngành này đều góp phần tạo nên vị thế đó của phụ nữ. Việc phụ nữ có những thiên chức mà nam giới không hề có, như mang thai, nuôi con… đã góp phần tạo vị thế, vai trò khác biệt rõ rệt của người phụ nữ so với nam giới, song những biểu hiện sinh lý này không trực tiếp làm cho phụ nữ có vị thế thấp kém hay vai trò kém quan trọng hơn bởi yếu tố sinh học và lịch sử không 11 đơn thuần là những sự thật thu được từ sự quan sát không thành kiến mà luôn được cấu thành và giải thích từ một hoàn cảnh. Từ đó, Beauvoir chủ ý phá bỏ quan niệm cho rằng phụ nữ sinh ra đã là phái yếu chứ không phải trở thành như vậy qua quá trình vận động của xã hội [144]. Các nghiên cứu đã chỉ ra, trải qua nhiều giai đoạn phát triển của lịch sử loài người, đặc biệt từ khi xã hội chuyển sang chế độ phụ quyền, thay đổi phương thức sản xuất, sinh hoạt, thì vị trí, vai trò của người phụ nữ cũng bị coi nhẹ. Friedrich Engels, trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước đã chỉ rõ, chủ nghĩa phụ quyền đã bộc lộ bản chất bóc lột và thống trị rất khắc nghiệt với phụ nữ, đánh dấu sự thất bại lịch sử có tính chất toàn cầu của giới nữ. Việc phụ nữ ngày càng mất đi vai trò quyền lực cũng như quyền tự do tính giao theo kiểu chế độ quần hôn là do sự thay đổi các hình thức hôn nhân trong các giai đoạn của lịch sử, mặc dù đây là một bước tiến bộ của nhân loại. Engels đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố kinh tế của một chế độ xã hội cụ thể với vấn đề hôn nhân và gia đình. Sự ra đời của chế độ tư hữu dẫn đến sự áp bức nô dịch của giai cấp có của đối với giai cấp không có của, sự nô dịch ấy trùng với sự nô dịch của đàn ông đối với đàn bà trong gia đình, nên người phụ nữ mặc dù đóng nhiều vai trò trong gia đình vẫn phụ thuộc vào người chồng, người cha về mọi mặt. Trong bài Feuerbach: Sự đối lập giữa quan điểm duy vật với quan điểm duy tâm, hai tác giả Karl Marx và Friedrich Engels chỉ ra trong lịch sử người phụ nữ đã từng bị coi là nô lệ của chồng, tức là không có quyền tự do và quyền tự quyết, phải phụ thuộc vào người đàn ông do có sự phân công lao động tự nhiên trong gia đình và sự phân chia xã hội thành những gia đình cá nhân đối lập với nhau [100, tr. 583]. Trong bài viết Sự buông thả trong nghi lễ (Trích trong Custom and Conflict in Africa, 1956), Max Gluckman khi nói về các hành vi nổi loạn trong một nghi lễ có sự tham dự của cả đàn ông và phụ nữ ở châu Phi đã chỉ rõ quan niệm của cộng đồng về người phụ nữ khi được cưới về chuyển vai trò thành người “người xa lạ”, và là những “kẻ ngoại tộc” nguy hiểm [100, tr. 277, 278]. Chung quan điểm này, Collier trong cuốn Women in Polities (Phụ nữ trong chính trị, 1974) đã chứng minh trong nhiều xã hội, phụ nữ bị cuốn vào các quá trình chính trị ở cấp gia đình chứ không phải ở cấp công cộng. Họ là trọng tâm của các quá trình chính trị như việc hình thành hay tan rã của các nhóm dòng họ. Trước đây, đa phần các công trình nghiên cứu về phụ nữ và vai trò của người phụ nữ trong gia đình thường đặt phụ nữ trong mối quan hệ gia đình, dòng họ… dưới cái nhìn tổng quan mà chưa nhìn nhận hoặc ít thấy có công trình coi phụ nữ như đối tượng nghiên cứu chính và độc lập. Phải đến đầu những năm 70 của thế kỷ XX, trong lĩnh vực nhân loại học, các nhà nghiên cứu mới bắt đầu hướng trọng tâm 12 nghiên cứu cụ thể vào vai trò của phụ nữ trong các xã hội trên toàn thế giới, thay vì quan điểm cho rằng đàn ông mới là trung tâm nghiên cứu. Bộ sách Women, Culture, and Society (Phụ nữ, văn hóa và xã hội) của Michelle Ronaldo viết năm 1974 có bài viết khẳng định vai trò và sự biến đổi vai trò của phụ nữ trong sự tiến hóa của con người đã không được biết đến, bởi các nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào hoạt động săn bắt chứ không phải hoạt động hái lượm. Nhìn chung, các công trình đã thể hiện quan điểm, cách nhìn nhận về phụ nữ và biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình dưới những góc nhìn khá đa dạng. Có thể thấy các tác giả có sự đồng thuận hoặc gặp gỡ nhau ở các điểm sau: Thứ nhất, các nghiên cứu thường được đặt trong tương quan với nam giới để so sánh, luận giải các vấn đề về biến đổi vai trò của phụ nữ, gắn với đó là các vấn đề xã hội (Max Gluckman, Collier, Michelle Ronaldo, Lévi-Strauss, Simone De Beauvoir…). Thứ hai, chỉ ra có sự phân biệt trong quan niệm về vai trò của phụ nữ và nam giới. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, phụ nữ thường bị nhìn nhận vai trò thấp hơn so với nam giới. Một trong những nguyên nhân căn bản là do đặc trưng về giới tính dẫn đến sự phân biệt về quan niệm, vai trò, chức năng và cách nhìn nhận vai trò, chức năng giữa phụ nữ và nam giới (Sherry B. Ortner, Simone de Beauvoir). Thứ ba, từ phân biệt, dẫn tới có sự bất bình đẳng trong các lĩnh vực xã hội đối với phụ nữ, do đó tất yếu ảnh hưởng đến biến đổi vai trò và việc thực hiện vai trò của họ (Geogre Peter Murdock, Max Gluckman, Collier). Thứ tư, hầu hết các công trình đều hướng đến mục tiêu giải quyết các vấn đề liên quan đến biến đổi vai trò của phụ nữ trong mối liên hệ rộng, tương tác với xã hội, chứ không thể chỉ bằng cách phân chia “một số nhiệm vụ và vai trò trong hệ thống xã hội, hoặc thậm chí sắp xếp lại toàn bộ cơ cấu kinh tế” (Sherry B. Ortner), mà “cần phải giải phóng mình và phục hồi cái tôi của mình”, “các cấu trúc xã hội như luật pháp, giáo dục, phong tục… cần phải được điều chỉnh” (Simone de Beauvoir), tức là cần có những thay đổi trong hệ thống xã hội, với sự phối hợp, tham gia của nhiều lĩnh vực, nhiều ngành, đối tượng khác nhau… 1.1.2. Nghiên cứu biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình của các tác giả trong nước Ở nước ta, số công trình đề cập hoặc liên quan đến biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình với tư cách độc lập hoặc là đối tượng nghiên cứu chính trước năm 1950 có thể kể đến Phụ nữ dự gia đình (quyển trung) của soạn giả Đạm Phương nữ sử (1929), Vấn đề phụ nữ giải phóng của Dật Sĩ Tử (1932), Phụ nữ với gia đình của Dũng - Kim (1951)… và một số bài viết trên báo Nam Phong, Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm. Nghiên cứu về biến đổi vai trò của người phụ nữ trong 13 gia đình ở nước ta chỉ phát triển khoảng vài chục năm trở lại đây, với sự ra đời của Trung tâm Nghiên cứu khoa học về phụ nữ năm 1987 (thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, nay là Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam), thường triển khai theo hai hướng chính: Thứ nhất, đặt biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở phạm vi gia đình. Trong mảng tài liệu này, trước hết là các công trình bàn về mối quan hệ gia đình trong ca dao, tục ngữ, ở sách Tục ngữ, ca dao và dân ca Việt Nam, nhà văn Vũ Ngọc Phan có bài tiểu luận phân tích mối quan hệ vợ chồng, gia đình, và tuyển chọn những tác phẩm tục ngữ, ca dao với chủ đề này, từ đó góp phần thể hiện biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Ở các tập giáo trình đại học về văn học dân gian của Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên, của Bùi Văn Nguyên và các đồng tác giả, của Lê Chí Quế và các đồng tác giả, những nội dung trên cũng được thể hiện, phân tích trong ca dao, tục ngữ. Nội dung này còn được thấy trong bài tiểu luận mở đầu tập 15 của bộ tổng tập Văn học dân gian người Việt do GS. Nguyễn Xuân Kính chấp bút. Nhìn chung, các tài liệu trên đều chỉ viết về quan hệ gia đình truyền thống thể hiện trong ca dao, tục ngữ, qua đó phần nào thấy được biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình, và đó chỉ là một phần nội dung của các công trình, giáo trình, bài tiểu luận. Một số cuốn sách tập trung viết về quan hệ gia đình trong ca dao, tục ngữ, qua đó có thể thấy sự biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình gồm: Sự phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong tục ngữ ca dao của Đỗ Thị Bảy, Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình của Phạm Việt Long. Ở đó, có thể thấy người phụ nữ khi đã lập gia đình thì “Thuyền theo lái, gái theo chồng” [69, tr. 196]; ở cùng gia đình chồng, “bố chồng là lông con phượng, mẹ chồng là tượng mới tô, nàng dâu là bồ nghe chửi” [69, tr.89]. Đồng thời, “làm thân con gái thờ chồng nuôi con” [69, tr.191], “có con phải khổ vì con, có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng” [69, 188]. Nếu chồng vắng nhà, người phụ nữ phải thay chồng gánh vác việc nhà: “Anh ơi! Phải lính thì đi/Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi/... Anh ơi, giữ lấy việc công/Để em cày cấy mặc lòng em đây [69, tr. 169]… Mặc dù vậy, vai trò quan trọng của người phụ nữ trong mối quan hệ vợ - chồng vẫn được khẳng định: “lệnh ông không bằng cồng bà” [69, tr. 193]. Các nghiên cứu chỉ rõ, dù người phụ nữ phải chịu ảnh hưởng từ tư tưởng Nho giáo, nhưng khác với gia đình Nho giáo Trung Hoa, trong gia đình người Việt, người vợ trong tương quan với chồng vẫn có vai trò nhất định, thậm chí quyết định dù trải qua sự biến đổi, thăng trầm của thời gian. Theo Vũ Ngọc Khánh, dù ở thế hệ nào, người phụ nữ cũng có quyền không thể xem là bình đẳng với nam giới, mà phải đặt lên trên cả nam quyền, đó là quyền làm mẹ, cũng là quyền làm vợ. Thông qua nghiên cứu một số trường hợp phụ nữ cụ thể (bà nội của Đặng Thai Mai, cụ bà Vũ Như Kỳ, cụ án bà Nguyễn Chí Đạo…), tác giả Nguyễn Xuân Kính nhận định 14 phụ nữ Việt Nam xưa rất đảm đang, tháo vát trước những biến động của thời cuộc, thực sự là “nội tướng” trong nhà. Như trường hợp bà nội của Đặng Thai Mai: “đảm đương mọi việc trong nhà, lo đối nội đối ngoại, giỗ tết, ứng phó với chức dịch, nha lại,… Cụ không chỉ lo toan việc nhà mà còn hiểu nghĩa lớn… khi cho các cháu đi học chữ Pháp” [63, tr. 362]. Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý cho rằng do ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, phụ nữ trong gia đình không bao giờ thuộc hạng sử (tức thuộc đối tượng những người chủ trong gia đình có quyền uy tuyệt đối trong cả đối nội và đối ngoại) mà chỉ thuộc hàng sự (bậc thứ dưới) do bị trói buộc bởi các nguyên tắc tam tòng, tứ đức. Nhiều nghiên cứu chỉ rõ, phụ nữ ngoài việc phải làm tròn chức năng mang thai, sinh đẻ, cho con bú còn phải đảm đương việc sản xuất như hoặc hơn nam giới. Thời gian lao động trong một ngày của phụ nữ thường dài hơn đàn ông từ 3 đến 6 giờ, nhiều người phải chịu cảnh chồng “dốt nát, gia trưởng, lười nhác, nhậu nhẹt tối ngày và đánh đập, hạch sách vợ con” [57, tr. 347]... Từ đó, dẫn tới biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình cả ở mặt tích cực và tiêu cực, dẫn tới bất bình đẳng trong mối quan hệ nam - nữ, trong sự tham gia và hưởng lợi của phụ nữ ở gia đình, trong các cơ hội để phụ nữ phấn đấu, vươn lên khẳng định giá trị, năng lực bản thân. Các nghiên cứu cũng nêu rõ, “chế độ gia trưởng (patriarchy) trong gia đình phụ hệ phát triển thành sự thống trị của nam giới đối với nữ giới… Người phụ nữ khi đã lấy chồng chỉ có một con đường “thờ chồng nuôi con” và thực hiện các nghĩa vụ với gia đình nhà chồng” [122, tr.49]. Đỗ Hoàng nhấn mạnh về định kiến đã và đang tồn tại trong hệ thống gia đình là “Nam giới trụ cột kinh tế gia đình Phụ nữ có thiên chức làm công việc nội trợ. Nam giới bản chất là phái mạnh nên thích hợp với những công việc lớn, là người chủ gia đình, người ra quyết định Phụ nữ ở vị trí phụ thuộc, vị trí thứ yếu” [47, tr. 11]. Trong khi xã hội đang hướng vào các hoạt động vì sự bình đẳng nam nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thì định kiến như trên lại là suy nghĩ của không ít phụ nữ, được họ dùng để đánh giá hành vi của nam giới và hành vi của bản thân, mà các nhà nữ quyền gọi là “tiếp thu sự áp bức”, nên ảnh hưởng ít nhiều đến sự biến đổi và xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều góp phần thể hiện hoặc nhấn mạnh trên thực tế, ở nước ta vẫn tồn tại “văn hóa mẹ” (Trần Quốc Vượng). Người vợ trong gia đình Việt được kính trọng và đề cao hơn, có tinh thần chủ động hơn so với người vợ trong gia đình người Trung Hoa Nho giáo, nguyên tắc “phu xướng, phụ tùy” bao giờ cũng được đặt bên cạnh một nguyên tắc quan trọng khác là “thuận vợ thuận chồng biển Đông tát cạn”. Những nghiên cứu gần đây thường đặt phụ nữ trong bối cảnh gia đình trong thời đại toàn cầu hóa, hướng tới phát triển bền vững, nêu bật vai trò của người phụ nữ với tư cách người lao động, tái sản xuất trực tiếp ra con người, giáo dục con cái, 15 hình thành nhân cách trẻ, gìn giữ, truyền thụ các giá trị văn hóa của dân tộc cho thế hệ trẻ, và giữ gìn sự cân bằng về tâm lý, tình cảm của các thành viên gia đình. Lê Thi thể hiện quan điểm cần thực hiện bình đẳng giới mới có thể giúp người phụ nữ đảm nhiệm tốt các trách nhiệm, vai trò của mình và đóng góp tích cực vào gìn giữ văn hóa gia đình, văn hóa dân tộc và phát triển xã hội [111, tr.117]. Thứ hai, đặt biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình gắn với bối cảnh làng xã, cộng đồng và các mối quan hệ xã hội. Nhìn chung, do là các nghiên cứu định tính nên có thể nhận định, nội dung nghiên cứu thường chỉ chính xác với những trường hợp nghiên cứu mà các tác giả nêu ra. Điển hình, nghiên cứu của Bùi Xuân Đính chỉ ra, bối cảnh hệ thống thang bậc xã hội của làng xã được dựa trên nền tảng tư tưởng là ý thức hệ Nho giáo đã gạt toàn bộ nữ giới ra khỏi chốn đình trung và các hoạt động xã hội của làng, để họ bị giam hãm trong “chế độ nô lệ gia đình” [37, tr. 137]. Tuy nhiên, theo Trần Quốc Vượng, Thành Duy, phụ nữ có vai trò lớn trong sinh hoạt kinh tế, trong đời sống xã hội, thể hiện qua nuôi dạy con cái, sản xuất, kinh doanh, quản lý kinh tế, tài sản gia đình; đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến xâm lược, góp phần bảo tồn, phát huy tinh hoa văn hóa nước nhà. Trần Quốc Vượng chỉ ra những biến đổi linh hoạt trong vai trò của người phụ nữ: “Ở Việt Nam, cứu nước không chỉ là nhiệm vụ của đàn ông mà đàn bà cũng lo cứu nước” [128, tr. 118]. Lê Minh đã khái quát những bước chuyển trong vai trò của phụ nữ trải qua các thời kỳ lịch sử, từ thời cổ xưa khi đàn ông là chủ nô thì phụ nữ là “vật trao đổi” và “công cụ sinh đẻ”; ở thời phong kiến, đàn ông là gia trưởng, thì phụ nữ là “vật mua bán” để làm phận “máy đẻ” và phục vụ chồng con, gia đình nhà chồng. Trong chiến tranh, người phụ nữ tham gia tích cực chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Song, khi hòa bình lập lại, những người đàn ông từ chiến trường trở về, phụ nữ Việt Nam mất dần vai trò ở xã hội và gia đình mà họ đã tạo dựng được trong kháng chiến. Vai trò tham gia các hoạt động xã hội, quyền quyết định những việc lớn trong lao động sản xuất, kinh tế, ứng xử với họ hàng, làng mạc và trong nội bộ gia đình, hướng nghiệp cho các con… đều chủ yếu do người đàn ông nắm giữ [79, tr. 155 - 156]. Tuy nhiên, trong xã hội ngày nay, phụ nữ đang dần vươn lên làm chủ cuộc đời mình bằng nghề nghiệp, bằng kiến thức của bản thân, đi đầu trong cuộc cách mạng giải phóng sức lao động, giải phóng tài năng và giải phóng người phụ nữ [79, tr 26]. Nghiên cứu của Lê Minh khẳng định phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ, “người thầy đầu tiên” của con người [80, tr. 56 - 57]. Trần Thị Vân Anh, Lê Ngọc Hùng đặt vai trò của người phụ nữ trong gia đình trong tương quan với vấn đề giới và phát triển, coi phụ nữ có vai trò hết sức to lớn, quan trọng, cần thiết trong quá trình xây dựng gia đình và đất nước, đóng vai trò 16 chủ thể trong quá trình hoạch định, thực hiện và đánh giá các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Theo Lê Ngọc Văn, ảnh hưởng của công nghiệp hóa tạo sự thay đổi các mối quan hệ gia đình, trong đó quan hệ vợ - chồng mở rộng ra là quan hệ giữa hai giới, là mối quan hệ theo chiều ngang, hôn nhân chuyển dần từ một thể chế kinh tế là chính sang một thể chế tâm lý là chính, và gia đình chuyển từ chủ yếu là một đơn vị sản xuất sang chủ yếu là một đơn vị tiêu dùng. Vai trò của người phụ nữ vì thế cũng có thay đổi nhất định trong yêu đương, hôn nhân, lựa chọn các mô hình gia đình để sống và trong các mối quan hệ xã hội (đặc biệt là quan hệ đôi lứa). Một số nghiên cứu nêu thực tế hiện nay có một bộ phận không nhỏ phụ nữ vừa phải đảm đương việc nhà, vừa làm cán bộ lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu khoa học…; chỉ ra những ưu điểm của phụ nữ trong vai trò làm lãnh đạo so với nam giới, như: khả năng kiểm tra, giám sát, xử lý một số tình huống, khả năng tham mưu, chấp hành tốt hơn (nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Hoa trong cuốn Gia đình Việt Nam - quan hệ quyền lực và xu hướng biến đổi), cùng với đó là những thay đổi thuận lợi hơn đối với phụ nữ trong việc tham gia lãnh đạo, quản lý như sự thay đổi định kiến của xã hội về phụ nữ, thay đổi từ chính người phụ nữ (Đặng Cảnh Khanh, Lê Thị Quý trong cuốn Gia đình học). Tuy nhiên, theo Nguyễn Thị Thuận và Trần Xuân Kỳ, phụ nữ vẫn phải chịu nhiều khó khăn, thiệt thòi, bị phân biệt đối xử, không đủ sức khỏe, trí tuệ để phấn đấu và chịu nhiều thiệt thòi về phân công lao động trong xã hội do phải tốn phí thời gian, công sức cho gia đình, ít có cơ hội được tập trung học hành… Những năm gần đây, trước thực trạng một bộ phận không nhỏ phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, một số nghiên cứu đã thể hiện và làm rõ vai trò của họ trong gia đình qua quá trình hòa nhập xã hội, sinh sống với gia đình chồng ở ngoại quốc. Thông qua nghiên cứu trường hợp những người phụ nữ Việt Nam lấy chồng người Trung Quốc ở Vạn Vĩ (Đông Hưng, Quảng Tây, Trung Quốc), Nguyễn Thị Phương Châm khẳng định dù có nhiều khó khăn về khác biệt văn hóa, lối sống,…, nhưng những người phụ nữ đã năng động, chủ động và thông minh trong quá trình thích nghi với cuộc sống mới để có cuộc sống yên ổn nơi đất mới [16, tr. 376]. Nghiên cứu của Phạm Văn Bích (viết cùng Iwai Misaki) cho thấy sự nỗ lực vươn lên của một bộ phận cô dâu Việt lấy chồng Đài Loan để đảm đương vai trò làm vợ, làm mẹ cũng như trong các hoạt động đối nhân xử thế để tồn tại, hòa nhập được với văn hóa nước sở tại, mặc dù lấy chồng Đài Loan “cũng giống như chơi xổ số” [81, tr.467]. Qua tổng quan những nghiên cứu về biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình của các tác giả nước ngoài và trong nước, có thể rút ra một số nhận xét sau: 17 - Biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình là tất yếu, mang những sắc thái đa dạng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về mảng này chưa nhiều; góc tiếp cận chủ yếu là Xã hội học, Nhân học, Tâm lý học, các công trình dưới góc độ Văn hóa học còn ít, chưa chuyên sâu. - Vẫn còn thiếu những công trình nghiên cứu mang tính tổng thể về biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội thông qua nghiên cứu các địa bàn có tính đại diện, từ đó làm rõ biến đổi vai trò với các khía cạnh khác nhau ở những đối tượng thuộc nghề nghiệp, trình độ học vấn, vị thế xã hội … khác nhau. - Nội dung chủ yếu của các công trình đề cập tới những biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình gắn với bối cảnh gia đình, hoặc bối cảnh làng xã, cộng đồng và các mối quan hệ xã hội, nhưng hầu hết đều từ góc độ nhà khoa học, nhà nghiên cứu mà chưa chú ý đến việc đặt mình vào vai trò là người phụ nữ với tiếng nói của người trong cuộc là bản thân người phụ nữ để tìm hiểu, xác định các biểu hiện biến đổi một cách trung thực, rõ ràng hơn. Nói cách khác, là chưa thực sự để người phụ nữ được tự nói lên tiếng nói của mình về những biến đổi vai trò của họ trong gia đình. Đây là một khoảng trống mà luận án mong muốn sẽ khắc phục được nhằm đưa ra được những phân tích, đánh giá khách quan hơn nữa về biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình. - Nhiều nội dung tập trung mô tả những khía cạnh xã hội và văn hóa truyền thống hoặc hiện đại trong biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình, mà chưa đi sâu phân tích về mối quan hệ giữa truyền thống và biến đổi, bảo tồn và phát huy; cũng như chưa chỉ ra đầy đủ, sâu sắc những yếu tố tác động đến sự biến đổi này. Điều này rất quan trọng bởi nó là cơ sở để kết nối các giá trị về vai trò của người phụ nữ trong gia đình từ quá khứ đến hiện tại, cũng như tạo điều kiện cho sự kết nối giá trị trong tương lai, cũng chính là nhằm khẳng định vai trò quan trọng của người phụ nữ trong gia đình, nhận biết những biến đổi là tích cực hay tiêu cực để kịp thời điều chỉnh. - Ít thấy có công trình nghiên cứu chuyên sâu dưới các góc độ vừa đa dạng, vừa tổng thể về biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở các khía cạnh: làm vợ, làm mẹ, tham gia vào hoạt động kinh tế gia đình và các hoạt động khác của gia đình đặt trong bối cảnh xã hội hội nhập ngày nay ở Hà Nội với những đặc trưng riêng dưới cái nhìn Văn hóa học. - Cũng chưa có công trình đề cập sâu về xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình trong thời gian tới. Đây là một khoảng trống trong nghiên cứu, khiến việc nghiên cứu biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình hầu hết mới chỉ dừng ở thì quá khứ hoặc/và hiện tại, mà chưa chỉ ra hay dự báo được 18 những biến đổi sắp tới trong tương lai - một yêu cầu rất cần thiết trong nghiên cứu khoa học nhằm bảo đảm tính giá trị lâu dài của công trình khoa học. Những khoảng trống trong các nghiên cứu trên đây sẽ được khắc phục trong luận án này. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu đi trước, luận án cho rằng, sự khác biệt về đặc điểm về giới tính và quan niệm về giới dẫn đến những phân biệt trong đánh giá, nhìn nhận vai trò của người phụ nữ. Đồng thời, đặt việc tìm hiểu biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay chủ yếu trong bối cảnh gia đình, song cũng gắn với bối cảnh xã hội rộng hơn nhằm có cái nhìn đa dạng, khách quan hơn. Để khắc phục những gì các nghiên cứu đi trước chưa thể hiện rõ, luận án tập trung nghiên cứu biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở Hà Nội hiện nay dưới góc nhìn Văn hóa học, trên cơ sở tinh thần để “người trong cuộc” (tức người phụ nữ) được tự nói, tự thể hiện những biến đổi vai trò của mình trong đời sống gia đình, bên cạnh tiếng nói của các thành viên khác trong gia đình. Nội dung luận án cũng sẽ tập trung thể hiện sự đa dạng trong biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình ở các đối tượng phụ nữ thuộc nghề nghiệp, trình độ học vấn, vị thế xã hội… khác nhau, thuộc các gia đình khác nhau, các thế hệ (lứa tuổi) khác nhau để nhận thấy những sự tương đồng hay khác biệt, những biểu hiện tích cực hay tiêu cực… trong biến đổi vai trò của họ trong gia đình ở cái nhìn đa chiều trải qua thời gian văn hóa và không gian văn hóa nhất định. Thông qua những biểu hiện biến đổi đó, luận án kiến giải những căn nguyên văn hóa, nhân tố tác động đến sự biến đổi này, đồng thời chỉ ra các xu hướng biến đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình thời gian tới. 1.2. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và văn hóa gia đình ở Hà Nội 1.2.1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu Phường Hàng Bông là phường thuộc đô thị Hà Nội gốc, mang nhiều nét đặc trưng của văn hóa đô thị Hà Nội truyền thống. Diện tích của phường là 0,18km2, gồm 10 tuyến phố và 3 ngõ, là một trong những phường nằm trong khu vực phố cổ của quận Hoàn Kiếm - trung tâm của Thủ đô Hà Nội. Phường có hơn 1.800 hộ dân với gần 9.000 nhân khẩu phân bố trên 42 tổ dân phố, với vị trí địa lý phía Bắc giáp phường Điện Biên và phường Cửa Đông, phía Đông tiếp giáp với phường Hàng Gai và phường Hàng Trống, phía Tây giáp với phường Cửa Nam và phường Điện Biên, phía Nam tiếp giáp với phường Cửa Nam và phường Hàng Trống. Trên địa bàn phường có trên 600 hộ kinh doanh, trong đó có nhiều hộ kinh doanh, buôn bán các mặt hàng thủ công truyền thống như chế tác vàng bạc, đá quý…, kinh doanh ẩm thực, may da vải bạt; 35 cơ sở sản xuất; 2 trường tiểu học, 1 trường mầm non công lập, 1 chợ tạm bán hoa quả ở Ngõ Trạm, 4 bệnh viện (bệnh 19 viện C, K, Việt Đức, Răng - Hàm - Mặt); nhiều cơ quan, tổ chức (Đài Tiếng nói Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc,…). Các phố thuộc phường Hàng Bông có chiều dài đoạn đường dao động trong khoảng 150 - 800m, chiều rộng đường dao động trong khoảng 5,5 - 9m, chiều rộng vỉa hè tương đối từ 1,5 - 4,5m, thuận tiện hoạt động thương mại. Điển hình là phố Hàng Bông với chiều dài 932m, chủ yếu tập trung các hộ kinh doanh, buôn bán, các văn phòng, cơ quan nhà nước và tư nhân. Phố Phùng Hưng dài 230m, tập trung chủ yếu các hộ sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh ăn uống. Phố Hà Trung dài 132m, có các hộ chủ yếu buôn bán, sửa chữa các loại bạt, hàng da, khóa, khuy… Đường Điện Biên Phủ dài 110m tập trung các cửa hàng điện thoại di động, cửa hàng may mặc… Phố Tống Duy Tân dài 175m là tuyến phố ẩm thực của Hà Nội, có nhiều cửa hàng ăn uống, giải khát. Phố Quán Sứ có chiều dài 385m, có chùa Quán Sứ, bênh viện Răng - Hàm - Mặt và có nhiều hộ kinh doanh. Phố Tràng Thi dài 790m, có bệnh viện C và nhiều hộ kinh doanh. Phố Phủ Doãn có bệnh viện Việt Đức tập trung nhiều cửa hàng ăn và một số cửa hàng sửa chữa xe máy. Phố Hai Bà Trưng dài 315m, có Bệnh viện C và tập trung nhiều hiệu thuốc, cửa hàng kinh doanh đồ điện tử như ti vi, tủ lạnh… Do phường Hàng Bông là địa bàn đô thị Hà Nội gốc, nên thành phần dân cư ở hiện nay không có nông dân. Trong quá khứ, từng có những người có gốc gác làm nông nghiệp, nhưng trải qua nhiều thế hệ, nhiều năm sinh sống trên địa bàn, họ đã hòa nhập với lối sống, thói quen văn hóa và những phương thức sinh kế đặc trưng của phường, như kinh doanh, buôn bán, làm việc cho các cơ quan, công sở… Trải qua nhiều biến đổi của đời sống văn hóa - xã hội từ năm 1930 đến nay, những sắc thái văn hóa đô thị Hà Nội gốc gắn với những biểu hiện, biến đổi sinh động về vai trò của người phụ nữ trong gia đình vẫn được thể hiện, duy trì và tiếp nối qua các thế hệ gia đình ở phường Hàng Bông. Hiện nay, sinh kế của người dân tập trung chủ yếu vào hoạt động thương mại, như kinh doanh, buôn bán, làm du lịch, cho thuê nhà... Các hoạt động này không chỉ thu hút sự tham gia của những người thuộc lứa tuổi trẻ hoặc trung niên, mà cả người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ do tập quán làm ăn, buôn bán từ các thế hệ trước truyền lại. Theo kết quả thu được trên cơ sở 150 phiếu điều tra xã hội học phát ra trên địa bàn, tỉ lệ người dân làm kinh doanh, buôn bán tương đối cao với 40,0% (trong đó nữ chiếm quá nửa), số người là cán bộ, công chức chiếm 16,0%, còn lại làm các nghề khác hoặc làm nội trợ, hoặc đang đi học. Với tốc độ đô thị hóa thời hội nhập, bộ mặt phường Hàng Bông đang dần thay đổi với nhiều hoạt động phát triển thương mại, kinh tế, văn hóa… kéo theo đó tất yếu là những biến đổi về vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Phường Mỹ Đình 1 thuộc quận Nam Từ Liêm, nằm ở phía tây Thủ đô Hà Nội, cách trung tâm thành phố 10 km. Phường được thành lập theo Nghị quyết số 132/NQ-CP do Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 27/12/2013 về việc điều chỉnh 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan