Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp l...

Tài liệu Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật việt nam từ thực tiễn huyện yên mô, tỉnh ninh bình

.PDF
85
125
119

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ PHƯƠNG BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Phương MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ..................................................................................................................... 7 1.1. Khái niệm về đất nông nghiệp, thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ................................................................. 7 1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ............................................................................................ 16 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ............................................................... 21 1.4. Lược sử hình thành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ..................................................................... 25 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH................. 30 2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ...................................................................................... 30 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ............. 42 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT, NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH ................. 66 3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ............. 66 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình ........................................................... 67 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 77 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BT : Bồi thường HT : Hỗ trợ GPMB : Giải phóng mặt bằng THĐ : Thu hồi đất QSDĐ : Quyền sử dụng đất TĐC : Tái định cư UBND : Ủy ban nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Bảng tổng hợp các dự án và diện tích đất thu hồi trên địa bàn huyện Yên Mô giai đoạn 2015 - 2018 .........................................................................45 Bảng 2.2. Bảng tổng hợp diện tích đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng bị thu hồi trong dự án xây dựng tuyến đường kết nối giữa cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình với quốc lộ 1 đoạn qua địa bàn xã Mai Sơn, xã Khánh Thượng huyện Yên Mô ....................................................................................50 Bảng 2.3. Đơn giá các loại đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Yên Mô năm 2015-2019 .........................................................................................................51 Bảng 2.4. Tổng hợp kinh phí bồi thường về đất và tài sản trên đất nông nghiệp thu hồi thực hiện Dự án ....................................................................................52 Bảng 2.5. Tổng hợp kinh phí hỗ trợ ổn định đời sống và chuyển đổi nghề nghiệp khi thu hồi đất nông nghiệp thực hiện Dự án .......................................54 Bảng 2.6. Tổng hợp kinh phí bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp thực hiện Dự án ................................................................................................................57 Bảng 2.7. Tổng hợp kinh phí hỗ trợ ổn định đời sống và chuyển đổi nghề nghiệp khi thu hồi đất nông nghiệp thực hiện Dự án .......................................58 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và phát triển mạnh mẽ về tất cả các mặt của cuộc sống xã hội. Thực tiễn xây dựng đất nước cho thấy, từ khi đổi mới đến nay, do có đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta với những bước đi thích hợp, từ đó đã tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Những thành tựu đạt được là rất to lớn, tạo cho Việt Nam thế và lực mới trong thế thế kỷ mới. Cùng với công cuộc đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước rất nhiều dự án đầu tư xây dựng đã được triển khai thực hiện. Nhịp độ phát triển càng lớn thì nhu cầu về thu hồi đất càng cao và trở thành thách thức lớn đối với phát triển kinh tế cũng như các vấn đề chính trị, xã hội của quốc gia. Thu hồi đất, một mặt đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước, đồng thời đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mang tính thời sự “nóng bỏng” như an ninh lương thực, đảm bảo an ninh trật tự, an sinh xã hội, sự đồng thuận trong nhân dân… Thực tiễn công tác thu hồi đất, đặc biệt là thu hồi đất nông nghiệp vì mục đích an ninh, quốc phòng hoặc mục đích kinh tế - xã hội trong thời gian còn nhiều vấn đề gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng lớn đến an ninh trật tự. Có cả những tình huống, một số phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng vấn đề khiếu kiện đất đai để kích động chống đối với mục đích chính trị. Do vậy, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trở thành một vấn đề quan trọng và nhạy cảm khi nó tác động tới mọi mặt của xã hội, đặc biệt là đến sản xuất và đời sống của người dân bị thu hồi đất. Hiện nay khi tình trạng “đất chật người đông” thì quyền lợi của người sử dụng đất khi Nhà nước giao đất và thu hồi đất trở nên vô cùng nóng bỏng và cấp bách, tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến bất ổn trong xã hội. Thời gian qua, tuy Nhà nước đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói chung, đất nông nghiệp nói riêng nhưng việc bồi thường đảm bảo cân bằng lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất, 1 nhà đầu tư vẫn thực sự khó khăn, gây tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Luật Đất đai mới được Quốc hội thông qua, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2014 đã có những đổi mới đáng kể trong công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Tuy vậy, thực tế thi hành các quy định pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Theo đánh giá của Thanh tra Chính phủ thì 70% các vụ khiếu kiện trên cả nước đều liên quan đến lĩnh vực đất đai. Thực trạng này xảy ra không chỉ ở một địa phương mà trên cả nước, phần lớn khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án phát triển kinh tế đều có sự khiếu kiện của người dân. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một đòi hỏi cần thiết, thông qua đó khắc phục những hạn chế và tìm ra giải pháp góp phần giải quyết những vướng mắc, khó khăn trong quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Với những lý do đó, tôi chọn đề tài “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong tình hình hiện nay, đây là đề tài không mới với nhiều người nhưng ẩn chứa trong đó tính thời sự nóng bỏng, sự phức tạp và nhạy cảm. Do vậy, có nhiều nhà quản lý, nhà khoa học đề cập vấn đề này ở những khía cạnh khác nhau. Có thể kể đến một số công trình: Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp qua thực tiễn tại Dự án khu đô thị Dương Nội, Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội" của Nguyễn Thanh Thư, Học viện Khoa học xã hội (năm 2015). Trong Luận văn đã đề cập và làm rõ hơn cơ sở lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và sự tác động của nó đến đời sống, sinh hoạt của người dân có đất bị thu hồi. Thông qua đó Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Khu đô thị 2 Dương Nội, Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Từ đó nêu lên một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay [31]. Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Hà Nam" của Trần Thị Huyền Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2015). Trong Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ và hệ thống hóa các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Luận văn đã đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất [15]. Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trỡ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh" của Nguyễn Văn Vững, Học viện Khoa học xã hội (năm 2016). Luận văn đã nghiên cứu những quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đất đai. Qua đó phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một địa phương cụ thể [43]. Bài viết "Những vấn đề xã hội nảy sinh từ việc thu hồi đất nông nghiệp cho phát triển đô thị, khu công nghiệp và giải pháp khác phục" của tác giả Lê Văn Lợi – Tạp chí Khoa học chính trị số 06 năm 2013, đã phân tích những vấn đề xã hội nảy sinh khi đất nông nghiệp bị thu hồi từ việc người nông dân thất nghiệp đến việc khiếu kiện khi thu hồi, bồi thường đất, từ việc gia tăng tệ nạn xã hội đến tình trạng ô nhiễm môi trường… Qua đó, tác giả đã đề ra một số giải pháp cần phải thay đổi trong quản lý đất đai và an sinh xã hội, để cuộc sống của người dân bị thu hồi đất được đảm bảo [16]. Ngoài ra còn một số bài viết tiêu biểu như: “Chính sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất” của TS. Trần Quang Huy – Tạp chí Luật học, số 10/2010; “Vấn đề xung quanh khái niệm bồi thường, thu hồi đất” của PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến 3 - Tạp chí Luật học, số 01/2009; “Những tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng các phương thức bồi thường khi nhà nước thu hồi đất” của TS. Nguyễn Thị Nga - Tạp chí Luật học, số 5/2011… Qua tìm hiểu, các công trình nghiên cứu nói trên đã phân tích, làm rõ cơ sở lý luận của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung trên pháp vi cả nước. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay, pháp luật về đất đai nói chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói riêng đã có nhiều thay đổi, bổ sung từ Luật và các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư, các văn bản hành chính của địa phương dẫn đến một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ mà các tác giả nghiên cứu trước đây đã có sự thay đổi. Hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn (thông qua tìm hiểu tại huyện Yên Mô) về pháp luật bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong vấn đề này và góp phần giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; - Phân tích, đánh giá thực thực hiện pháp luật trong bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Qua đó, chỉ ra những ưu điểm, tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và nêu nguyên nhân của tình trạng này; 4 - Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong khuôn khổ có hạn, Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu các văn bản pháp luật của Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Luận văn đi sâu hơn về thực tiễn thực hiện các văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại địa bàn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi đối tượng, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Về phạm vi không gian và thời gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại địa bàn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhằm bảo đảm tính khoa học và thực tiễn của đề tài. Quá trình thực hiện luận văn, học viên sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: - Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: thu thập các quy định pháp luật, kế thừa, thu thập tài liệu, số liệu, báo cáo chuyên ngành, kết quả thống kê, kiểm kê,… từ Hội đồng giải phóng mặt bằng huyện; phòng Tài nguyên và Môi trường; phòng Thống kê; phòng Kinh tế - Hạ tầng; phòng Tài chính - Kế hoạch; Ban quản 5 lý các dự án; Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất (QSDĐ) của huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình từ khi năm 2013 đến nay. - Phương pháp chọn dự án nghiên cứu: chọn 02 dự án sử dụng vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng của huyện với diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi lớn. - Phương pháp tổng hợp, phân tích, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác: dùng để tổng hợp và phân tích, nhận xét, đánh giá trình bày trong luận văn, xử lý các tài liệu, các số liệu thu thập trong quá trình khảo sát thực tiễn để nghiên cứu và làm sáng tỏ nội dung của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về lí luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp hiện nay. Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị tham khảo trong quá trình xây dựng pháp luật như hoạt động ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật đất đai liên quan tới lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền. Các kiến nghị của luận văn có thể được tham khảo để ứng dụng vào thực tiễn thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại một số địa phương cụ thể. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái niệm bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn của huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP 1.1. Khái niệm về đất nông nghiệp, thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 1.1.1 Khái niệm đất nông nghiệp Việt Nam là một nước nông nghiệp, có đến 70% dân số lao động trong lĩnh vực này. Vì vậy từ xưa cho đến nay đất nông nghiệp có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển của nước ta, nó được coi là tư liệu sản xuất truyền thống quan trọng bậc nhất với người dân. Chả thế mà nhà sử học Phan Huy chú đã cho rằng: “của báu một nước không gì quý bằng đất đai, nhân dân và của cải đều do đấy mà sinh ra” [47]. Vậy đất nông nghiệp là gì? Đây là một thuật ngữ không xa lạ đối với mỗi người Việt Nam. Đối với nhiều người, đất nông nghiệp là đất trồng lúa, trồng rau, trồng cây hoa màu như đậu, ngô, sắn, khoai…Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý, thì đất nông nghiệp không chỉ có vậy. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) đã định nghĩa: “Đất nông nghiệp là tổng thể các loại đất được xác định là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho việc trồng trọt và chăn nuôi, nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt và chăn nuôi, bảo vệ môi trường sinh thái, cung ứng sản phẩm cho các ngành công nghiệp và dịch vụ” [34, tr 237-238]. Theo Luật Đất đai năm 1993 thì đất nông nghiệp là một trong sáu loại đất đai của nước ta gồm có đất nông nghiệp, đất chuyên dùng, đất lâm nghiệp, đất khu dân cư nông thôn, đất đô thị, đất chưa sử dụng. Và đất nông nghiệp được hiểu là đất chủ yếu dùng để sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp (Điều 42, Luật Đất đai 1993). Đến năm 2003 khi ban hành Luật đất đai mới, Nhà nước ta lại căn cứ vào mục đích sử dụng để phân loại đất và đưa ra khái niệm rộng hơn, theo đó thì đất đai được chia thành ba loại nhóm đất, gồm: nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất chưa sử 7 dụng và nhóm đất phi nông nghiệp. Nhóm đất nông nghiệp lúc này bao gồm các loại đất sau: 02 loại đất trồng cây gồm: trồng cây hằng năm (như đất lúa, đất trồng cỏ chăn nuôi, đất trồng cây khác) và trồng cây lâu năm; 03 loại đất rừng gồm đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ và đất rừng đặc dụng; đất làm muối; đất nuôi trồng thủy sản; và đất nông nghiệp khác (Điều 13, Luật Đất đai 2003). Năm 2013, để phù hợp với tình hình thực tiễn mới của đất nước, Nhà nước ta đã ban hành Luật đất đai 2013, ngoài việc kế thừa những quy định trong Luật đất đai 2003 như vẫn phân chia đất đai thành ba nhóm, thì trong Luật có sửa đổi một số nội dung như: thứ nhất, đất trồng cây hằng năm chỉ bao gồm đất lúa, và đất trồng cây khác, như vậy đất đồng cỏ chăn nuôi đã được gộp vào đất trồng cây khác; thứ hai, đất nông nghiệp khác đã được nêu rõ cụ thể các loại đất gồm đất để xây dựng nhà kính và các loại nhà khác cho mục đích trồng trọt (có cả hình thức trồng trọt không ở trên đất); đất làm chuồng trại để chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm và những động vật khác mà pháp luật cho phép; đất trồng trọt, nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi dùng vào mục đích học tập và nghiên cứu, thí nghiệm; đất dùng để ươm tạo cây giống và con giống cùng với đất trồng hoa và cây cảnh (Điều 10 Luật Đất đai năm 2013). Như vậy có thể thấy trong Luật Đất đai năm 2013 khái niệm về đất nông nghiệp cơ bản không có nhiều điểm khác với Luật đất đai năm 2003, mà chỉ mở rộng hơn về phạm vi, đã chỉ ra các loại đất có thể sử dụng và khai thác phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Qua những phân tích ở trên, đất nông nghiệp có thể được hiểu như sau: Đất nông nghiệp gồm các loại đất mà đặc tính sử dụng của chúng là giống nhau, nó vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu vừa là tài liệu lao động vừa là đối tượng lao động và đặc biệt không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng thủy sản, đất làm muối; nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp. 8 1.1.2. Khái niệm về thu hồi đất nông nghiệp Trong Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã khẳng định nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu của toàn dân mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua việc quản lý, định đoạt đất đai. Một trong những quyền quan trọng của Nhà nước, đó là giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất đối với người sử dụng đất. Vậy thu hổi đất là gì? Trước năm 2003, ở nước ta không có văn bản luật nào định nghĩa rõ khái niệm về thu hồi đất mà chỉ đơn giản là nêu ra các trường hợp phải thu hồi đất (Điều 14 và Điều 26 trong Luật đất đai 1987 và Luật đất đai 1993). Đến khi Luật đất đai 2003 ban hành, khái niệm về thu hồi đất mới được nêu rõ. Theo đó thì “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật” (Điều 4 Luật đất đai 2003). Như vậy, có thể thấy tuy khái niệm Thu hồi đất đã được chỉ ra và giải thích, tuy nhiên cách giải thích này vẫn chưa đầy đủ và chính xác. Bởi vì, nó khiến người ta hiểu rằng chỉ có tổ chức hay Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mới bị thu hồi quyền sử dụng đất. Trong khi đó, trên thực tế thì việc thu hồi quyền sử dụng đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng chủ yếu là đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất. Như đã nói ở trên, Việt Nam là nước duy nhất quy định và thực hiện chế độ sở hữu toàn dân đối với toàn bộ đất đai. Do vậy có nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về khái niệm “thu hồi đất”. Có quan điểm cho rằng, Nhà nước chỉ thu hồi đất đối với các trường hợp do vi phạm pháp luật về đất đai và do chấm dứt quyền sử dụng đất tự nguyện hoặc theo pháp luật. Bởi lẽ người dân tuy không có quyền sở hữu đất nhưng lại có quyền sử dụng đất khi được Nhà nước giao đất nên họ có quyền định đoạt quyền sử dụng đất của mình. Do vậy, Nhà nước nên dùng cơ chế trưng mua quyền sử dụng đất thay vì cơ chế thu hồi khi Nhà nước có nhu cầu sử dụng đất cho các mục đích về quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia và cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 9 Tuy còn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng trong Hiến pháp năm 2013 quy định việc Nhà nước là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai và thống nhất quản lý, là cơ sở để hiểu đúng hơn về khái niệm “thu hồi đất”: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng...” (Điều 54 Hiến pháp năm 2013). Từ Hiến pháp năm 2013, khi ban hành Luật Đất đai năm 2013 khái niệm về thu hồi đất đã được cụ thể như sau: “Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai” (Điều 4 Luật Đất đai năm 2013). Từ đó, có thể hiểu thu hồi đất là việc Nhà nước thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã trao cho người sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai bằng các quyết định hành chính do Nhà nước ban hành. Từ khái niệm này có thể hiểu: Thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước thu lại đất nông nghiệp và quyền sử dụng đất nông nghiệp đã giao cho người sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai bằng các quyết định hành chính do Nhà nước ban hành. Nếu nói thu hồi đất nông nghiệp có tác động tích cực đến đời sống xã hội như việc chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang các mục đích sử dụng khác để để khai thác có hiệu quả hơn góp phần phát triển kinh tế xã hội của cả nước thì cũng không thể không nhắc đến hệ quả trái chiều của việc thu hồi đất nông nghiệp. Như đã phân tích ở trên, đất nông nghiệp không chỉ là tư liệu sản xuất mà nó còn là nguồn sống, là cả một nền văn hóa truyền thống của người dân do vậy hệ quả của việc thu hồi đất nông nghiệp là vô cùng lớn, nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống của người dân có đất bị thu hồi. Tác động đầu tiên chính là việc thiệt hại về mặt tài sản, người bị thu hồi đất nông nghiệp không những bị mất đi quyền sử dụng đất, họ phải chịu cả việc thiệt hại về công sức bỏ ra để xây dựng các công trình hạ tầng trên đất, công sức trồng cây cối, hoa màu trên đất, và cả việc thiệt hại do không được khai thác hoa lợi, lợi 10 tức phát sinh từ đất. Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chính trong nông nghiệp do vậy những thiệt hại về cây cối, nông sản, hoa lợi, lợi tức trong tương lai là vô cùng to lớn có thể kéo theo cả những bất ổn về an ninh lương thực của cả một quốc gia. Tác động thứ hai phải nói đến chính là việc thiệt hại về chi phí đầu tư vào đất. Để sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp, người sử dụng đất đã phải đầu tư, bỏ công sức, tiền bạc để có thể giúp đất nông nghiệp phù hợp với các loại hình sản xuất nông nghiệp và các mô hình chăn nuôi của mình. Quá trình đầu tư đó không nhỏ và có thể còn mất rất nhiều thời gian và công sức như vấn đề san lấp mặt bằng, tôn tạo đất có nơi có địa phương mất cả chục năm. Do vậy khi thu hồi đất nông nghiệp cần xem xét việc chi phí đầu tư vào đất của người bị thu hồi đất nông nghiệp. Tác động thứ ba ảnh hưởng đến người thu hồi đất chính là việc họ có thể bị mất việc, mất cơ hội lao động và mất nguồn sống bởi thu hồi đất nông nghiệp là thu hồi tư liệu sản xuất, đối tượng sản xuất của người nông dân. Có thể nói thu hồi đất nông nghiệp không chỉ gây thiệt hại trước mắt mà còn ảnh hưởng lâu dài đến đời sống của người nông dân do họ khó có sự thay đổi và chuyển đổi việc làm. Nhìn chung, việc thu hồi đất nông nghiệp có tác động to lớn, tích cực của đối với đời sống xã hội tuy nhiên không thể không nhắc đến những thiệt hại không thể nào đo đếm được của việc thu hồi đất nông nghiệp, bỏi nó không chỉ thiệt hại trước mặt mà còn có những tác động lâu dài trong tương lại. Việc thu hồi đất cho mục đích quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế có thể mang đến những kết quả tốt nhưng cũng có thể dẫn đến những bất ổn về chính trị, kinh tế, xã hội và an ninh tại địa phương. 1.1.3 Khái niệm về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Bồi thường là từ ngữ quen thuộc đối với rất nhiều người trong đời sống xã hội. Theo nghĩa thông dụng, bồi thường là khi gây thiệt hại cho người khác thì bản thân người gây thiệt hại phải bồi thường, đền bù cho người bị hại. Vậy bồi thường đất được hiểu như thế nào? Trước khi Luật đất đai năm 2003 được ban hành thì chưa có khái niệm cụ thể về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta liên quan đến bồi thường đất là Luật cải 11 cách ruộng đất năm 1954 và Nghị định số 151 ngày 14/4/1959 của Thủ tướng Chính phủ quy định về thể lệ tạm thời trựng dụng ruộng đất. Sau này khi Luật đất đai 1988, Luật đất đai 1993 lần lượt được ban hành kéo theo đó là các văn bản dưới luật ra đời đã quy định rõ hơn về việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lần đầu tiên được nêu ra một cách rõ ràng hơn là trong Luật đất đai 2003. Tuy nhiên tại Điều 4 của Luật này cũng chỉ quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là bồi thường về giá trị quyền sử dụng đất mà thôi. Quy này này là chưa cụ thể và chặt chẽ, bởi vì nó không tính đến giá trị tài sản ở trên đất bị thiệt hại và còn những tài sản vô hình khác nữa. Đến năm 2013 khi Luật đất đai mới được ban hành, ngoài quy định về việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là bồi thường về giá trị quyền sử dụng đất thì trong Luật cũng đã quy định cụ thể về việc hỗ trợ, bồi thường những thiệt hại về tài sản gắn liền với đất, những chi phí đầu tư vào đất theo quy định của pháp luật. Từ những quy định trên có thể thấy bồi thường khi nhà nước thu hồi đất có những đặc điểm sau: Thứ nhất, bồi thường là hậu quả pháp lý phát sinh sau khi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra quyết định hành chính về việc thu hồi đất. Thứ hai, bồi thường là trách nhiệm đền bù những tổn thất về quyền và lợi ích chính đáng cho người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất của họ. Thứ ba, ngoài việc bồi thường về đất thì Nhà nước còn phải bồi thường tài sản trên đất và hỗ trợ ổn định đời sống, chuyển đổi việc làm, ổn định sản xuất… cho người bị thu hồi đất. Thứ tư, Nhà nước chỉ bồi thường cho người bị thu hồi đất nếu họ đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Từ những phân tích, ta có thể hiểu bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước phải bù đắp những thiệt hại về đất, tài sản và chi phí đầu tư trên đất cho người sử dụng đất theo các quy định của pháp luật sau khi Nhà nước thu hồi đất của họ. 12 Từ khái niệm trên, ta có thể hiểu đầy đủ về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như sau: Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước phải bù đắp những thiệt hại về đất, tài sản và chi phí đầu tư trên đất do hành vi thu hồi đất nông nghiệp gây ra cho người sử dụng đất theo các quy định của pháp luật về đất đai. Có thể nói, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là tổng hợp tất cả các quy định pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ sinh ra trong quá trình nhà nước bồi thường về đất, tài sản, chi phí đầu tư trên đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. 1.1.4. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Từ xưa đến nay trong đời sống của người dân, từ ngữ “hỗ trợ” rất quen thuộc với mọi người, nó thể hiện tinh thần tương thân, tương ái và sự giúp đỡ giữa con người với nhau để vượt qua mọi khó khăn, vất vả trong cuộc sống. Thuật ngữ hỗ trợ ngoài việc được sử dụng thường xuyên trong đời sống hằng ngày của con người thì nó còn được sử dụng trong nhiều lĩnh vực nói chung và lĩnh vực pháp luật nói riêng, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật về đất đai. Như đã phân tích ở các phần trước, trong pháp luật thu hồi và bồi thường đất thì ta không thể bỏ qua vấn đề hỗ trợ khi thu hồi đất. Bởi đất đai là tư liệu sản xuất vô cùng quan trọng đối với người dân nên khi bị thu hồi đất, người sử dụng đất bị mất đi nơi ăn, chốn ở, cuộc sống hoàn toàn bị đảo lộn kéo theo đó là việc mất tư liệu để sản xuất khiến cho người dân không có việc làm, mà việc mất đi kế sinh nhai cũng không khác gì cuộc sống bị chặn đứng lại, không thể phát triển được. Bồi thường và hỗ trợ là hai khái niệm luôn luôn đi kèm với nhau, nó thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với người sử dụng đất. Nhà nước ngoài việc bồi thường cho người bị thu hồi đất còn phải có chính sách hỗ trợ cho họ. Nếu bồi thường là việc Nhà nước bù đắp những thiệt hại về quyền và lợi ích cho người bị thu hồi đất đối với các tài sản hữu hình và nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của họ thì hỗ trợ là việc Nhà nước trợ giúp cho người bị thu hồi đất những mất mát về tài sản vô hình như mất công việc làm, mất cuộc sống ổn định…. Có thể nói hỗ trợ 13 là biện pháp bù đắp thêm cho bồi thường, để các quy định pháp luật về bồi thường được hoàn thiện hơn, người bị thu hồi đất được đảm bảo hơn về quyền lợi của họ. Do vậy, trong Luật đất đai năm 2013, tại Điểu 3 đã nêu rõ định nghĩa về việc hỗ trợ khi thu hồi đất như sau: Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển. Từ đây, ta có thể hiểu: Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc người có đất nông nghiệp bị thu hồi được Nhà nước giúp đỡ khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất, đời sống và phát triển. Các chính sách hỗ trợ gồm: hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ tái định cư, hỗ trợ ổn định sản xuất và đời sống, hỗ trợ tạo việc làm và chuyển đổi nghề nghiệp, các hỗ trợ khác. 1.1.5. Khái niệm về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Khi Nhà nước thu hồi đất, nếu bồi thường, hỗ trợ là hai khái niệm luôn song hành với nhau và hỗ trợ bổ sung cho bồi thường thì “tái định cư” lại là khái niệm nhỏ nằm gói gọn trong “hỗ trợ”. Trong đời sống hằng ngày và trong các văn bản pháp luật, thuật ngữ “hỗ trợ tái định cư” trở nên quen thuộc với mọi người. Vậy, cần hiểu như thế nào về TĐC? Nếu nói về ngôn ngữ thông thường thì TĐC có thể hiểu là ổn định nơi ở trở lại, xây dựng lại. Từ trước cho đến nay, thuật ngữ “tái định cư” đã được đề cập nhiều trong các văn bản quy phạm pháp luật nhưng chưa có một định nghĩa cụ thể. Có thể hiểu tái định cư chỉ xảy ra khi Nhà nước thu hồi đất ở của người sử dụng đất, khi đó Nhà nước phải thu xếp chỗ ở mới cho họ có thể bằng diện tích đất ở, có thể bằng nhà ở tại khu tái định cư, hoặc cũng có thể bằng tiền để người bị thu hồi đất tự lo chỗ ở mới. Theo các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định 47/2014/NĐ-CP thì hỗ trợ tái định cư là một hình thức hỗ trợ, giúp đỡ người dân một phần cho gia đoạn ban đầu khi bị chuyển đổi công việc đang có hay bị biến động quá trình sinh sống và làm việc của gia đình khi bị Nhà nước thu hồi đất. Hỗ trợ tái định cư chỉ áp dụng đối với các hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở và phải di chuyển đi nơi khác để sinh sống. Vậy các trường hợp cụ thế nào được hỗ trợ tái định cư? Thứ nhất là các hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng phần đất hoặc đang định cư ở nước ngoài có nhà ở gắn với đất tại Việt Nam đã có Giấy chứng nhận quyền sử 14 dụng đất, hoặc đã đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở mà khi bị Nhà nước thu hồi phần lớn phần diện tích đất ở, diện tích còn lại không đủ điều kiện để ở hoặc không thuận tiện cho việc để ở mà hộ gia đình, cá nhân đó không còn nơi ở nào khác trong địa bàn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng đất ở hoặc nhà ở tái định cư. Nếu các hộ gia đình, cá nhân này vẫn còn đất ở, nhà ở khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được bồi thường bằng tiền. Trường hợp mà địa phương vẫn còn dư về quỹ đất ở, thì được xem xét để được hỗ trợ tái định cư về đất ở. Thứ hai là trường hợp trong hộ gia đình có đất ở, nhà ở khi Nhà nước thu hồi đất mà trong hộ gia đình đó có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ, chồng cùng chung sống khi thu hồi nếu đủ điều kiện để tách thành từng hộ gia đình riêng hoặc có nhiều hộ gia đình cùng chung quyền sử dụng một thửa đất ở thu hồi thì cấp thẩm quyền sẽ dựa trên quỹ đất ở, nhà ở tái định cư thực tế của địa phương đó để đưa ra quyết định mức bồi thường đất ở, nhà ở tái định cư cho từng hộ gia đình. Thứ ba là đối với hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài khi Nhà nước thu hồi nhà ở, đất ở nhưng lại không có nhu cầu muốn bồi thường bằng đất ở hoặc bằng nhà ở tái định cư thì được Nhà nước bồi thường bằng tiền tương ứng với phần đất bị thu hồi. Thứ tư là đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất, Nhà nước thu hồi phần đất gắn liền với nhà ở này, mà cá nhân; hộ gia đình phải di chuyển nơi ở sang chỗ khác, nhưng lại vướng thuộc vào trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu hộ gia đình, cá nhân đó không còn chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất. [9] Như vậy, bản chất của TĐC là việc bồi thường về đất và tài sản trên đất cùng với chi phí di chuyển, hỗ trợ ổn định lại cuộc sống. TĐC thông thường chỉ được thực hiện khi Nhà nước thu hồi đất ở của hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở. Đối với trường hợp thu hồi đất nông nghiệp thì theo pháp luật Việt Nam hiện nay thì người bị thu hồi đất sẽ không được bố trí tái định cư. Điều này đã gây nhiều bất cập cho một số hộ gia đình và cá nhân không có đất ở, họ sinh sống trên đất nông nghiệp nên khi bị thu 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan