Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở từ thực tiễn quận sơn trà, thành ...

Tài liệu Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở từ thực tiễn quận sơn trà, thành phố đà nẵng

.PDF
64
515
100

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ QUỲNH ANH CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, năm 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ QUỲNH ANH CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 834.04.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Người Hướng Dẫn Khoa Học PGS.TS. NGUYỄN KHẮC BÌNH HÀ NỘI, năm 2018 LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc” [16, tr269], công việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ. Cán bộ phải giỏi mới thực hiện tốt hoạt động công vụ. Chính vì vậy, đội ngũ CBCC luôn được Đảng ta quan tâm ĐTBD và có chính sách cụ thể trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Cơ sở vừa là cấp cuối cùng trong quản lý xét theo cấp độ của hệ thống chính trị, nhưng nó là cấp đầu tiên và trực tiếp nhất, là nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta. Vì cơ sở là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc sống của nhân dân, nơi chính quyền gần dân nhất. Nơi tổ chức và triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Mọi đường lối, chủ trương có được thực hiện tốt hay không phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của cấp cơ sở, mà nhất là phụ thuộc vào phẩm chất, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ đảng viên trong các tổ chức đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở. Chất lượng, hiệu quả hoạt động của cấp cơ sở có ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, thái độ, niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước. Cán bộ cơ sở phải là người có năng lực giỏi, chuyên môn sâu, kỹ năng xử lý tình huống… để tập hợp được sức mạnh toàn dân hướng vào phát triển chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, họ phải thực sự là những người tận tâm, tận lực, gương mẫu. Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCS là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, nhà nước và cả hệ thống chính trị trong công cuộc cải cách hành chính 1 cũng như phát triển đất nước. Tuy nhiên, ở cấp cơ sở hiện nay, chất lượng đội ngũ CBCC trong cả nước nói chung và ở quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng nói riêng còn bộc lộ những hạn chế, thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu; tư tưởng bảo thủ, ỷ lại, ngại tiếp thu cái mới, kém năng động, sáng tạo còn phổ biến trong một bộ phận công chức; một số công chức có biểu hiện dao động, cơ hội, bè phái, tham ô, sách nhiễu nhân dân… đã làm giảm uy tín trong nhân dân, hiệu quả quản lý cơ sở thấp. Để nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCS, việc thực hiện chính sách ĐTBD cho đội ngũ này là một trong các giải pháp hết sức quan trọng. Trong bối cảnh trên, cần có một sự nghiên cứu toàn diện về thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS góp nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực của đội ngũ cán bộ cơ sở của quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng trong những năm tới. Từ những lý do nêu trên tác giả lựa chọn đề tài: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở từ thực tiễn quận Sơn Trà, Thành Phố Đà Nẵng” đề làm luận văn thạc sỹ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Công tác ĐTBD CBCC tuy không còn xa lạ bởi đã có nhiều công trình khảo sát nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC được xem là vấn đề then chốt trong thời kỳ đổi mới. Quan tâm ĐTBD cho đội ngũ CBCC những kiến thức về lý luận chính trị, về lãnh đạo, quản lý, về khoa học xã hội, nhân văn và những kiến thức chuyên môn phù hợp với công việc được giao. Công chức, chất lượng CBCC là vấn đề được sự quan tâm của nhiều tác giả, là đề tài được hội nghị tại nhiều hội thảo trong và ngoài nước. Tác giả Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm đồng chủ biên: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 2 trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003. Trong tác phẩm này, các tác giả đã khẳng định được rõ vị trí, vai trò và yêu cầu khách quan, cấp bách của việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC. Đồng thời, hệ thống hóa các căn cứ khoa học của việc nâng cao chất lượng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với thời kỳ CNH – HĐH ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nội dung tác phẩm chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu đối tượng CBCC nói chung mà chưa đi sâu vào đối tượng đặc thù là CBCCS. Cuốn sách “Đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý – Kinh nghiệm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của TS.Tần Xuân Bảo, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2012 đã khái quát nội dung, đánh giá thực trạng công tác ĐTBD lãnh đạo quản lý để làm căn cứ đổi mới công tác ĐTBD lãnh đạo quản lý đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố hiện nay. Luận án tiến sỹ “Hoàn thiện việc xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước chuyên nghiệp ở Việt Nam” Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của Chu Xuân Khánh, 2010. Luận án đã đề cập đến những quan điểm về công chức nhà nước của một số quốc gia khác nhau, làm cơ sở để phân tích, so sánh với thực tiễn công chức ở Việt Nam. Từ đó góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về đội ngũ công chức hành chính nhà nước và tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức hành chính nhà nước. Tác giả đã phân tích, đánh giá thực trạng về xây dựng và phát triển đội ngũ công chức hành chính ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ công chức hành chính chuyên nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, tác giả đã tiếp cận theo hướng quản lý hành chính mà không trên quan điểm khoa học về chính sách công. 3 Ngoài ra, còn có một số bài viết, nghiên cứu được đăng trên các Tạp chí Tổ chức nhà nước, Tạp chí Cộng sản như: Nguyễn Thị Kim Dung và Nguyễn Thanh Thủy (2013), “Những kỹ năng cần thiết của nguồn nhân lực hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng Sản. TS Dương Trung Ý (17/7/2013),“Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn”, thông tin điện tử nhà xuất bản chính trị quốc gia - sự thật. Đoàn Văn Tình (16/3/2015), “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, góp phần xây dựng chính quyền địa phương vững mạnh”, Tạp chí Điện tử tổ chức nhà nước. ThS. Trần Thị Hạnh (3/7/2015),“Chất lượng đội ngũ cán bộ, c á n b ộ c ấ p c ơ s ở từ sau Hội nghị Trung ương 5 khóa IX và một số kiến nghị”, Tạp chí Cộng sản. Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và có những đóng góp nhất định trong việc đề ra chủ trương, đường lối, chính sách và tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức ở nước ta. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên tập trung chủ yếu mặt phương pháp luận hoặc nghiên cứu trong phạm vi rộng dưới góc độ của quản lý công (cả đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước), chưa đi sâu nghiên cứu dưới góc độ về chính sách công cũng như cụ thể về thực hiện chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, CBCCS. Dưới góc độ khoa học, các công trình nói trên có giá trị đối với những người đã và đang nghiên cứu về chất lượng cán bộ, công chức. Tuy nhiên, ở quận Sơn Trà chưa có công trình nghiên cứu nào cụ thể và toàn diện về thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS dưới góc độ khoa học chính sách công. Vì 4 vậy, tác giả nghiên cứu đề tài: Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở từ thực tiễn quận Sơn Trà, Thành Phố Đà Nẵng” góp phần làm sinh động thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCS phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS và thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng để đề ra một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận trong những năm tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xây dựng khái niệm có liên quan về thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS - Đánh giá thực trạng công tác thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây. - Đề xuất những giải pháp thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn Trà trong những năm tiếp theo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Giải pháp thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng. 4.2. Khách thể nghiên cứu Thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng. 4.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn đề cập đến thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng và không đề cập đến những vấn đề hoạch định và 5 đánh giá chính sách. Về không gian: Các phường thuộc quận Sơn Trà, Thành phố Đà Nẵng. Về thời gian: số liệu trong khoảng thời gian 5 năm từ năm 2012 – 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về xây dựng CBCC nói chung và CBCCS nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Các phương pháp cụ thể được sử dụng: * Phương pháp thống kê - phân tích - Thu thập tài liệu thức cấp: Thập số liệu từ các tài liệu, báo cáo đã công khai và trên website của UBND quận Sơn Trà. - Thu thập tài liệu sơ cấp: Toàn bộ số liệu phục vụ cho nghiên cứu luận văn tác giả thu thập qua khảo sát, điều tra thông qua phiếu điều tra * Phương pháp tổng hợp - so sánh - Phương pháp phân tích: phân tích các báo cáo liên quan đến tình hình hoạt động của đơn vị và các biện pháp thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS. - Phương pháp so sánh: sử dụng so sánh để đối chiếu giữa các năm hoạt động của đơn vị. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn hệ thống hóa và làm rõ các khái niệm, các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS. 6 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Dựa trên kết quả nghiên cứu thực tế về thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS tại quận Sơn Trà, Luận văn nêu lên thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS để đề xuất các giải pháp thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS tại quận Sơn Trà. Đây là những tư liệu kinh nghiệm cho các nhà quản lý ở các cơ quan hành chính nhà nước, địa phương tham khảo trong việc thực hiện chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS ở, địa phương mình. 7. Bố cục của luận văn Luận văn này ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, nội dung chính chia làm 3 chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở Chương 2. Thực trạng chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng Chương 3. Giải pháp chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng 7 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ CẤP CƠ SỞ 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Cấp cơ sở Hệ thống 4 cấp của quản lý hành chính nhà nước của nước ta hiện nay gồm: Trung ương - tỉnh, thành phố - quận, huyện - xã, phường. Bốn cấp quản lý này được tổ chức theo một hệ thống dọc. Từ trên xuống sẽ là trung ương - địa phương và cơ sở. Nếu nhìn dưới lên sẽ là cơ sở - địa phương và toàn quốc. Nói đến cấp xã là nói đến cấp cơ sở, chính quyền cấp xã là chính quyền cấp cơ sở. Cơ sở nhìn chiều từ trên xuống, xét về quy mô và cấp độ tổ chức là cấp thấp nhất, cấp cuối cùng. Cũng có thể coi cấp cơ sở là cấp nhỏ nhất. Nếu trung ương và toàn quốc được xem là một chỉnh thể, hệ thống của cái vĩ mô, đứng đầu là nhà nước trung ương. Cơ sở thường được xem là cái vi mô, là một tế bào, một phần tử hợp thành của cái vĩ mô - cả nước và toàn quốc như một cơ thể sống. Xét theo quan hệ quyền lực, quyền hạn, chức trách của tổ chức nhà nước, cấp cơ sở là thấp nhất, nhỏ nhất. Chính quyền cấp cơ sở cũng như hệ thống chính trị cấp cơ sở đương nhiên chịu sự chỉ đạo, kiểm soát của cấp trên, từ huyện, tỉnh tới Trung ương. Cái nhỏ nhất, thấp nhất đó còn được minh chứng bởi quy mô diện tích, địa giới hành chính và số lượng dân cư mà xã/phường quản lý. Cấp cơ sở là nơi gần dân nhất, là cầu nối trực tiếp giữa cơ quan quản lý hành chính nhà nước với nhân dân, hàng ngày lắng nghe, nắm bắt và 8 phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Cấp cơ sở có vai trò quan trọng trong việc triển khai và vận động nhân dân thực hiện tốt mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh – quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Cấp cơ sở còn là nơi chứng thực đường lối, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống và được triển khai cụ thể ra sao, bởi chính sách dù khoa học, đúng đắn đến đâu thì cũng chỉ là những khả năng khoa học, là chủ quan của một phía từ những nghiên cứu, chưa đủ để khẳng định hiệu quả nếu không đưa vào thực tiễn cơ sở phong phú, phải được vật chất hoá ở đời sống người dân, phải được thể chế hoá chặt chẽ qua hoạt động của cơ sở. Cấp cơ sở là cấp hành động, cấp hoạt động, tổ chức thực hiện đường lối chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Trong luận văn, tác giả sử dụng thuật ngữ cấp cơ sở thay cho cấp xã. Do đó từ phần nghiên cứu này trở đi, thuật ngữ cấp xã được thay thế bằng thuật ngữ cấp cơ sở. 1.1.2. Cán bộ cấp cơ sở Theo khoản 3, Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “ Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị- xã hội; Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”. 9 Theo Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với CBCC xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã: - CBCCS có các chức danh sau đây: + Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; + Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; + Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam; Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có Tổ chức Hội Nông dân Việt Nam). + Trưởng Công an + Chỉ huy trưởng Quân sự + Địa chính – xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã) + Văn phòng - thống kê + Tài chính - kế toán + Tư pháp - hộ tịch + Văn hóa - xã hội - Số lượng CBCC cấp cơ sở được bố trí theo loại đơn vị hành chính cấp cơ sở; cụ thể như sau: + Cấp cơ sở loại 1: không quá 25 người; + Cấp cơ sở loại 2: không quá 23 người; + Cấp cơ sở loại 3: không quá 21 người. 10 - Số lượng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp cơ sở: + Cấp cơ sở loại 1 được bố trí tối đa không quá 22 người. + Cấp cơ sở loại 2 được bố trí tối đa không quá 20 người. + Cấp cơ sở loại 3 được bố trí tối đa không quá 19 người. 1.1.3. Đặc điểm của cán bộ cấp cơ sở Đội ngũ CBCCS gồm cán bộ chuyên trách, công chức và những người hoạt động không chuyên trách có các đặc điểm sau: Thứ nhất, là những người thực thi công vụ ở cấp cơ sở Công vụ là một loại hoạt động mang tính quyền lực – pháp lý được thực thi bởi những người được nhà nước trao quyền, nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quá trình quản lý toàn diện các mặt hoạt động của đời sống xã hội. Họ được trao quyền thực thi công vụ. Đồng thời, họ có trách nhiệm phục vụ xã hội, công dân và chịu trách nhiệm liên quan đến chức trách mà mình đang đảm nhiệm. Thứ hai, được nhà nước đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng và yên tâm thực thi công vụ. CBCCS được nhà nước cung cấp những điều kiện cần thiết để tiến hành thực thi công vụ như trụ sở, điều kiện, phương tiện làm việc. Họ được đảm bảo những quyền lợi vật chất và tinh thần như: Hưởng lương từ ngân sách nhà nước tương xứng với chức trách, công việc được giao, được hưởng các loại phụ cấp, trợ cấp và hưởng lương hưu khi có đủ thời gian công hiến cho nên công vụ. Thứ ba, đội ngũ CBCCS hầu hết là người địa phương, sinh sống tại địa phương, có quan hệ dòng tộc và gắn bó mật thiết với nhân dân. Bản thân những cán bộ cấp cơ sở đa phần đều trưởng thành từ các hoạt động của tổ, khu vực nên mang những đặc tính của người địa 11 phương. Họ vừa là những người đại diện cho lực lượng sản xuất, vừa là đại diện quyền lực của nhà nước tại địa phương. Thứ tư, hoạt động công vụ của CBCCS là hoạt động đa dạng và phức tạp, đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên và chuyên nghiệp. Cấp cơ sở là nơi trực tiếp giải quyết các vấn đề của người dân, so với các cấp quản lý khác trong bộ máy quản lý nhà nước thì quy mô của cấp cơ sở nhỏ hơn nhưng các vấn đề cần giải quyết thường phức tạp hơn do mỗi người dân có hoàn cảnh, nhu cầu và lợi ích khác nhau, họ hành động xuất phát từ lợi ích của họ nhiều hơn lợi ích của hệ thống. Chính vì vậy, CBCCS phải có chuyên môn sâu, am hiểu thực tế và có kinh nghiệm giải quyết những tình huống khác nhau. 1.1.4. Đào tạo, bồi dưỡng Một số nước trên thế giới quan niệm thuật ngữ “tu nghiệp” thay vì “ĐTBD”. Bồi dưỡng thường diễn ra sau đào tạo, nghĩa là sau khi người lao động đã có một nghề về một lĩnh vực chuyên môn để có thể lập nghiệp. ĐTBD CBCC được xác định như là một quá trình có kế hoạch làm biến đổi thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc học tập rèn luyện để làm việc có hiệu quả trong một hoạt động hay trong một loạt các hoạt động nào đó, theo định nghĩa của Ủy ban Nhân lực của Anh. Mục đích của nó, xét theo tình hình công tác ở tổ chức, là phát triển nâng cao năng lực cá nhân và đáp ứng nhu cầu nhân lực hiện tại và tương lai của cơ quan. Trong đạo luật Liên bang của Mỹ, đào tạo được xác định như là một quá trình cung cấp và tạo dựng khả năng làm việc cho người học và bố trí, đưa họ vào các chương trình, khoá học, môn học, hệ thống hoặc nói cách khác là huấn luyện và giáo dục được chuẩn bị, có kế hoạch, có sự kết hợp trong các lĩnh vực khoa học, chuyên ngành, kỹ thuật, cơ khí, thương mại, văn phòng, tài chính, 12 hành chính hay các lĩnh vực khác nhằm nâng cao kết quả thực hiện công việc của cá nhân, tổ chức và giúp họ hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu công tác. Ở Việt Nam, Nghị định 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ về ĐTBD công chức đưa ra định nghĩa đào tạo công chức như sau: Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học. Nghị định 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ về ĐTBD công chức đưa ra định nghĩa bồi dưỡng công chức như sau: Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc, gồm : - Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động theo chương trình quy định cho ngạch công chức. - Bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp làm việc theo chương trình quy định cho từng chức vụ lãnh đạo, quản lý. - Bồi dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao. Như vậy đào tạo được xem như là một quá trình làm cho người ta “trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định”, và bồi dưỡng được xác định là quá trình làm cho người ta “ tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất”. Một định nghĩa chung cho ĐTBD có thể được hiểu như là quá trình làm biến đổi hành vi con người một cách có hệ thống thông qua việc học tập, việc học tập này có được là kết quả của giáo dục, hướng dẫn, phát triển, và lĩnh hội kinh nghiệm theo một cách bài bản, có kế hoạch. Vì vậy, ĐTBD cán bộ chính là việc tổ chức những cơ hội cho cán bộ học tập nhằm trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng, thái độ, tăng cường năng lực làm việc để họ 13 thực hiện công việc được giao tốt hơn, hiệu quả hơn; qua đó giúp tổ chức đạt được mục tiêu của mình. Mục đích của việc ĐTBD cán bộ: - Phát triển năng lực làm việc cán bộ và nâng cao khả năng thực hiện công việc thực tế của họ. - Giúp cán bộ luôn phát triển để có thể đáp ứng được nhu cầu nhân lực trong tương lai của tổ chức. - Giảm thời gian học tập, làm quen với công việc mới của cán bộ do thuyên chuyển, đề bạt, thay đổi nhiệm vụ và đảm bảo cho họ có đầy đủ khả năng làm việc một cách nhanh chóng và tiết kiệm. Nhìn chung, ĐTBD là hoạt động nhằm: - Trang bị, bổ sung, nâng cao kiến thức, kỹ năng liên quan đến công việc. - Thay đổi thái độ và hành vi. - Nâng cao hiệu quả thực hiện công việc. - Hoàn thành những mục tiêu của cá nhân và của tổ chức. 1.1.5. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở 1.1.5.1. Chính sách công Thông thường người ta hiểu cụm từ “chính sách” khi nó có vai trò, chức năng của “khu vực công” thì được gọi là chính sách công. Vì vậy, trong thực tế nhiều nhà nghiên cứu có những định nghĩa khác nhau về chính sách công với chức năng, vai trò cũng có sự khác biệt. B. Guy Peter ( 1990) định nghĩa: “ Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”. Ở Việt Nam, tác giả Phạm Quý Thọ cho rằng: “chính sách công là những định hướng mục tiêu và biện pháp hành động, được Nhà nước lựa chọn và ban 14 hành như một công cụ quản lí của Nhà nước, nhằm giải quyết các vấn đề công cộng được lựa chọn và được thực thi bởi các chủ thể có thẩm quyền” [24]. Tác giả Nguyễn Khắc Bình đưa ra khái niệm về chính sách công như sau: Chính sách công là hoạt động mà chính phủ chọn thực hiện hoặc không thực hiện để điều hòa các xung đột trong xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng nhất định [2]. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng khái niệm về chính sách công của tác giả Nguyễn Khắc Bình để làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS tại một địa phương 1.1.5.2. Thực hiện chính sách công Thực hiện chính sách được đưa ra như là việc mang lại quyết định cơ bản chính sách, thông thường tập hợp nhiều trạng thái nhưng cần hình thức quản lí trọng tâm, luật pháp. Xác định những hành vi bằng việc hướng tới mục tiêu thông qua việc đưa ra quyết định công. Thực hiện chính sách là sự phát triển giữa những gì chính phủ đưa ra tiếp theo là chương trình hành động. Nghĩa là sau khi ban hành, chính sách phải được triển khai trong đời sống xã hội. Tác giả Nguyễn Khắc Bình định nghĩa thực hiện chính sách công như sau: Thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lí nhằm đạt được mục tiêu định hướng của Nhà nước [2]. Trong nghiên cứu này chúng tôi theo quan điểm của tác giả Nguyễn Khắc Bình để phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD CBCCS ở địa phương. 1.1.5.3. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cấp cơ sở Luật CBCC năm 2008 xác định “ nhà nước có chính sách để phát hiện, thu hút, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng đối với 15 người có tài năng” [ 21, tr21]. Công tác ĐTBD CBCCS được xem là nhiệm vụ then chốt trong công tác cán bộ. Do vậy, trên quan điểm về chính sách công nói chung và nhiệm vụ của ĐTBD CBCCS, có thể đưa ra khái niệm về chính sách ĐTBD cho CBCCS như sau: Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Chính sách ĐTBD CBCCS là một chính sách trong hệ thống các chính sách nhằm phát triển đội ngũ CBCCS. Chính sách đó là tập hợp các quyết định chính trị của Nhà nước tác động đến đối tượng CBCCS bao gồm nhiều hoạt động từ xây dựng chương trình, kế hoạch ĐTBD, lựa chọn người đi học, phương pháp tổ chức ĐTBD, chế độ đãi ngộ đối với người học và công tác kiểm tra công tác cử cán bộ đi học sao cho công tác đào tạo cán bộ đảm bảo về chất lượng, phù hợp về số lượng để CBCCS sau khi được ĐTBD đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Chính sách ĐTBD cho CBCCS là phương tiện thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác ĐTBD cho CBCCS. Dựa vào văn bản quy phạm pháp luật quy định chính sách ĐTBD đội ngũ CBCCS để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành, từng cấp, từng cơ quan về ĐTBD đội ngũ CBCCS. 1.1.5.4. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng a) Đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước (1) Về bồi dưỡng - Lý luận chính trị: gắn với tiêu chuẩn cán bộ được Đảng xác định mang tính nguyên tắc, thể hiện tại Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12-5-1999 của Bộ Chính trị về chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng. Việc học tập lý luận chính trị là trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, 16 quản lý; việc học tập lý luận chính trị không phải học một lần, học để lấy bằng cấp mà là việc phải thực hiện thường xuyên để kịp thời bổ sung những kiến thức mới. - Kiến thức quản lý nhà nước: Những khóa học này sẽ trang bị, cập nhật những kiến thức cần thiết về quản lý nhà nước và các kỹ năng thực thi công việc, đồng thời tăng cường ý thức phục vụ nhân dân, nâng cao năng lực công tác cho các CBCC trong việc thực hiện nhiệm vụ , quyền hạn và trách nhiệm được giao. - Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh: góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện, hiểu biết một số nội dung cơ bản về quốc phòng, an ninh; truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân về bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch; có kiến thức cơ bản về đường lối quốc phòng, an ninh và công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh; có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết để tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - Bồi dưỡng về ngoại ngữ, tin học theo quy định chuẩn của nhà nước. (2) Về đào tạo - Đào tạo trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học cho CBCC phù hợp với điều kiện và yêu cầu phát triển của từng vùng, miền. - Đào tạo chuyên môn nghiệp vụ sẽ cung cấp cho đội ngũ kiến thức quản lý kinh tế, kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức pháp luật và trình độ lý luận. Việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ rất cần thiết bởi đây là đội ngũ quyết định thành bại các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. - Đối với cán bộ lãnh đạo cần phải có nội dung đào tạo nhằm phát triển 17 kỹ năng quản lý, điều hành. b) Đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài: Đào tạo về khoa học quản lý ở một số ngành kinh tế - xã hội như quản lý môi trường, quản lý đô thị, quản lý xã hội, quản lý nhân sự…Lĩnh vực quản lý hành chính công quyền cần phải được tập trung ĐTBD nhằm góp phần chuyên nghiệp hóa các chính sách ở nước ta. 1.1.6. Các chủ thể thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng - Bộ Nội vụ chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở trong nước và ở nước ngoài; các chính sách liên quan đến CBCC. [9]. - HĐND và UBND thành phố: ban hành các chính sách về CBCCS bên cạnh các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 [22]. - Sở Nội vụ trực tiếp tham mưu cho UBND thành phố ban hành kế hoạch ĐTBD cho CBCC và phối hợp với Sở Tài chính thực hiện kinh phí trợ cấp cho hoạt động ĐTBD của CBCC theo quy định. Đồng thời hướng dẫn, kiểm tra, báo cáo kết quả hoạt động ĐTBD cho CBCC hằng năm theo quy định của Bộ Nội vụ. Sở Nội vụ tổng hợp danh sách do phòng Nội vụ quận cung cấp để trình UBND thành phố phê duyệt. Sau đó, Sở Nội vụ tiến hành mở các lớp ĐTBD với sự tham gia các cơ sở đào tạo. - Phòng Nội vụ quận ban hành các văn bản liên quan đến công tác ĐTBD gửi cho các cơ quan, đơn vị, UBND cấp cơ sở để khảo sát nhu cầu và đăng ký danh sách cần ĐTBD. Phòng Nội vụ sẽ tổng hợp, đối chiếu kiểm tra tình hình thực tế để lập danh sách gửi Sở Nội vụ sau khi được Quận ủy, UBND quận thống nhất. Sau khi được phê duyệt, phòng Nội vụ sẽ xây dựng kế hoạch và triển khai công tác ĐTBD cho đội ngũ CBCCS theo quy định. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan