Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự luận văn ths [tt]...

Tài liệu Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự luận văn ths [tt]

.PDF
16
570
78

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Hµ néi - 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ MINH CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ Hµ néi - 2008 2.2.2. Lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN 36 sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án 2.3. Đối chất 36 Trang phụ bìa 2.4. Nhận dạng 39 Lời cam đoan 2.5. Khám xét 43 Mục lục 2.5.1. Khám người 46 1 2.5.2. Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm 47 5 2.5.3. Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại 48 Trang mở đầu Chương 1: những vấn đề lý luận cơ bản về điều tra trong tố tụng bưu điện hình sự 1.1. Khái niệm, nhiệm vụ, nguyên tắc, yêu cầu của hoạt động điều 5 2.6. tra trong tố tụng hình sự Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu 50 vết trên thân thể 1.1.1. Khái niệm 5 2.6.1. Khám nghiệm hiện trường 50 1.1.2. Nhiệm vụ 6 2.6.2. Khám nghiệm tử thi 53 1.1.3. Nguyên tắc của hoạt động điều tra 8 2.6.3. Xem xét dấu vết trên thân thể 55 1.1.4. Yêu cầu của hoạt động điều tra vụ án hình sự 11 2.7. Thực nghiệm điều tra 56 Trưng cầu giám định 58 1.2. Các biện pháp điều tra 14 2.8. 1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện 16 2.8.1. Việc tiến hành giám định 63 2.8.2. Nội dung kết luận giám định 64 2.8.3. Giám định bổ sung hoặc giám định lại 65 pháp điều tra trong tố tụng hình sự 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1989 16 1.3.2. Từ năm 1989 đến năm 2003 19 1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay 21 Chương 2: quy định của luật tố tụng hình sự việt nam về các 25 Chương 3: giải pháp nâng cao hiệu quả các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự 3.1. Dự báo tình hình tội phạm và những yêu cầu đối với công tác 25 3.2. 2.1.1. Khởi tố bị can 25 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự, đặc biệt là 2.1.2. Hỏi cung bị can 26 2.2. 66 điều tra trong giai đoạn mới biện pháp điều tra 2.1. 66 Khởi tố bị can và hỏi cung bị can Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, 31 bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án 2.2.1. Lấy lời khai người làm chứng 31 1 Những giải pháp 70 70 pháp luật về điều tra trong tố tụng hình sự 3.2.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác điều tra 73 kết luận 81 danh mục tài liệu tham khảo 84 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật tố tụng hình sự được ban hành nhằm đảm bảo việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Ý nghĩa đó được thể hiện trong suốt quá trình tố tụng ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Để đạt được mục đích đó, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan và người tiến hành tố tụng (gồm các cơ quan chức năng của Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân) nhằm phát hiện và xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Trong quá trình đổi mới đất nước, do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình tội phạm ở nước ta trong thời gian vừa qua và trong những năm tới đang và sẽ diễn biến rất phức tạp, chưa có chiều hướng giảm. Tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt về thủ đoạn, phương thức và ngày càng nghiêm trọng về tính chất, mức độ nguy hiểm. Điều tra là một hoạt động trong tố tụng hình sự được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Công tác điều tra rất quan trọng, điều tra đúng là cơ sở để xét xử đúng; điều tra sai là sai ngay từ bước đầu, dễ dẫn tới xét xử sai, vi phạm nghiêm trọng tới quyền, lợi ích của công dân. Ngày 17/3/2003, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, đã nhận được sự hưởng ứng đồng tình từ phía đông đảo nhân dân. Điều này không chỉ có ý nghĩa lớn đối với những người bị oan sai mà còn ảnh hưởng lớn tới tâm lý của tất cả mọi người, tạo cho người dân yên tâm, tin tưởng hơn nữa vào chính sách pháp luật của Nhà nước ta. Đồng thời, Nghị quyết này còn đặt ra một thách thức, yêu cầu lớn cho những người tiến hành tố tụng. Họ phải thận trọng, tỷ mỷ trong hoạt động của mình để tránh gây ra tổn thất về tinh thần cũng như vật chất cho những người tham gia tố tụng. 3 Muốn như vậy, ngay từ bước điều tra ban đầu cần phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, yêu cầu trình độ chuyên môn cao, làm việc một cách khách quan và hoàn toàn phục vụ vì công lý. Điều tra trong tố tụng hình sự là giai đoạn đầu tiên có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Chính vì vậy mà pháp luật tố tụng hình sự quy định rất chặt chẽ về các biện pháp điều tra. Điều này được thể hiện trong BLTTHS, Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự và các văn bản chuyên ngành khác. Vì vậy việc nghiên cứu cụ thể về các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự và thực tiễn hoạt động điều tra, phân tích làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp điều tra, để từ đó có những giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng về điều tra, nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra có ý nghĩa rất quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn. Những phân tích đó lý giải cho việc chúng tôi chọn đề tài "Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự" để làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, điều tra trong tố tụng hình sự cũng là một vấn đề đang được quan tâm nghiên cứu của các chuyên gia luật học cả về lý luận lẫn thực tiễn, đáng chú ý là các công trình: "Sổ tay điều tra hình sự" (Nhà xuất bản Công an nhân dân); "Khoa học Điều tra hình sự" (Trường Đại học Luật Hà Nội), "Giáo trình Điều tra hình sự" (Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội) và một số bài báo được công bố trong một số tạp chí... Đây là những công trình nghiên cứu cơ bản các vấn đề thuộc lĩnh vực điều tra hình sự, đã đề cập đến các biện pháp điều tra hình sự. Tuy nhiên các công trình này mới chỉ đề cập tới vấn đề mang tính bình luận các quy định của pháp luật hoặc chiến thuật điều tra mà chưa đi phân tích thực tiễn hoạt động điều tra, phân tích các bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra đề xuất về giải pháp hoàn thiện, cũng như những kiến nghị trong việc hoàn thiện pháp luật về các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự. 4 Cho đến nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam chưa có một công trình chuyên khảo nghiên cứu sâu, toàn diện, đầy đủ về biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu * Mục đích Trên cơ sở luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về điều tra hình sự cũng như các biện pháp điều tra hình sự cụ thể, luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản về các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự. Luận văn là một công trình nghiên cứu về các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự một cách hệ thống, toàn diện. Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự; đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng điều tra trong tố tụng hình sự hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về điều tra trong tố tụng hình sự. * Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là: + Nghiên cứu một số vấn đề chung về biện pháp điều tra; + Phân tích các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp điều tra và thực tiễn áp dụng các biện pháp đó; Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện pháp điều tra. Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự. + Đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp điều tra trong thực tiễn. * Phạm vi nghiên cứu Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự cả về phương diện quy phạm pháp luật cũng như về thực tiễn 4. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; các văn bản pháp luật về vấn đề điều tra trong tố tụng hình sự và các văn bản khác, các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan tới đề tài. Phương pháp nghiên cứu: luận văn sử dụng và kết hợp chặt chẽ phương pháp lôgíc với phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, thống kê, khảo sát, điều tra, tổng kết thực tiễn. 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu 5 6 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN VĂN Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, nhiệm vụ, nguyên tắc, yêu cầu của hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm - Để tạo điều kiện cho quá trình truy tố, xét xử một cách khách quan, toàn diện, trong quá trình điều tra, Điều tra viên cần phải áp dụng mọi biện pháp được pháp luật cho phép để thực hiện quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền khiếu nại, tố cáo của người bị hại, của bị can, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự. Đảm bảo bồi thường thiệt hại: - Điều tra viên cần khẩn trương tiến hành các biện pháp như khám xét, kê biên tài sản, tiền bạc và những giá trị vật chất khác để bảo đảm khả năng thực tế bồi thường thiệt hại. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự trong đó cơ quan Điều tra và các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án. Đồng thời, thông qua hoạt động điều tra xác định nguyên nhân điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị các biện pháp phòng ngừa với các cơ quan và tổ chức hữu quan. - Nghiên cứu tỷ mỷ, thận trọng tất cả những tài liệu chứng cứ đã được thu thập về vụ án, hỏi cung bị can, lấy lời khai người bị hại, đại diện của những cơ quan, tổ chức bị hại, lấy lời khai của người làm chứng để làm rõ chính xác mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra, những bị can nào phải bồi thường và mức độ bồi thường của từng bị can. Điều tra vụ án hình sự là một dạng hoạt động nhận thức đặc biệt. Đối tượng nhận thức của hoạt động điều tra là tội phạm đã xảy ra, những phương tiện, biện pháp được áp dụng trong hoạt động điều tra phải phù hợp với pháp luật, không trái với giá trị pháp lý của kết quả điều tra vụ án. Làm rõ các nguyên nhân, điều kiện phạm tội để đề xuất những biện pháp khắc phục, ngăn ngừa không để vụ án tương tự xảy ra trong tương lai. 1.1.2. Nhiệm vụ Nhanh chóng khám phá từng vụ án xảy ra: - Một vụ án hình sự chỉ được thừa nhận là đã được khám phá khi cơ quan điều tra đã làm rõ được những vấn đề cần phải chứng minh được quy định tại BLTTHS (bốn yếu tố cấu thành tội phạm, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm của bị can, nguyên nhân và điều kiện phạm tội và những tình tiết khác liên quan đến vụ án). Lập hồ sơ và đề nghị truy tố bị can của vụ án. 7 - Giải thích cặn kẽ cho những người tham gia tố tụng quyền khiếu nại dân sự và thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn dân sự. - Những sơ hở, không đầy đủ, chặt chẽ của những văn bản pháp luật, nguyên tắc quản lý kinh tế, công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới; - Những thiếu sót của công tác quản lý về trật tự, an toàn xã hội, những sơ hở, mất cảnh giác của người bị hại… Những tình tiết này hoàn toàn có thể làm rõ được trong quá trình điều tra. - Giáo dục mọi người nắm được pháp luật, có ý thức tôn trọng pháp luật, vận động quần chúng nhân dân giúp đỡ cơ quan Điều tra trong quá trình điều tra vụ án. Đặc biệt, cần giáo dục, làm cho bị can nhận thức được hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải một cách thành thực, tự nguyện trở lại con đường làm ăn lương thiện. 8 1.1.3. Nguyên tắc của hoạt động điều tra - Tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ hoạt động điều tra vụ án hình sự. + Kết thúc giai đoạn điều tra vụ án và hành vi phạm tội của bị can được làm rõ, đúng sự thật như trong thực tế đã xảy ra. Không được xuyên tạc, cố ý bóp méo hay làm sai sự thật do nhiều động cơ, mục đích khác nhau. - Tuân theo pháp luật, chấp hành các nguyên tắc của BLTTHS. + Trong quá trình điều tra, Điều tra viên không chỉ đơn thuần chấp hành những yêu cầu của pháp luật, nhất là BLTTHS mà còn áp dụng hiệu quả những thủ thuật, chiến thuật, những phương tiện kỹ thuật trong hoạt động điều tra. + Không cho phép áp dụng trong hoạt động điều tra những biện pháp, phương tiện trái pháp luật, chống lại pháp luật. Tất cả những biện pháp được áp dụng trong hoạt động điều tra phải theo đúng thủ tục, trình tự, kết quả tiến hành phải được phản ánh chính xác, khách quan trong các văn bản tố tụng. - Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung, người tham gia tố tụng nói riêng. + Hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự động chạm nhiều nhất đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Các biện pháp điều tra được áp dụng, nhất là các biện pháp cưỡng chế tố tụng phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật cho phép, không được xúc phạm, hạ thấp danh dự, nhân phẩm, tài sản, sức khỏe của công dân. - Cơ quan điều tra cấp dưới chịu sự chỉ đạo nghiệp vụ của cơ quan điều tra cấp trên. + Cơ quan điều tra các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và mối quan hệ lãnh đạo, chỉ đạo giữa cơ quan điều tra cấp trên và cơ quan điều tra cấp dưới do pháp luật quy định. Mặt khác, công tác lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động điều tra phải mang tính trực tiếp để đảm bảo sự nhanh chóng của hoạt động điều tra, phát huy tinh thần chủ động, 9 sáng tạo của cơ quan điều tra các cấp, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra và Điều tra viên trong quá trình điều tra v.v… 1.1.4. Yêu cầu của hoạt động điều tra vụ án hình sự - Hoạt động điều tra phải được tiến hành có kế hoạch - Tiến hành nhanh chóng và linh hoạt - Sử dụng có hiệu quả những biện pháp trinh sát, những phương tiện kỹ thuật trong quá trình điều tra - Vận động quần chúng tham gia vào hoạt động điều tra 1.2. Các biện pháp điều tra Các biện pháp điều tra bao gồm: Khởi tố bị can và hỏi cung bị can; lấy lời khai; thu giữ vật chứng; đối chất; nhận dạng; khám xét, thu giữ tài liệu, vật chứng; khám nghiệm hiện trường, tử thi, xem xét dấu vết; thực nghiệm điều tra; trưng cầu giám định. Trong quá trình điều tra, tùy từng vụ án cụ thể mà các biện pháp điều tra được thực hiện toàn bộ hay một phần. Có những biện pháp luôn luôn bắt buộc phải thực hiện (như khởi tố bị can, hỏi cung bị can, lấy lời khai người tham gia tố tụng), có những biện pháp có thể không bắt buộc phải thực hiện tùy theo nhu cầu điều tra. Việc xác định phạm vi, giới hạn các biện pháp điều tra có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc điều tra phiến diện, không đầy đủ là một trong những căn cứ để Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung (Điều 168, 179 BLTTHS) hoặc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (Điều 273 BLTTHS) v.v… 1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1989 Các quy định pháp lý về hoạt động điều tra hình sự được ban hành với số lượng chưa lớn và chủ yếu dưới dạng các văn bản dưới luật, nội 10 dung chưa đầy đủ, phần lớn mới chỉ quy định về tổ chức cơ quan điều tra và thẩm quyền điều tra, về nội dung này, tính hợp lý vẫn chưa cao. 1.3.2. Từ năm 1989 đến năm 2003 BLTTHS đầu tiên ra đời năm 1989 là một điểm mốc lớn trong lịch sử phát triển pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, có tác động tích cực trong quá trình tố tụng hình sự nói chung và hoạt động điều tra hình sự nói riêng. Bộ luật đã dành 6 chương với 49 Điều luật để quy định những vấn đề quan trọng liên quan đến hoạt động điều tra hình sự, phần lớn các điều luật này được dành để quy định về trình tự, thủ tục tiến hành các biện pháp điều tra cụ thể. Những thay đổi của Bộ luật Hình sự năm 1999 về phân loại tội phạm còn có ảnh hưởng đến việc tổ chức hoạt động điều tra hình sự và đòi hỏi cần có sự điều chỉnh trong pháp luật tố tụng hình sự. Do đó, trong lần sửa đổi, bổ sung thứ 3 đối với BLTTHS năm 1988, vấn đề thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra các loại tội phạm đã được quy định lại một cách cụ thể phù hợp với sự thay đổi nêu trên của Bộ luật Hình sự năm 1999, tạo thuận lợi cho việc áp dụng các chế định này trong thực tế điều tra hình sự. yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị. Có thể khẳng định rằng, các quy định pháp lý về hoạt động điều tra hình sự về cơ bản ngày một hoàn thiện, đáp ứng khá kịp thời đòi hỏi của thực tiễn điều tra hình sự, góp phần đáng kể vào những thành tựu mà cơ quan điều tra đã đạt được trong thời gian qua. Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ: "Xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra chuyên trách điều tra tất cả các vụ án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành một số biện pháp theo yêu cầu của cơ quan điều tra chuyên trách. Trước mắt tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức cơ quan điều tra theo pháp luật hiện hành; nghiên cứu và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự". 1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay - Xây dựng được hệ thống các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khá hợp lý, bước đầu đảm bảo được tính chuyên sâu. - Bổ sung những quy định làm cơ sở pháp lý cho việc tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa điều tra theo tố tụng và điều tra trinh sát. BLTTHS năm 2003 đã kế thừa và phát triển các quy định về hoạt động điều tra nói chung, các biện pháp điều tra nói riêng. Các biện pháp điều tra tuy vẫn giữ nguyên như cũ nhưng nội dung, trình tự, thủ tục tiến hành các biện pháp điều tra được bổ sung nhiều theo hướng đảm bảo tính khách quan của biện pháp được thực hiện; tôn trọng, bảo vệ quyền của người tham gia tố tụng trong hoạt động điều tra. Những sửa đổi, bổ sung đó phù hợp với định hướng tăng cường tính dân chủ trong hoạt động tố tụng, đáp ứng 11 12 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA 2.1. Khởi tố bị can và hỏi cung bị can 2.1.1. Khởi tố bị can Khởi tố bị can là việc cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố đối với một người khi có đủ căn cứ xác định rằng người đó đã thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định khởi tố bị can là văn bản pháp lý cần thiết để cơ quan điều tra áp dụng tất cả các biện pháp ngăn chặn, thu thập chứng cứ, biện pháp đảm bảo việc giải quyết vụ án đối với bị can. 2.1.2. Hỏi cung bị can Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự, do Điều tra viên tiến hành bằng cách tác động trực tiếp vào tâm lý bị can nhằm mục đích thu được lời khai trung thực, đúng đắn và đầy đủ về hành động phạm tội của bị can và đồng bọn cũng như những tin tức cần thiết khác góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án. - Là biện pháp điều tra phổ biến nhất, có khả năng thu nhiều tin tức nhất về vụ án đang điều tra cũng như các tin tức khác mà cơ quan điều tra cần thu thập. - Hỏi cung cũng dễ dẫn đến sai lầm chủ quan, xâm phạm nghiêm trọng tới quyền lợi của bị can. Chính vì vậy mà khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2003 đã quy định lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội. 2.2. Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án 2.2.1. Lấy lời khai người làm chứng Lấy lời khai của người làm chứng là biện pháp điều tra được tiến hành nhằm thu thập, theo trình tự tố tụng hình sự, lời khai của người làm chứng về những tình tiết của vụ án đang được điều tra và những tin tức, tài liệu khác có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm. - Lời khai của người làm chứng thường thu thập được nhiều thông tin về vụ án, đối tượng gây án và những tình tiết khác có liên quan đến vụ án xảy ra. - Khi lấy lời khai của người làm chứng chưa đủ 16 tuổi phải mời cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác hay thầy cô giáo của người đó tham dự. Do vậy, khi triệu tập người làm chứng chưa đủ 16 tuổi, Điều tra viên cũng phải gửi giấy mời cho cả những người nói trên. - Lời khai của người làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng để chứng minh sự thật của vụ án, sau khi được kiểm tra, xác minh thận trọng cần được sử dụng có hiệu quả trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra để chứng minh sự thật của vụ án; cũng như trong hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. - Không dùng lời khai của người làm chứng như chứng cứ duy nhất để kết luận về vụ án. 2.2.2. Lấy lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. - Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự... là những người mà quyền lợi, nghĩa vụ của họ bị ảnh hưởng bởi các tình tiết của vụ án. Chính vì vậy mà lời khai của họ có thể không khách quan, mà thiên theo hướng chủ quan có lợi cho mình. - Cần phải đối chiếu với nhiều lời khai của các đối tượng khác và những chứng cứ khác thu thập trong quá trình điều tra để tìm ra được lời 13 14 khai chân thật, đáng tin cậy để sử dụng vào trong việc khám phá sự thật khách quan của vụ án. 2.3. Đối chất Đối chất là biện pháp điều tra được áp dụng trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai giữa những người tham gia tố tụng với nhau về cùng một vấn đề nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. - Nhược điểm: dễ bộc lộ những chứng cứ đã thu thập được; bị can dễ có điều kiện thông cung, nên Điều tra viên phải thận trọng và chỉ sử dụng biện pháp đối chất khi đã sử dụng các biện pháp điều tra khác không giải quyết được mâu thuẫn trong lời khai. 2.4. Nhận dạng Nhận dạng là biện pháp điều tra được tiến hành nhằm mục đích làm rõ sự đồng nhất, sự tương đồng hay sự khác biệt giữa đối tượng nhận dạng và đối tượng có liên quan đến vụ án mà người nhận dạng đã tri giác được trước đây bằng cách quan sát, so sánh các đặc điểm, vết tích của đối tượng nhận dạng với hình ảnh đối tượng mà người nhận dạng đã tri giác trước đây còn ghi nhớ trong trí nhớ của người nhận dạng. - Việc nhận dạng cũng có thể làm ảnh hưởng tới quyền lợi của mỗi người, việc quyết định và đưa ra hình thức nhận dạng phù hợp cũng là một yêu cầu đặt ra cho Điều tra viên trong hoạt động của mình. Chọn người nhận dạng và đối tượng nhận dạng không đúng, không những khó phát huy được tác dụng mà còn có thể làm ảnh hưởng đến sự an toàn của người được chọn để nhận dạng, hoặc ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án. - Ngược lại, sau khi xác minh được kết quả nhận dạng đúng thì có thể sử dụng nó như là một trong những chứng cứ của vụ án, trường hợp người nhận dạng đưa ra kết luận nghi vấn đối tượng nhận dạng có liên quan đến vụ án thì chỉ được sử dụng vào việc nhận định, phán đoán, xác định phương hướng điều tra. 15 2.5. Khám xét Khám xét là một biện pháp điều tra do những người có thẩm quyền tiến hành bằng cách lục soát, tìm kiếm trong người, đồ vật, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, thư tín bưu kiện, bưu phẩm của một người, nhằm phát hiện và thu giữ vật chứng, tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Việc khám xét chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã. - Biện pháp khám xét sẽ ảnh hưởng tới quyền tự do cá nhân. Nếu không đủ căn cứ do pháp luật quy định thì không được quyền khám xét. - Việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã. - Khi khám xét, chỉ được thu giữ những đồ vật, tài liệu có ý nghĩa cho hoạt động điều tra và mô tả đúng thực trạng vào biên bản, đưa vào hồ sơ vụ án. Các biện pháp khám xét được trình bày ở các điểm sau đây. 2.5.1. Khám người Khám người là việc lục soát, tìm kiếm, nghiên cứu trong người, quần áo đang mặc và đồ vật, phương tiện mang theo của họ nhằm phát hiện và thu giữ công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm tội mà có, những dấu vết, đồ vật, tài liệu có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra. 2.5.2. Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm Khám xét chỗ ở, địa điểm là việc tìm kiếm các chứng cứ phạm tội tại chỗ ở, địa điểm nhất định 16 2.5.3. Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện 2.6.2. Khám nghiệm tử thi Các thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị khám xét phải còn đang nằm trong sự quản lý của cơ quan bưu điện chưa giao cho người nhận, nếu đã giao cho người nhận mang theo người hoặc để tại chỗ thì được coi là đồ vật. Khám nghiệm tử thi là biện pháp điều tra của Điều tra viên có bác sĩ pháp y, kiểm sát viên và có thể là giám định viên pháp y tham gia đối với tử thi nhằm phát hiện dấu vết tội phạm trên thân thể người chết hoặc nguyên nhân cái chết. Trong thực tiễn, hoạt động điều tra có những trường hợp cần thiết phải tiến hành khám xét nhiều đối tượng ở nhiều nơi cùng một lúc. Khi khám xét đòi hỏi phải tiến hành đồng thời, có sự phối hợp thống nhất trong hành động của các lực lượng, đảm bảo không để cho đối tượng tẩu tán, tiêu hủy tài liệu, vật chứng của vụ án. - Khám nghiệm tử thi có ảnh hưởng rất lớn đến phong tục, tập quán và tình cảm của những người gần gũi, có mối quan hệ với tử thi, khi thực hiện biện pháp này cần chú ý tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, tìm ra sự thật của vụ án. Hoạt động khám xét còn bao gồm cả khám xét lại người, đồ vật, chỗ ở, địa điểm, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm. 2.6. Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể 2.6.1. Khám nghiệm hiện trường Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự, do Điều tra viên trực tiếp tiến hành nhằm nghiên cứu, ghi nhận, mô tả hiện trường; phát hiện, thu thập, đánh giá các dấu vết, vật chứng, các tin tức, tài liệu liên quan tại hiện trường phục vụ cho điều tra, xử lý tội phạm, đồng thời phát hiện những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, phát hiện phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm để phục vụ phòng ngừa tội phạm. - Khám nghiệm hiện trường là một hoạt động điều tra phức tạp, đan xen nhiều yếu tố về tố tụng, về nghiệp vụ điều tra, kỹ thuật hình sự, tổ chức lực lượng, thậm chí có thể liên quan đến hoạt động điều tra khác được tiến hành đồng thời như việc lấy lời khai. - Những người trực tiếp thi hành cần chú ý rèn luyện tư duy tốt về nghiệp vụ điều tra, đầu tư tốt trang bị kỹ thuật phục vụ cho công tác khám nghiệm hiện trường đảm bảo được tính khoa học và hiệu quả cao. 17 - Trong nhiều trường hợp, khám nghiệm tử thi không đưa ra được kết luận cuối cùng thì phải tiến hành thêm biện pháp giám định để có được câu trả lời cho vụ án. 2.6.3. Xem xét dấu vết trên thân thể Xem xét dấu vết trên thân thể là biện pháp điều tra nhằm phát hiện trên thân thể người bị bắt bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng để phát hiện dấu vết của tội phạm hoặc các dấu vết khác có ý nghĩa đối với vụ án. - Chỉ có những vụ án mà Điều tra viên thấy cần thiết phải tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể để khẳng định được những chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập. 2.7. Thực nghiệm điều tra Thực nghiệm điều tra là một biện pháp điều tra do cơ quan điều tra tiến hành theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà bản chất của nó là sử dụng những kiến thức chuyên môn, kỹ thuật cần thiết nhằm tiến hành các hoạt động thực nghiệm dưới dạng: dựng lại, diễn lại, thử nghiệm những hành vi, tình huống, tình tiết của một sự việc nhất định có ý nghĩa đối với vụ án nhằm xác định khả năng diễn ra của chúng và kiểm tra, củng cố những chứng cứ đã có, thu thập chứng cứ mới, kiểm tra đánh giá những giả thuyết điều tra, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và phòng ngừa tội phạm 18 - Kết quả thực nghiệm điều tra là phương tiện để kiểm tra kết quả điều tra. giám định là những trường hợp liên quan trực tiếp đến việc xác định tội danh, cũng như khung hình phạt dành cho người phạm tội. - Tác dụng chính của thực nghiệm điều tra là giải quyết những mâu thuẫn phát sinh từ những tình tiết, tình huống nào đó có ý nghĩa cho hoạt động điều tra. Trong quá trình giám định, giám định viên có thể phát hiện cho cơ quan điều tra những nguyên nhân, điều kiện thực hiện việc phạm tội; những sơ hở, thiếu sót của ta và những thủ đoạn hoạt động của kẻ phạm tội. Điều đó có ý nghĩa phòng ngừa tội phạm hoặc có tác dụng đấu tranh đối với hoạt động phạm tội. - Không phải là biện pháp cuối cùng để đi đến sự thật khách quan của vụ án. Trong khi thực nghiệm điều tra, Điều tra viên sẽ phát hiện ra những mâu thuẫn trong những chứng cứ đã thu thập được. Sau khi tiến hành hoạt động thực nghiệm điều tra sẽ là cơ sở cho việc tiến hành các biện pháp điều tra tiếp theo. Đến khi nào các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án đều đã được kiểm chứng và phù hợp với nhau thì mới có thể coi là hoạt động điều tra kết thúc, sự thật của vụ án được làm sáng tỏ. 2.8. Trưng cầu giám định Trưng cầu giám định là việc cơ quan hoặc người tiến hành tố tụng đề nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét, kết luận một vấn đề về chuyên môn, kỹ thuật cần được làm rõ trong vụ án hình sự trong những trường hợp do pháp luật quy định hoặc khi cần thiết. Những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định: - Nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao động; - Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; - Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án; - Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án nếu không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; - Chất độc, chất ma túy, chất phóng xạ, tiền giả. Pháp luật không quy định việc cá nhân tự mình trưng cầu giám định. Trong nhiều trường hợp khi kết quả cá nhân tự trưng cầu giám định sẽ được cơ quan điều tra xác minh và chấp nhận, nhưng có những cơ quan điều tra lại không chấp nhận việc trưng cầu giám định của cá nhân. Việc trưng cầu giám định của người tham gia tố tụng cũng là một hoạt động để đưa ra chứng cứ chứng minh cho vụ án, vì vậy cần phải được tôn trọng, cơ quan điều tra có thể sử dụng những kết quả trưng cầu giám định của người tham gia tố tụng phục vụ cho quá trình chứng minh sự thật của vụ án sau khi đã thẩm định lại tính hợp pháp và sự chính xác của kết quả đó. 2.8.1. Việc tiến hành giám định Việc tiến hành giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu giám định. Thứ nhất: tiến hành tại cơ quan giám định bởi giám định tư pháp là công việc phức tạp, đòi hỏi phải sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên ngành, phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ với thời gian cần thiết. Đồng thời, tại cơ quan giám định sẽ đáp ứng được yêu cầu bảo mật về nội dung vụ án. Thứ hai: Tại hiện trường, việc tiến hành giám định đáp ứng được yêu cầu kịp thời của hoạt động điều tra và giải quyết vụ án. 2.8.2. Nội dung kết luận giám định Ngoài ra, xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định. Những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu Kết luận giám định là lời khẳng định mang tính chuyên môn của người giám định về vấn đề được trưng cầu. Từ kết luận này, cơ quan điều tra và cụ thể là Điều tra viên sẽ đưa ra được hướng điều tra tiếp theo hoặc 19 20 kết luận về nội dung vụ án đang cần được làm sáng tỏ. Kết luận giám định hoàn toàn không đồng nghĩa với kết luận về nội dung vụ án. 2.8.3. Giám định bổ sung hoặc giám định lại Giám định bổ sung được tiến hành trong trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh những vấn đề mới liên quan đến những tình tiết của vụ án đã được kết luận trước đó. Giám định lại được tiến hành trong khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định. Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ 3.1. Dự báo tình hình tội phạm và những yêu cầu đối với công tác điều tra trong giai đoạn mới Trong quá trình đổi mới đất nước, do tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình tội phạm ở nước ta trong thời gian vừa qua và trong những năm tới đang và sẽ diễn biến rất phức tạp; tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt về thủ đoạn, phương thức và ngày càng nghiêm trọng về tính chất, mức độ nguy hiểm. Yêu cầu hệ thống cơ quan tư pháp ở nước ta, trong đó cơ quan điều tra phải được củng cố, kiện toàn, đổi mới toàn cả về quy mô và chất lượng, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Việc đổi mới mô hình tổ chức cơ quan điều tra cần được đặt trong tổng thể của tiến trình đổi mới hệ thống chính trị, bộ máy nhà nước và cơ quan tư pháp; phải kế thừa được những ưu điểm của mô hình tổ chức cơ quan điều tra trong quá trình hình thành, phát triển từ năm 1945. Các cơ quan điều tra cùng với các Điều tra viên là chủ thể tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra vụ án. Việc bố trí, sắp xếp đội ngũ Điều tra viên, tổ chức phân công công việc hợp lý cho từng người quyết định sự thành công hay thất bại trong công tác điều tra. Cán bộ điều tra cần không ngừng học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tự rèn luyện các phẩm chất nhân cách để ngày càng hoàn thiện mình. Bên cạnh yêu cầu thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động trinh sát và hoạt động điều tra, cần hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan điều tra theo nguyên tắc phải tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao để cơ quan điều tra trở thành công cụ đủ mạnh của Nhà nước nhằm ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả mọi hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, trật 21 22 tự an toàn xã hội..., không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới đất nước, đáp ứng được yêu cầu kịp thời, nhanh nhạy trong việc điều tra, khám phá tội phạm. 3.2. Những giải pháp 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự, đặc biệt là pháp luật về điều tra trong tố tụng hình sự - Về thời hạn của việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm: Cần quy định thời hạn cho từng giai đoạn giải quyết vụ án hợp lý hơn, vừa đảm bảo được yêu cầu giải quyết vụ án nhanh chóng, đồng thời, đảm bảo thời gian cho những vụ án có tính chất phức tạp. - Nên bổ sung biện pháp ghi âm, ghi hình khi lập biên bản hoạt động tố tụng tại Điều 95, Điều 125 BLTTHS. 3.2.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác điều tra Nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất Điều tra viên - Xây dựng cho cán bộ điều tra tư cách đạo đức trong sáng, mẫu mực, biết đặt lợi ích của Nhà nước, của tập thể, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, có ý thức cao về nhiệm vụ, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; tạo mối quan hệ tốt với quần chúng nhân dân. - Cần ưu tiên lựa chọn và bố trí vào các cơ quan điều tra những cán bộ có khả năng hoạt động điều tra như: hiểu biết rộng; có khả năng quan sát tốt, nhạy bén và nhanh chóng phát hiện được vấn đề, có khả năng diễn đạt lập luận lôgíc, chặt chẽ, có tác phong chững chạc, có khả năng kiềm chế bản thân và có độ ổn định cảm xúc, ý chí cao. Hoàn thiện tổ chức, biên chế các cơ quan điều tra. - Cần bổ sung vào Điều 139 BLTTHS về đối tượng là băng ghi âm, ghi hình để nhận dạng, phù hợp với sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay. - Xây dựng tổ chức biên chế cho phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của từng địa phương. - Để đảm bảo tính khách quan và quyền lợi của bị can, bị cáo thì BLTTHS cần có quy định khi cơ quan điều tra mở niêm phong và kiểm tra các thông tin được lưu giữ trong các máy tính, ổ cứng, đĩa mềm, đĩa CD, ổ USD phải có mặt Kiểm sát viên, chủ sở hữu hoặc người quản lý máy tính, các ổ đĩa máy tính đó. - Xây dựng nguồn nhân lực dự trữ dồi dào để có thể sẵn sàng đáp ứng được yêu cầu trong bất kỳ tình huống nào. - Cần quy định về việc cho phép người tham gia tố tụng tự mình yêu cầu giám định (tự chi phí). Cần tránh những quan niệm sai lầm cho rằng BLTTHS chỉ quy định cơ quan điều tra mới có thẩm quyền trưng cầu giám định, cho nên chỉ có những kết luận giám định do cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu mới có giá trị chứng minh. + Nguồn được tuyển chọn từ các trường đào tạo nghiệp vụ; + Đội ngũ chiến sĩ nghĩa vụ có nguyện vọng ở lại phục vụ lâu dài trong lực lượng vũ trang. Những đối tượng này đều phải được thẩm tra tư cách lý lịch rõ ràng, phẩm chất đạo đức trong sáng. Giáo dục, đào tạo gắn chặt với sử dụng Điều tra viên theo quy trình chặt chẽ, định hướng thống nhất cho cả nhà trường và cơ quan chuyên môn - Cần có những quy định thích hợp để chuyển hóa tài liệu trinh sát thành chứng cứ gián tiếp bằng cách sử dụng tài liệu đó như là một phương pháp tác động tâm lý trong việc hỏi cung bị can, lấy lời khai của người tham gia tố tụng, thực nghiệm điều tra, xây dựng và khám nghiệm hiện trường v.v… - Từ khâu tuyển chọn đầu vào của cán bộ làm công tác điều tra bằng việc kiểm tra sức khỏe, xác minh lý lịch, kiểm tra những kiến thức cần thiết cũng như tư cách đạo đức trước khi tiến hành đào tạo chuyên môn nghiệp vụ. 23 24 - Thường xuyên sàng lọc sao cho lựa chọn được những cán bộ vững về chính trị, mẫu mực về đạo đức và giỏi về chuyên môn để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao trong điều kiện tốt nhất. - Coi trọng việc tập huấn bồi dưỡng cho Điều tra viên Đổi mới hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đề cao tính độc lập sáng tạo của Điều tra viên. - Đào tạo, gắn chặt với tình huống thực tế, phát huy tính độc lập sáng tạo của học viên để có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc sau khi kết thúc khóa đào tạo, tiếp cận với công việc thực tiễn. Tăng cường việc bảo đảm phương tiện, kỹ thuật hiện đại cho cơ quan điều tra Trang bị phương tiện, kỹ thuật hiện đại cũng đồng nghĩa với việc những người trực tiếp làm công tác điều tra cũng cần thường xuyên học hỏi để làm chủ công nghệ, kỹ thuật, biết tận dụng công cụ, máy móc phục vụ cho công việc của mình. Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích, động viên cán bộ điều tra - Tạo cơ chế chính sách hỗ trợ khuyến khích cán bộ điều tra giữ vững được lập trường kiên định của mình. - Chế độ khen thưởng xứng đáng mỗi khi họ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tăng cường mối quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan, đặc biệt là giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. - Mối quan hệ với Viện kiểm sát: kiểm tra việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, nhằm đảm bảo hoạt động điều tra tuân thủ các quy định của BLTTHS và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Tăng cường mối quan hệ chặt chẽ hơn nữa với Viện kiểm sát giúp cơ quan điều tra thực hiện công việc của mình đúng thủ tục hơn, thuận lợi hơn trong việc khám phá vụ án. - Chú trọng tới quan hệ quần chúng và mối liên hệ với các cơ quan, tổ chức khác. Cần cho họ thấy trách nhiệm của mình trong việc giúp đỡ cơ quan điều tra khám phá sự thật của vụ án, nhận thức được trách nhiệm tố giác tội phạm không chỉ có ý nghĩa giúp cơ quan điều tra hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, mà còn có ý nghĩa trong việc bảo vệ trật tự trị an xã hội, bảo vệ an toàn cho cơ quan, tổ chức và cá nhân. 25 KẾT LUẬN Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự là đề tài rộng, phức tạp và đòi hỏi kinh nghiệm thực tiễn sâu rộng. Với khả năng có hạn, chúng tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài và đạt được một số kết quả khiêm tốn. Những kết quả đó được thể hiện ở một số điểm sau đây: 1- Có vai trò quan trọng trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án, từ đó xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đề ra phương hướng khắc phục trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, hoạt động điều tra trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Từ những ngày đầu thành lập nước, Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nhận thức rằng công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm là một trong những công tác trọng tâm và ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực hoạt động này. Cho đến nay đã có nhiều văn bản pháp luật ra đời, củng cố thêm hệ thống pháp luật về hoạt động điều tra nói chung và các biện pháp điều tra nói riêng mà BLTTHS năm 2003 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự năm 2004 là những văn bản pháp lý có giá trị cao nhất và đang có hiệu lực thi hành. Tuy vẫn còn những quy định chưa phù hợp với thực tế, nhưng các biện pháp điều tra được quy định trong tố tụng hình sự đã thể hiện được những điểm tiến bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, khám phá sự thật khách quan của vụ án. 2- Trong số các biện pháp điều tra được phân tích ở chương hai, mỗi biện pháp lại được sử dụng trong một hoàn cảnh, điều kiện khác nhau, và có phương thức thực hiện khác nhau, nhưng đều có thể giúp cho cán bộ làm công tác điều tra xác định sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, có thể nói, các biện pháp điều tra đó có giá trị ngang nhau, không phụ thuộc vào đó là biện pháp đơn giản hay phức tạp, tiến hành trước hay sau. Mỗi biện pháp đều thể hiện được ưu điểm và nhược điểm trong quá trình sử dụng. Tuy nhiên, điều đó lại không làm ảnh hưởng đến hoạt động điều tra nếu cán bộ làm công tác điều tra biết cách sử dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn những biện pháp đó trong từng tình huống cụ thể. 26 3- Để thực hiện được các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự, cán bộ làm công tác điều tra không chỉ dựa vào những quy định của pháp luật mà còn phải không ngừng nâng cao kỹ năng nghiệp vụ của mình. Pháp luật về các biện pháp điều tra chỉ quy định trình tự, thủ tục thực hiện, còn chiến thuật thực hiện trong từng điều kiện, hoàn cảnh, trong từng vụ án cụ thể lại phụ thuộc vào phương pháp, kinh nghiệm của mỗi cán bộ làm công tác điều tra. Điều này không được giảng dạy trong các trường đào tạo hay được quy định trong các văn bản pháp luật mà phải thông qua hoạt động thực tiễn, cán bộ làm công tác điều tra tự tích lũy cho mình. 4- Bước sang thế kỷ 21, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước. Cùng với việc mở rộng mối quan hệ hòa bình, hợp tác, hữu nghị với các nước trên thế giới, nền kinh tế nước ta đã không ngừng phát triển. Song song với đó là sự giao lưu văn hóa, xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh những thành quả đã đạt được, xã hội đã xuất hiện không ít những mặt tiêu cực. Nổi bật lên là những loại tội phạm có tính chất nguy hiểm, những băng nhóm côn đồ, hành xử theo kiểu xã hội đen, những tội phạm xuyên quốc gia, tội buôn người, rửa tiền... nhóm tội phạm sử dụng công nghệ kỹ thuật cao phục vụ cho mục đích đen tối của chúng. Điều này là một khó khăn thách thức lớn cho những người làm công tác bảo vệ pháp luật nói chung và công tác điều tra nói riêng. Muốn hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm có hiệu quả thì trước hết phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện về lĩnh vực đó. Tiếp sau đó cần phải tập trung đầu tư vào yếu tố con người. Phải đào tạo được nguồn cán bộ làm công tác điều tra có đầy đủ tâm, tầm và tài để có thể đối phó được với mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ xấu. 5- Để nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, cần có hệ thống các giải pháp toàn diện, đồng bộ. Trong đó, các giải pháp quan trọng là hoàn thiện các quy định của BLTTHS về điều tra nói chung, các biện pháp điều tra nói riêng, các biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động điều tra như nâng cao trình độ, năng lực Điều tra viên. Hoàn thiện tổ chức, biên chế các cơ quan điều tra, tăng cường trang bị phương tiện kỹ thuật cho cơ quan điều tra, tăng cường mối quan hệ giữa các cơ quan liên quan trong điều tra vụ án hình sự v.v... 27 28
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan