Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực t...

Tài liệu Bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện thanh trì, thành phố hà nội

.PDF
88
164
84

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG HỮU BẢN BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI, 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đúng theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này./. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trương Hữu Bản MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ............... 8 1.1 Các khái niệm........................................................................................... 8 1.2 Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ...................................................................................................................... 14 1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ............................................................................................ 25 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI THƯƠNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NỒNG NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................................. 30 2.1 Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ........................................................................................................... 30 2.2 Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội .................................. 50 2.3. Thực tiễn bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thực tiễn tại huyện Thanh Trì ........................................................................................... 58 Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 63 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nông nghiệp được đánh giá là một trong những ngành nghề mũi nhọn truyền thống của Việt Nam với gần 70% dân số làm nghề nông. Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 9 tháng đầu năm 2018 mặc dù phải đối mặt với 14 loại hình thiên tai gây thiệt hại về kinh tế hơn 2.356 tỷ đồng nhưng khu vực nông - lâm - thuỷ sản vẫn đạt mức tăng trưởng cao nhất trong giai đoạn 2012 – 2018. Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng của ngành nông nghiệp ước đạt 29,54 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2017, bằng 73% kế hoạch năm và vượt 1,3% mục tiêu quý III đã đề ra [21, tr1]. Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nhà nước chủ trương đẩy mạnh hoạt động nông nghiệp theo hướng tập trung, tăng cường áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất và hiệu quả khai thác đất nông nghiệp hiện có. Đồng thời, để tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp phát triển, Nhà nước cũng có chính sách chuyển đổi một phần diện tích đất nông nghiệp sang phục vụ các hoạt động công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Thực hiện chủ trương này, Nhà nước phải tiến hành thu hồi đất nông nghiệp của người dân và bồi thường tương ứng với diện tích thu hồi. Thực tế cho thấy hoạt động thu hồi đất là một trong những hoạt động có tính nhạy cảm cao, dễ phát sinh tranh chấp, khiếu kiện vì ảnh hưởng trực tiếp đến công việc, nguồn thu nhập và đời sống của người nông dân. Đơn cử tại huyện Thanh Trì, thời gian vừa qua, vấn đề thu hồi và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trở thành một vấn đề nổi cộm cần nhanh chóng giải quyết (đặc biệt liên quan đến các dự án khu đô thị Tây Nam Kim Giang và dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 1A đoạn qua huyện Thanh Trì). 1 Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan như: những hạn chế, bất cập trong hệ thống quy định pháp luật liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, thiếu kinh nghiệm cũng như thiếu sự linh hoạt trong quá trình thu hồi, bồi thường đất nông nghiệp dẫn đến sự bất hòa về lợi ích giữa các bên… Do đó, việc nghiên cứu thực trạng pháp luật, thực tiễn thi hành để đề xuất biện pháp hoàn thiện, bổ sung cho hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đang ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Chính vì vậy, người viết đã lựa chọn đề tài “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” để làm luận văn tốt nghiệp trình độ thạc sĩ luật học. Tuy nhiên, do vấn đề về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề pháp lý phức tạp với nhiều quy định pháp luật liên quan và là một hoạt động có tính nhạy cảm cao. Điều này đã khiến cho quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và bình luận, đánh giá về nội dung đề tài của người viết gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Quý thầy cô, Quý đồng nghiệp và những người quan tâm đến đề tài này để luận văn được hoàn thiện hơn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề mang tính lý luận và tính thời sự nóng bỏng nên đã thu hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, nhà lập pháp cũng như các tổ chức, cá nhân hoạt động liên quan đến lĩnh vực này. Do đó, tính đến thời điểm hiện nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình nghiên cứu đáng chú ý như sau: 2 - Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới: Trong nhóm này, có thể đề cập đến bài viết “Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” của TS Nguyễn Quang Tuyến trong Tạp chí Luật học, số 1/2009; Bài viết “Pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Singapore và Trung Quốc – Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất” của TS Nguyễn Quang Tuyến và THS. Nguyễn Ngọc Minh trong Tạp chí Luật học, số 10/2010; …… - Nhóm công trình nghiên cứu về hệ thống quy phạm pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp có: Bài viết “Một số ý kiến trao đổi về vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Dự thảo Luật đất đai sửa đổi” của TS. Nguyễn Thị Nga trong Hội thảo khoa học góp ý Luật đất đai sửa đổi tại thành phố Hà Nội vào ngày 12/04/2013; Luận án “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam” của TS. Phạm Thu Thủy tại Đại học Luật Hà Nội năm 2014; Bài viết “Pháp luật về trình tự, thủ tục thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng” của TS. Nguyễn Thị Nga trong Tạp chí Luật học số 11/2010, …. - Nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề tổ chức thực thi và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp gồm: Bài viết “Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể: Nhà nước, người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi bị thu hồi đất” của Ths. Đặng Đức Long trên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 5/2009; Báo cáo “Tình hình thu hồi đất của nông dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 7/2007… 3 Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp qua thực tiễn tại Dự án khu đô thị Dương Nội, Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội" của Nguyễn Thanh Thư, Học viện Khoa học xã hội (năm 2015). Trong Luận văn đã đề cập và làm rõ hơn cơ sở lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và sự tác động của nó đến đời sống, sinh hoạt của người dân có đất bị thu hồi. Thông qua đó Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Khu đô thị Dương Nội, Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Từ đó nêu lên một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Hà Nam" của Trần Thị Huyền Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2015). Trong Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ và hệ thống hóa các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Luận văn đã đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất . Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trong thời gian vừa qua đã tương đối đầy đủ, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Tác giả luận văn có sự tham khảo các kết quả nghiên cứu trong các công trình này vào quá trình tìm hiểu các vấn đề của đề tài luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Thông qua hoạt động nghiên cứu các vấn đề lý luận và hệ thống quy định pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông 4 nghiệp, người viết mong muốn tìm ra những điểm bất cập, hạn chế liên quan đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đồng thời đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội nói riêng, cho Việt Nam nói chung. Căn cứ mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chính gồm: (i) Làm sâu sắc thêm một số vấn đề lý luận chung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; (ii) Thực trạng quy định pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; (iii) Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp dưới góc nhìn tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội; (iv) Nhận định những vướng mắc, bất cập còn tồn tại trong hệ thống quy phạm pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; (v) Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu đối tượng là các quy định pháp luật Việt Nam về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu, đánh giá và bình luận toàn bộ các nội dung liên quan đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. 5 Phạm vi nghiên cứu bao gồm nhưng không giới hạn bởi những khía cạnh sau: vấn đề lý luận chung liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, quy định pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp… 5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu Để đảm bảo mục đích nghiên cứu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, luận văn sử dụng xuyên suốt phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách đất đai. Bên cạnh đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, lịch sử … để nâng cao hiệu quả của hoạt động nghiên cứu, đánh giá và bình luận các khía cạnh của vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. 6 6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn Luận văn có giá trị như một tài liệu tham khảo có sự kết hợp giữa tính pháp lý và tính thực tiễn, giúp cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức quan tâm có cách nhìn sâu sắc hơn về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Đặc biệt, thông qua hoạt động phân tích, đánh giá, bình luận các quy định pháp luật cùng thực tiễn thi hành tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, luận văn đã đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Người viết cho rằng đây sẽ là một trong những đóng góp mang ý nghĩa quan trọng của luận văn trong việc hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật cũng như áp dụng các giải pháp hữu ích để nâng cao hiệu quả thi hành quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và 3 chương sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP 1.1 Các khái niệm 1.1.1 Khái niệm đất nông nghiệp Đất nông nghiệp là một loại đất có tính đặc trưng riêng biệt so với các loại đất khác trong hệ thống đất đai. Theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam thì đất nông nghiệp thường được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như: ngô, khoai, sắn và những loại cây được coi là lương thực. Tuy nhiên, trên thực tế, việc sử dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, không chỉ đơn thuần là để trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản hay để trồng cây lâu năm … [9, tr 303]. Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) có định nghĩa về đất nông nghiệp như sau: “Đất nông nghiệp: Tổng thể các loại đất được xác định là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho việc trồng trọt và chăn nuôi, nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt và chăn nuôi, bảo vệ môi trường sinh thái, cung ứng sản phẩm cho ngành công nghiệp và dịch vụ” [10, tr427]. Áp dụng cách giải thích của Từ điển luật học, Luật đất đai năm 1987 – Luật đất đai đầu tiên của Việt Nam – đã ghi nhận: “Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu dùng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, kể cả nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt, chăn nuôi” (Điều 23). Bên cạnh đất nông nghiệp, dựa trên mục đích sử dụng, luật đất đai còn phân biệt thêm năm loại đất khác gồm: đất lâm nghiệp, đất khu dân cư, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Kế thừa tinh thần của Luật đất đai 1987, Luật đất đai 1993 tiếp tục công nhận cách định nghĩa về đất nông nghiệp nêu trên. Có thể thấy, thời điểm này, đất nông nghiệp chỉ là một 8 trong sáu loại đất thuộc hệ thống đất đai quốc gia và có sự tách biệt rõ ràng với đất lâm nghiệp. Điều này đã đem đến nhiều khó khăn cho người sử dụng đất khi phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất để có thể xây dựng mô hình trang trại kết hợp trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng rừng. Bởi trong quá trình khai thác đất và nâng cao hiệu quả sản xuất, căn cứ chủ trương của Đảng, các hộ gia đình, cá nhân thường có xu hướng kết hợp nhiều loại đất theo mô hình trang trại. Để giải quyết những vấn đề còn vướng mắc nêu trên, Luật đất đai năm 2003 ra đời đã loại bỏ khái niệm “đất nông nghiệp” và thay thế bằng “nhóm đất nông nghiệp”. Theo đó, đất nông nghiệp được mở rộng hơn với nhiều loại đất khác nhau gồm: đất trồng cây hàng năm như đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng cây lâu năm; đất rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy sản; đất làm muối và đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ. Cách thức quy định về nhóm đất nông nghiệp vẫn tiếp tục được ghi nhận tại Luật đất đai 2013 – Luật đang có hiệu lực thi hành. Thực tế cho thấy, việc quy định đất nông nghiệp theo phạm vi rộng như trên là hoàn toàn phù hợp và đã thực sự mang lại hiệu quả cho hoạt động khai thác, sử dụng đất nông nghiệp, góp phần phát triển nền kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó, việc phân tách từng loại đất trong nhóm đất nông nghiệp cũng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xây dựng quyền và nghĩa vụ đặc thù đối với người sử dụng từng loại đất cũng như chế độ được hưởng khi Nhà nước thu hồi đất. Từ các nội dung nêu trên, “đất nông nghiệp” được hiểu là tổng thể các loại đất có chung đặt tính sử dụng và phục vụ chủ yếu cho mục đích sản xuất nông lâm – ngư nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi thủy sản, nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối … với tư cách là tư liệu sản xuất chính. 9 Với vai trò là một loại đất trong hệ thống đất đai quốc gia, đất nông nghiệp cũng mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của đất như: là một sản phẩm của tự nhiên, có tính cố định, có giá trị sử dụng lâu dài phụ thuộc vào khả năng khai thác của người sử dụng đất … Tuy nhiên, ngoài những đặc điểm chung nêu trên, đất nông nghiệp còn mang nhiều đặc điểm có tính đặc thù như sau: Thứ nhất, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất quan trọng và không thể thay thế trong hoạt động sản xuất nông nghiệp Thực tế cho thấy, toàn bộ hoạt động sản xuất nông nghiệp (đặc biệt liên quan đến trồng trọt) đều cần thực hiện trên một diện tích đất nông nghiệp có độ màu mỡ phù hợp. Với vai trò là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng quan trọng, đất đai là một môi trường sống không thể thiếu cho sự phát triển của hoa màu, cây lương thực. Cho đến hiện nay, mặc dù khoa học đã có những bước tiến vượt bậc nhưng vẫn không có bất cứ sản phẩm hoặc tư liệu nào có thể thay thế vai trò của đất trong hoạt động sản xuất nông nghiệp. Thứ hai, hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đất và cách thức khai thác, cải tạo đất của người sử dụng đất Đất nông nghiệp là sản phẩm của tự nhiên và bị giới hạn trong một khoảng không gian xác định, không thể tăng lên về số lượng. Tuy nhiên, sức sản xuất của đất nông nghiệp lại vô hạn, tùy thuộc vào cách thức khai thác, sử dụng và chăm sóc đất của người sử dụng đất. Trường hợp đất nông nghiệp được bảo vệ, cải tạo tốt sẽ góp phần nâng cao năng suất của hoạt động nông nghiệp và ngược lại, nếu đất nông nghiệp không được chăm sóc tốt, năng suất cũng như chất lượng nông sản cũng sẽ giảm sút. Có thể thấy, nếu như giá trị của đất sử dụng vào những mục đích khác như đất xây dựng cơ sở hạ tầng, đất sản xuất kinh doanh công nghiệp…. phụ thuộc vào vị trí của đất thì đối với đất nông nghiệp, giá trị của đất lại phụ 10 thuộc vào độ màu mỡ, phì nhiêu và sự chăm bón, cải tạo của người sử dụng đất. Vì vậy, người sử dụng đất cần có những biện pháp chăm sóc, cải tạo đất phù hợp để đảm bảo hiệu quả sử dụng đất và nâng cao năng suất khai thác đất. Thứ ba, đất nông nghiệp có thể chuyển đổi để phục vụ nhiều mục đích khác nhau Trong quá trình khai thác đất, phụ thuộc vào quy hoạch của nhà nước, đất nông nghiệp có thể chuyển đổi để phục vụ các mục đích khác như chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, chuyển đổi giữa các loại đất trong nhóm đất nông nghiệp …. Bởi đất nông nghiệp mang đầy đủ đặc trưng của các loại đất khác (chỉ chứa đựng thêm một số điểm riêng biệt của đất nông nghiệp như độ phì nhiêu, màu mỡ …) nên đất nông nghiệp hoàn toàn có thể chuyển sang các loại đất khác. Trong khi những loại đất khác lại khó có khả năng chuyển đổi sang mục đích nông nghiệp do không có đặc trưng riêng của đất nông nghiệp. Tuy nhiên, khi đã chuyển đổi sang sử dụng cho các mục đích khác, việc chuyển đổi lại để phục vụ cho mục đích nông nghiệp cũng sẽ tương đối khó vì sau một thời gian sử dụng cho các mục đích khác, đất đã mất đi độ màu mỡ, phì nhiêu vốn có. Khi đó, hoạt động sản xuất nông nghiệp trên những diện tích đất này cũng sẽ không mang lại hiệu quả cao. Do vậy, trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, các nhà làm luật cũng như các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quyết định chuyển đổi đất nông nghiệp cũng cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng trước khi thực hiện hoạt động chuyển đổi đất nông nghiệp sang phục vụ các mục đích khác. 1.1.2 Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp Khái niệm “Thu hồi đất” được sử dụng tương đối phổ biến trong ngôn ngữ pháp lý cũng như cuộc sống sinh hoạt đời thường. Trong khoa học pháp 11 lý hiện nay còn tồn tại nhiều cách định nghĩa về khái niệm “thu hồi đất” khác nhau, trong đó điển hình là một số cách định nghĩa như sau: Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, khái niệm thu hồi đất được hiểu là việc: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy định về sử dụng đất để nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng” [10, tr173]. Khái niệm đã phần nào thể hiện rõ bản chất của hoạt động thu hồi đất nói chung là chấm dứt quyền sử dụng của người sử dụng đất bằng một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này đã khẳng định quyền định đoạt của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai. Tuy nhiên, khái niệm vẫn chưa bao quát được toàn bộ các trường hợp thu hồi đất do khái niệm còn sử dụng phương pháp liệt kê các trường hợp bị thu hồi đất. Hay căn cứ quy định tại khoản 5 điều 4 Luật đất đai năm 2003: “Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của Luật này”. Khái niệm đã phản ánh đúng về chủ thể có thẩm quyền thu hồi đất là Nhà nước (thông qua quyết định hành chính của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Tuy nhiên, khái niệm đang hạn chế phạm vi đối tượng có thể bị Nhà nước thu hồi đất trong đó phải kể đến hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất – chủ thể sử dụng đất bị thu hồi đất phổ biến nhất hiện nay. Khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong cách định nghĩa của Luật đất đai 2003, Luật đất đai năm 2013 đã ghi nhận:“Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao 12 quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai” (Khoản 11 Điều 3). Từ khái niệm “thu hồi đất” nói chung, có thể hiểu khái niệm “thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất nông nghiệp và quyền sử dụng đất nông nghiệp đã giao cho các chủ thể sử dụng đất theo quy định pháp luật đất đai” [24, tr29]. Như đã phân tích, vấn đề thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người nông dân (mất tư liệu sản xuất, mất công việc). Do đó, thu hồi đất nông nghiệp vì bất cứ lý do nào, Nhà nước cũng cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ cho người nông dân sớm ổn định cuộc sống và tìm kiếm được định hướng mới. 1.1.3 Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Việt Nam là một quốc gia áp dụng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Tùy thuộc vào chính sách, kế hoạch phân bổ đất cho từng thời kỳ, Nhà nước có quyền trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này thông qua việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho người sử dụng đất. Mặc dù không có quyền sở hữu đối với đất đai nhưng người sử dụng đất sẽ được công nhận quyền sử dụng đất với ý nghĩa là một quyền tài sản. Theo đó, người sử dụng đất được quyền “định đoạt” quyền sử dụng đất hợp pháp của mình thông qua các hình thức như chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, cầm cố, thế chấp quyền sử dụng đất … Với tư cách đại diện chủ sở hữu, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nhà nước có quyền thu hồi đất đã cấp cho người nông dân vì mục đích phát triển kinh tế, xã hội, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên, xét trong mối quan hệ giữa các quy định pháp luật hiện hành, khi Nhà nước 13 thu hồi đất nông nghiệp (đồng nghĩa với thu hồi quyền sử dụng đất – một quyền tài sản của người dân), Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho người dân bị thu hồi đất một giá trị tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất đã thu hồi. Khoản 12 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 đã định nghĩa: “Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”. Tóm lại, có thể hiểu một cách đầy đủ về khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như sau: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế, phải bù đắp những tổn hại về đất và tài sản trên đất do hành vi thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất tuân theo những quy định của pháp luật đất đai” [24, tr37]. Đất nông nghiệp là một trong những loại đất cơ bản của hệ thống đất đai nên áp dụng tương tự cách hiểu trên: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế, phải bù đắp những tổn hại về đất và tài sản trên đất do hành vi thu hồi đất nông nghiệp gây ra cho người sử dụng đất tuân theo những quy định của pháp luật đất đai” [28, tr37]. 1.2 Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp 1.2.1 Sự cần thiết của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Trong tiến trình phát triển của Việt Nam hiện nay, việc thu hồi một phần đất nông nghiệp để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vì mục đích quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích dân tộc và cộng đồng là một trong 14 những xu thế tất yếu, cần thiết. Với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu về quỹ đất để thực hiện các hoạt động công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển đô thị ngày càng cao. Theo số liệu khảo sát về diện tích của các loại đất ở Việt Nam hiện nay, đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với các loại đất khác. Bởi đến thời điểm hiện tại, nông nghiệp vẫn là một ngành nghề chủ lực của Việt Nam và đa số người dân của Việt Nam đang sống dựa trên thu nhập từ nông nghiệp. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu về đất cho các hoạt động công nghiệp hóa, vì lợi ích quốc gia, đất nông nghiệp là đối tượng được hướng tới hàng đầu. Ngoài ra, cùng với sự tiến bộ khoa học – công nghệ, thời gian qua, Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, nâng cao sản lượng và chất lượng nông phẩm trên một diện tích đất nông nghiệp. Trong tương lai, hoạt động nông nghiệp của Việt Nam sẽ phát triển theo hướng tập trung, tăng cường khai thác theo chiều sâu thay vì khai thác theo chiều rộng như trước đây. Do đó, việc thu hẹp diện tích đất nông nghiệp để chuyển sang các mục đích khác sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất theo chiều sâu trong khi vẫn đảm bảo yếu tố an toàn lương thực cho người dân. Mặc dù thu hồi đất nông nghiệp là một xu thế tất yếu, tuy nhiên, thu hồi đất nông nghiệp cũng là một vấn đề nhạy cảm và rất dễ phát sinh tranh chấp. Như đã phân tích tại mục 1.1.1 của Luận văn, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất quan trọng, không thể thay thế của người nông dân và là một loại đất có độ màu mỡ cao, nếu chuyển đổi sang mục đích khác sẽ khó khăn trong vấn đề chuyển đổi lại thành đất nông nghiệp. Do đó, thu hồi đất nông nghiệp cũng chính là thu hồi tư liệu sản xuất của người nông dân, ảnh hưởng nghiêm trọng tới thu nhập và dẫn tới một lượng lớn người nông dân bị mất việc làm. Vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp sau khi bị thu hồi đất cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Bởi hầu hết nông dân đều có trình độ hiểu biết không cao nên việc 15 chuyển đổi nghề là vấn đề tương đối khó khăn trong bối cảnh cạnh tranh trên thị trường việc làm tăng cao. Hiện trạng thu hồi và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian vừa qua đã là một chứng cứ chứng minh rõ nét cho quan điểm trên. Hàng loạt vụ khiếu kiện hành chính của người dân liên quan đến hoạt động thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đã diễn ra trên phạm vi cả nước. Thậm chí có nhiều vụ việc được đẩy lên thành “điểm nóng” với những cuộc biểu tình đông người tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc ngay tại nơi có đất bị thu hồi. Chính điều này đã khiến các nhà lập pháp và cơ quan thực thi pháp luật cần nghiêm túc xem xét lại và có những điều chỉnh quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cho phù hợp. Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy việc điều chỉnh vấn đề thu hồi và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp bằng pháp luật là một yêu cầu tất yếu. Khi pháp luật có những quy định cụ thể về vấn đề thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp (như các trường hợp thu hồi đất nông nghiệp, thẩm quyền thu hồi, trình tự, thủ tục thu hồi và chế độ bồi thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất), bản thân các cơ quan thực thi pháp luật sẽ có căn cứ pháp lý rõ ràng để triển khai hoạt động thu hồi, bồi thường cho người dân. Đồng thời, người dân có đất thuộc diện bị thu hồi cũng có cơ sở thực hiện quyền giám sát, đấu tranh với những hiện tượng tham nhũng, tiêu cực để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình, góp phần bảo đảm kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.2.2 Các nguyên tắc của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp Trong bất cứ lĩnh vực nào, pháp luật luôn được xem là một trong những phương thức hiệu quả để thực hiện chức năng quản lý nhà nước và lĩnh vực 16 bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cũng không phải là một trường hợp ngoại lệ. Theo cách hiểu cơ bản nhất, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người dân nhằm giải quyết hài hòa lợi ích ba bên (Nhà nước, chủ đầu tư và người có đất bị thu hồi). Với mục đích nâng cao tính minh bạch của các quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và đảm bảo tối đa quyền lợi của người dân, các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp luôn được xây dựng dựa trên hệ thống các nguyên tắc bắt buộc, mang tính định hướng. Một số nguyên tắc cơ bản gồm: Thứ nhất, người bị thu hồi đất có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật sẽ được bồi thường Căn cứ quy định của Bộ luật dân sự, quyền sử dụng đất cũng là một quyền tài sản nên khi Nhà nước thu hồi đất (đồng nghĩa thu hồi quyền tài sản) của người dân, Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho người dân một giá trị tương ứng. Quy định này đã thể hiện sự công bằng giữa các chủ thể trong quan hệ thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp dựa trên sự trao đổi về lợi ích. Cùng với đó, nguyên tắc này cũng là sự đảm bảo của Nhà nước đối với người sử dụng đất nông nghiệp thuộc diện bị thu hồi. Chỉ cần người sử dụng đất đáp ứng đủ các điều kiện của pháp luật sẽ được hưởng các chế độ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Hiện nay, điều kiện để được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp chủ yếu tập trung vào yếu tố nguồn gốc sử dụng đất với các trường hợp như được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và có giấy tờ hợp pháp chứng minh 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan