Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu tiếng việt...

Tài liệu Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu tiếng việt

.PDF
126
616
67

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Đức CHỨC NĂNG CÚ PHÁP CỦA MỘT SỐ VAI NGHĨA TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Câu là đơn vị ngôn ngữ được ngôn ngữ học nói chung, ngữ pháp học nói riêng quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Ngữ pháp cổ điển cũng như một số khuynh hướng ngôn ngữ học hiện đại như cấu trúc luận, ngữ pháp tạo sinh coi câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong tổ chức ngữ pháp của một ngôn ngữ. Theo đó, việc nghiên cứu ngữ pháp thường chú trọng về đặc trưng cấu trúc của câu. Nói cách khác, câu chủ yếu được xem xét trên bình diện ngữ pháp với các vấn đề như: các thành phần ngữ pháp của câu, các kiểu cấu tạo ngữ pháp của câu và các quan hệ ngữ pháp trong câu. Kết quả nhiều vấn đề về câu chưa được giải quyết đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến nghĩa và hoạt động hành chức của câu. Xuất phát từ chức năng giao tiếp và một phần lí thuyết dụng học về sự tương tác ngôn từ (phần liên quan đến ngữ pháp), ngữ pháp chức năng không chỉ chú ý đến mặt hình thức mà còn chú ý đến mặt nghĩa và mặt chức năng của ngôn ngữ. Với ngữ pháp chức năng, các hiện tượng ngôn ngữ đã được các nhà ngôn ngữ học xem xét trên cả ba bình diện: ngữ phápngữ nghĩa- ngữ dụng, đặc biệt là mặt ngữ nghĩa. Từ khuynh hướng nghiên cứu này, câu không chỉ được coi là đơn vị cấu trúc mà còn là đơn vị của ngôn ngữ được con người trực tiếp sử dụng làm phương tiện giao tiếp. Nói cách khác, câu không phải là thứ câu trừu tượng mà gắn với tình huống ngữ cảnh cụ thể, đó là câu- phát ngôn. Ở đây, câu được xem xét đồng thời trên cả ba bình diện: kết học, nghĩa học- dụng học. Bình diện kết học chủ yếu xem xét cấu trúc cú pháp của câu với nhiệm vụ trung tâm là xác định các chức năng cú pháp trong câu. Bình diện kết học được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với bình diện nghĩa học của câu. Ngữ pháp chức năng đã cho thấy rõ mối quan hệ giữa cấu trúc cú pháp với cấu trúc nghĩa (nghĩa miêu tả) của câu. Đó là mối quan hệ giữa một bên là nội dung (cấu trúc nghĩa) và một bên là hình thức (cấu trúc cú pháp) của câu. Các chức năng cú pháp của câu thực chất là do các vai nghĩa chi phối khi chúng được hiện thực hóa trong câu. Gần đây, giới Việt ngữ học đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề vai nghĩa trong mối quan hệ với chức năng cú pháp của các thành phần câu và kết quả đạt được tương đối khả quan. Một số công trình nghiên cứu bước đầu đã khảo sát và lý giải về mối quan hệ giữa vai nghĩa và chức năng cú pháp. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại ở một số vai nghĩa và chức năng cú pháp tương ứng trong câu. Tiếp thu những thành tựu đó, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ của vai nghĩa với chức năng cú pháp trong câu. Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài “Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu. Việc nghiên cứu đề tài này có các ý nghĩa sau đây: - Về mặt lý luận: Tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về ngữ nghĩa học cú pháp, đặc biệt là cấu trúc nghĩa của câu, tìm hiểu khái niệm vai nghĩa (tham tố của vị từ), chọn một số vai nghĩa phổ biến trong cấu trúc nghĩa của câu, miêu tả những chức năng cú pháp ứng với các vai nghĩa này. - Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể có giá trị tham khảo về cấu trúc nghĩa, cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt. Luận văn có thể góp thêm ngữ liệu cho việc nghiên cứu, học tập về ngữ pháp tiếng Việt. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Việc nghiên cứu các vai nghĩa Việc nghiên cứu về vai nghĩa có thể nói là được bắt đầu khá sớm. Đầu tiên, chúng ta phải kể đến lý thuyết diễn trị của nhà ngôn ngữ học người Pháp L.Tesnière. L.Tesnière được biết đến với tác phẩm chính là Elements de syntaxe structurale được xuất bản vào năm 1959. Trong tác phẩm này, ông đã đưa ra khái niệm diễn trị (valence) và các khái niệm có liên quan khác trong đó có diễn tố (actants) và chu tố (circumstants) vào nghĩa học của cú pháp. “Cú pháp dựa trên nghĩa học”(semantically based syntax) của L.Tesnière đã khiến ông trở thành một trong những người sáng lập ra lý thuyết diễn trị (valency theory) – cách phân tích câu dựa trên cấu trúc nghĩa của các vai (role) [Dẫn theo 44: 4]. Theo ông, “Cấu trúc cú pháp của câu xoay quanh vị từ và các diễn tố (actants) làm bổ ngữ cho nó. Chủ ngữ chẳng qua là một trong các bổ ngữ đó. Mỗi vị từ biểu hiện “một màn kịch nhỏ”, nó có một diễn trị (valence) riêng được thể hiện trong số lượng các diễn tố của nó [Dẫn theo 23: 81]. Các vị từ khác nhau cơ bản về số lượng các diễn tố trong vị ngữ. Điều này có nghĩa là dựa trên tiềm lực cú pháp- ngữ nghĩa của vị từ để phân loại chúng thành: - Vị từ vô trị (avalents) không có diễn tố nào trong câu và vì vậy mà (ngữ đoạn) vị từ là phương tiện từ vựng- cú pháp duy nhất biểu hiện sự tình. Ví dụ như vị từ pleut, il pleut ‘mưa’ không có diễn tố nào. - Vị từ đơn trị (monovalents) có một diễn tố, ví dụ như: tomber ‘ngã’. - Vị từ song trị (bivalents) có hai diễn tố, ví dụ như: frapper ‘đánh’. - Vị từ tam trị (trivalents) như donner ‘cho’ L.Tesnière đã phân biệt diễn tố và chu tố- cái vẽ nên bối cảnh (setting)- và các chi tiết phụ họa (incidental details) của các sự tình mà vị từ miêu tả; vì vậy mà toàn bộ một câu vẽ nên một màn kịch nhỏ (mini drama) và diễn đạt trực tiếp một sự tình trọn vẹn. Công trình này của L.Tesnière là theo quan điểm cú pháp dựa trên nghĩa học và về nguyên tắc diễn tố do vị từ quy định còn chu tố là yếu tố phụ mang tính tiềm năng có trong bất kỳ câu nào, bất chấp vị từ với kiểu diễn trị gì đang thực sự chiếm giữ vị trí trung tâm của vị ngữ trong câu. Chính vì dựa trên nguyên tắc như vậy mà L.Tesnière đã đơn giản hóa vấn đề: ông khẳng định mã hóa diễn tố- cái yếu tố bắt buộc phải đi kèm theo vị từ trong vị ngữ của câu- là danh ngữ, còn trạng ngữ mã hóa chu tố- cái yếu tố không bắt buộc phải hiển lộ trong câu. Đây chính là hạn chế của L.Tesnière. Nhưng đóng góp của L.Tesnière và những người kế tục ông là đã đưa lý thuyết diễn trị mà ông tìm ra những tiềm năng cú pháp ngữ nghĩa khác nhau của cùng một vị từ. Ngữ pháp truyền thống trước đó cũng đã nhận ra tiềm năng cú pháp của vị từ nhưng lại chỉ phân chia chúng chủ yếu thành ra vị từ ngoại động và vị từ nội động. Vấn đề vai nghĩa còn được làm rõ bởi C.J. Fillmore, khoảng trước sau 1970, C.J. Fillmore viết một loạt bài trong đó nổi tiếng nhất là bài mang tên “The case for case” (Tác dụng của cách) được công bố năm 1968. Trong bài viết của mình, Fillmore chủ trương rằng có thể xác định một tập hợp các mối quan hệ giữa một vị từ và các tham tố (arguments) của nó. Fillmore làm rõ thuật ngữ cách như sau: “ Đó là những quan hệ ngữ nghĩa- cú pháp ngầm, được giả định tạo nên một tập hợp hoàn chỉnh, tồn tại ngầm đối với những ngôn ngữ có vĩ tố, và dạng thức cách của các mối quan hệ cách vẫn là sự biểu đạt trong ngôn ngữ có thể thực hiện được nhờ những phụ tố, hoặc nhờ các giới từ, hoặc với các cách khác” [Dẫn theo 30: 27]. Các mối quan hệ mà Fillmore gọi là quan hệ cách (case relationships) này theo ông có tính chất phổ quát và có số lượng hữu hạn. Fillmore đã giới thiệu 6 cách sau: - Agentive (Tác cách), chỉ vai chủ thể của hành động do động từ biểu thị. - Instrumental (Công cụ cách), chỉ vai công cụ của hành động do động từ biểu thị. - Dative (Tặng cách), chỉ vai động vật chịu ảnh hưởng của trạng thái hay hành động do động từ biểu thị. - Factitive (Hành cách), chỉ vai của vật sinh ra do kết quả của trạng thái hay hành động do từ biểu thị. - Locative (Vị trí), chỉ vị trí của trạng thái hay hành động do vị từ biểu thị. - Objectice (Đối tượng), là cách trung hòa nhất về nghĩa, chỉ bất kỳ vật gì được biểu thị bằng một danh từ mà vai trò trong hành động hay trạng thái được động từ biểu thị được chính cách thuyết minh nghĩa của động từ quy định.[Dẫn theo 30: 28] Trong các công trình tiếp theo, Fillmore [1971 và 1977] dần bổ sung thêm một số cách “cách”, tức là các “vai nghĩa”, khác: - Counter- Agent (Lực tác động) là sức mạnh hay sức đối kháng qua đó hành động mà vị từ biểu thị được tiến hành. - Source (Nguồn) là điểm xuất phát của hành động hay chuyển động. - Experiencer (Kẻ thể nghiệm hay Nghiệm thể) tương đương với Cảm thể (Senser) của M. A. K. Halliday [1994: 117-119] [Dẫn theo 44: 6-7] - Undergoer (Người/Vật trải qua sự biến) tương đương với Processed (Động thể) của một số tác giả sau Fillmore. Trong suốt thập kỉ 70 và thập kỉ 80 của thế kỷ trước, nhiều công trình nghiên cứu ngữ pháp cách (case grammar) khác được biết đến ở một chừng mực nào đó chúng độc lập với nhau và độc lập với công trình được coi là đi tiên phong của Fillmore. Trong số những công trình này phải kể đến W. Chafe [1970], J.M. Anderson [1971], J.T. Platt [1971], R. E. Longacre [1976], M. Clark [1978], W. A. Cook [1978], S.C. Dik [1978], T. Givón [1984] và S. Starosta [1988]. Sau đây xin được điểm qua một số bộ vai nghĩa nằm trong các công trình của giai đoạn này: Đầu tiên là tác giả R. E. Longacre [1976] đưa ra bộ vai nghĩa gồm Experiencer (Nghiệm thể), Patient (Đối thể), Agent (Tác thể), Range (Cương vực), Measure (Biện pháp), Instrument (Công cụ), Locative (Định vị), Source (Nguồn), Goal (Mục tiêu), Path (Lối đi). Công trình nghiên cứu của W. A. Cook [1978] nêu ít vai hơn trong bộ nghĩa của mình, gồm: Agent (Tác thể), Experiencer (Nghiệm thể), Benefactive (Lợi thể), Object (Đối thể), Locative (Định vị). S. Starosta [1988] cũng trình bày một bộ vai nghĩa khác gồm Patient (Đối thể)-một tên gọi khác của Object hay theme, Agent (Tác thể), Locus (Địa điểm), Correspondent (Tiếp thể)- một tên gọi khác của Dative hay Experiencer, và means (Phương tiện). T. Givón [1984: 126-133] trình bày hai loại vai nghĩa trong các câu- các vai nghĩa chính (major semantic case- roles) và các vai nghĩa tùy chọn (optional case- roles)- và khẳng định “…các vai nghĩa chính bắt buộc xuất hiện trong một số kiểu câu. Nghĩa là sự hiện diện của chúng là quan yếu xét về mặt cú pháp hoặc ngữ nghĩa để giải thích nghĩa cốt lõi của vị từ.” Dưới đây là bảng tóm tắt những vai nghĩa chính được trình bày trong công trình của T.Givón: - Agent (Tác thể) chỉ người/ vật chủ ý bắt đầu một sự tình. - Dative (Tiếp thể) chỉ tham thể có nhận thức tiếp nhận một sự việc/trạng thái. - Patient (Đối thể) chỉ trạng thái hoặc sự thay đổi của trạng thái vô ý thức. - Locative (Định vị thể) chỉ một điểm cụ thể so với một vị trí hay sự thay đổi vị trí của một tham tố khác trong câu Các vai nghĩa tùy chọn của Givón gồm có: - Benefactive (Lợi thể) chỉ tham tố có nhận thức được hưởng lợi từ hành động hay sự việc do Tác thể khởi xướng. - Instrument (Công cụ) chỉ công cụ được Tác thể sử dụng để thực hiện hành động hoặc tạo ra sự tình hoặc trạng thái hiện có. - Associative (Liên hội thể) chỉ Đồng tác thể (Co- agent) hay Đồng tiếp thể (Codative) không phải là tiêu điểm chính trong câu. - Manner (Phương thức) chỉ kiểu hiện trạng của một sự tình. - Time (Thời gian) gồm cả Duration (Thời đoạn), Repetition (sự lặp lại) và Frequency (Sự thường xuyên). - Purpose (Mục đích) chỉ mục đích của hành động mà Tác thể khởi xướng. Trong số các tác giả tiêu biểu phải kể đến S. C. Dik. Trong công trình Ngữ pháp chức năng (Functional Grammar) [1978], tác giả đã trình bày khái niệm vị ngữ hạt nhân (nuclear predication) và vị ngữ mở rộng (extended predication). Theo Dik “Một kết cấu vị ngữ hạt nhân bao gồm một vị từ gắn kết với một số thích hợp các ngữ định danh để lắp đầy các vị trí các tham tố của vị từ đó. Kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, trong đó thuộc tính hay quan hệ của nó được vị từ chỉ định, có hiệu lực đối với những ngữ định danh cụ thể mà (với nó) vị từ được ứng dụng.” [14: 39] “Căn cứ vào kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, chúng ta có thể tạo thành một kết cấu vị ngữ mở rộng bằng cách thêm vào một hay nhiều chu tố cho kết cấu vị ngữ hạt nhân đó.” [14: 39] Cũng theo S.C. Dik [1978], chức năng ngữ nghĩa của chu tố bao gồm: - các chỉ định phụ thêm cho sự tình hạt nhân: Phương thức, Đặc trưng, Công cụ; - các quan hệ của sự tình với các tham tố khác: Lợi thể, Liên đới thể; - các quan hệ của sự tình trong các chiều kích thời gian: Thời gian, Thời đoạn, Tần số; - Các quan hệ của sự tình trong các chiều kích không gian: Vị trí, Nguồn, Phương hướng, Lối đi; - Các quan hệ của sự tình với các sự tình khác: Chu cảnh, Nguyên nhân, Lý do, Mục đích, Kết quả. [14: 40-41] S.C. Dik [1978] đã có đóng góp quan trọng trong việc bổ sung hoàn chỉnh hai khái niệm lớn trong lĩnh vực “vai nghĩa”: Tham tố bắt buộc (obligatory participants) hay diễn tố (actants) và tham tố tùy chọn (optional participants) hay chu tố (circumstants). Đồng thời, Dik còn chỉ ra sự chuyển đổi của chu tố thành diễn tố trong một số vị ngữ. Như vậy mối quan hệ giữa vị ngữ mở rộng và vị ngữ hạt nhân là mềm dẻo chứ không cố định hay cứng nhắc. Một đại diện khác là M. A. K. Halliday đã dựa vào mục tiêu chính của ngữ pháp chức năng là giải thích ngôn ngữ dựa trên cái mà con người hành xử với sự hỗ trợ chính của ngôn ngữ, nghĩa là con người sử dụng ngôn ngữ như thế nào để giao tiếp trong cuộc sống đời thường hàng ngày. Ngữ pháp chức năng hệ thống cố gắng đạt được mục tiêu này bằng cách chấp nhận một số định hướng mang tính ngữ nghĩa và ngữ dụng cao hơn trong ngữ pháp, tức là coi nghĩa học và dụng học như những bộ phận không thể thiếu trong hệ thống tổ chức của ngữ pháp. Halliday xử lí vấn đề hệ thống tổ chức của ngữ pháp này bằng cách khẳng định rằng ngữ pháp của các ngôn ngữ sẵn có trên thế giới đều được tổ chức nhằm biểu đạt trong cùng một câu ba loại nghĩa mà ông gọi là ba “siêu chức năng (metafunctions)” [Halliday,1994: 35]: Nghĩa ý niệm (ideational meaning), nghĩa liên nhân (interpersonal meaning) và nghĩa văn bản (textual meaning) [Halliday, 1985: 53 và 1994: 34]. Đây là chỗ được coi là nổi bật trong ngữ pháp chức năng của Halliday, cái mà ông gọi có tính hệ thống (systemic) và vì vậy mà có thể được ứng dụng để miêu tả nhiều, nếu không muốn nói là tất cả, ngôn ngữ trên thế giới. Cuốn “Dẫn luận ngữ pháp chức năng” được tái bản lần thứ hai năm 1994 của Halliday, có thể nói, đã trình bày bộ vai nghĩa đầy đủ hơn cả so với bộ vai nghĩa của các tác giả khác được trình bày ở trên. [Dẫn theo 44: 11] 2.2. Việc nghiên cứu các vai nghĩa (hay tham tố) trong Việt ngữ học. Hai tác giả Trần Trọng Hải [1972] và Nguyễn Đăng Liêm [1973] đều theo quan điểm của Fillmore và cùng trình bày “một bộ quan hệ cách” gồm Agentive (Tác thể), Objective (Đối thể), Dative (Tiếp thể), Instrument (Công cụ), Benefactive (Lợi thể), Commitative (Liên đới thể), Locative (Định vị), Directional (Hướng), Source (nguồn), Goal (Đích), Extent (Phạm vi), và Time (Thời gian). [Dẫn theo 44:12] Tác giả M. Clark [1978] đưa ra một bộ vai nghĩa tương tự: đổi một cách tương ứng các vai Locative, Directional và Goal, của Trần Trọng Hải và của Nguyễn Đăng Liêm thành Locative, Goal và Terminus và thêm vai Path (Lối đi). Đóng góp của Clark [1978: 19] là chỉ rõ rằng “hình thái cách” (case form) là một đặc điểm đặc trưng hóa một tập hợp của những kiểu đánh dấu cách (case markers), chính là những kiểu hiện thực hóa của các quan hệ cách (case relations), và rằng “những kiểu đánh dấu cách trong tiếng Việt là trật tự từ và giới từ”. [Dẫn theo 44: 12] Chúng ta cũng biết vấn đề nghiên cứu vai nghĩa là vấn đề mới ở Việt Nam nên nó mới chỉ được đề cập tới ở một số công trình nghiên cứu gần đây về ngữ pháp chức năng hoặc các công trình ngữ pháp có vận dụng tư tưởng của ngữ pháp chức năng. Nhưng theo tác giả Cao Xuân Hạo, năm 1983 ông Trương Vĩnh Ký xuất bản cuốn Grammaire de la langue annamite đã có đề cập đến vấn đề ngữ pháp cách. Với mục đích giúp người phương Tây hiểu ngữ pháp tiếng Việt, ông đã miêu tả cách biểu hiện các quan hệ ngữ pháp trong khung vị ngữ của câu bằng những thuật ngữ của các cách tiếng Latin. Các danh từ của tiếng Việt dùng trong câu có thể kể ở vào một trong 8 cách, đó là: Ý nghĩa cách Phương thức diễn đạt 1. Nominatif (Danh cách) Ø- (không đánh dấu) 2. Gesnitif (Sinh cách, sở hữu cách) của / Ø 3. Datif (Tặng cách, Dữ cách) cho 4. Accusatif hay Objectif (Đối cách) Ø- (không đánh dấu) 5. Vocatif (Hô cách) ớ- bớ 6. Ablatif (Tác cách, Ly cách) khỏi- bởi 7. Instrumental (Công cụ cách) bằng 8. Locatif (Vị trí cách) nơi, trong… Ông Trương Vĩnh Ký cho rằng “tiếng Việt không có cách hiểu theo nghĩa hẹp như tiếng Latin. Vì cách là sự biến hình trong vĩ tố của từ tùy theo cái vai trò mà nó đảm đương trong câu; nhưng trong tiếng Việt, cái mà sự biến hình ấy chỉ rõ lại được biểu hiện bằng những tiểu tố tiền vị, và dĩ nhiên đó không phải là cách thực sự. Tuy nhiên sự phân chia theo từng cách là tiện lợi và chính xác; dù danh từ cách không thích hợp và đúng đắn, song ông vẫn dùng nó theo phép loại suy cho dễ hiểu và định nghĩa cách là những vị trí khác nhau của một danh từ tùy theo cái cương vị làm chính hay bổ ngữ cho một từ khác”. Đối với từng cách, ông cho biết có thể diễn đạt ý nghĩa của cách ấy bằng những phương tiện gì khác phương tiện chủ yếu. Như khi nói về công cụ cách, bên cạnh “Cột bằng dây”, ông còn cho “Dùng dây mà cột”, “Lấy dây mà cột”. Điều này cho thấy rằng khi dùng khái niệm cách, ông hiểu nó như ý nghĩa ngữ pháp nhiều hơn là một hình thức ngữ pháp. Như vậy ông không chỉ gán mô hình ngữ pháp tiếng Latin cho tiếng Việt mà còn hiểu rõ khả năng và cách thức sử dụng khái niệm Cách cho những thứ tiếng không biến hình, điều mà gần một thế kỷ sau các nhà ngôn ngữ học phương Tây mới nghĩ đến. Hạn chế của ông Trương Vĩnh Ký là điều dễ hiểu vì vào thời gian đó người ta chưa biết chú ý đến nghĩa của câu, và chưa biết rằng cách là một ý nghĩa phổ quát trong ngôn ngữ nhân loại, mà mọi thứ tiếng trên trái đất đều phải có cách diễn đạt và phân biệt. Tuy nhiên có thể nói ông Trương Vĩnh Ký là người đi trước các nhà ngôn ngữ học trong việc mô tả các phương tiện diễn đạt ý nghĩa Cách trong ngôn ngữ không biến hình xuất phát từ mặt sở biểu và được xem là người tiên phong trong việc xây dựng nền Ngữ pháp cách tiếng Việt. Tiếp theo phải kể đến tác giả Nguyễn Đức Dân trong công trình nghiên cứu “Mô hình ngôn ngữ” [1977] và “Ngôn ngữ học: khuynh hướng- lĩnh vực- khái niệm”[1986], tác giả đã giới thiệu một số vấn đề về ngữ pháp cách như sau: a. Sự nhầm lẫn của Chomsky khi đem phạm trù ngữ pháp (NP, VP) xếp lẫn với chức năng ngữ pháp (trạng ngữ thời gian và nơi chốn). b. Fillmore đặt vấn đề cần phải coi trọng hơn nữa những phạm trù sâu không nổi lên bề mặt nhưng có thể phát hiện được bằng các thao tác cú pháp. Cơ sở của nó là lý thuyết về các cách (The Case for Case). c. Thuật ngữ “Cách” và ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ. d. Hệ thống cách mang tính phổ quát đối với mọi ngôn ngữ gồm có các cách: 1. Tác nhân (Agent): kẻ hành động, ví dụ : Ba làm vỡ cửa sổ. 2. Người cảm nhận (Experiencer): kẻ chịu đựng, trải qua một tình huống về tâm lý, tình cảm, nó đối lập với tác nhân. Ví dụ: Tôi lạnh. 3. Công cụ (Instrument): công cụ, nguyên nhân trực tiếp của sự kiện. Ví dụ: Tôi dùng dao thái khoai. 4. Đối tượng (Object): đối tượng chịu tác động. Ví dụ: Bé Hai lớn như thổi. 5. Vị trí (Lieu): nơi xảy ra hành động. Ví dụ: Xoa đầu ai. 6. Gốc (Root): từ điểm đó, nơi đó, người đó mà định hướng đến nơi khác. Ví dụ: Cô Ba bán hoa. 7. Đích (Goal): nơi đó người ta thực hiện hành động. Ví dụ: Tâm mắng Ba. 8. Kết quả (Result): vật nảy sinh nhờ kết quả của hành động. Ví dụ: Cô Ba làm bánh. 9. Thời gian (Time): thời gian xảy ra hành động,. Ví dụ: Mùa đông lạnh. Tác giả Nguyễn Đức Dân nhận xét rằng trong công trình 1966, Fillmore còn cho có Tặng cách (Datif), nhưng đến năm 1971, ông đã tùy từng trường hợp mà xếp cách Datif vào cách Experiencer, cách Object hoặc cách Goal. Fillmore đã đưa ra ba nguyên lý để xác định cách, gồm: Chỉ có một thí dụ cho mệnh đề; một động từ có thể có nhiều vai khác nhau; thực hiện sự “phân bố bổ túc”. e. Phân loại động từ theo cách. Từ cách làm này cho thấy sự đối lập hình thức giữa chủ ngữ và vị ngữ không còn nữa, và do đó những bất hợp lý do chúng gây ra cũng bị mất đi. Điều này được xem là điểm cống hiến đáng kể nhất về ngữ pháp cách và ngữ nghĩa của Fillmore . f. Mối quan hệ giữa cấu trúc chìm và cấu trúc bề mặt, và phương pháp chuyển từ cấu trúc bề sâu sang cấu trúc bề mặt. g. Khả năng ứng dụng của Ngữ pháp cách. [Dẫn theo 30: 101-102] Ngoài các công trình nêu trên, có thể kể đến công trình Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo [1991]. Trong cuốn sách này, từ trang 81 đến trang 96, Cao Xuân Hạo đã vẽ lại bức tranh lịch sử nghiên cứu vai nghĩa từ người khởi xướng là L. Tesnière [1959], điểm qua những mốc quan trọng với những đóng góp đáng chú ý riêng của một số nhà ngôn ngữ gồm C. J Fillmore [1968, 1971 và 1977], D.Ha [1970], Trần Trọng Hải [1972], Nguyễn Đăng Liêm [1973], M. Clark [1974 và 1978], S.C. Dik [1978] và M.A.K. Halliday [1985]. Có thể nói, tác phẩm Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp chức năng của Cao Xuân Hạo [1991] là công trình đã phác thảo những nét định hướng đầy đủ cho nhiều nghiên cứu về sau có liên quan đến ngữ pháp chức năng trong tiếng Việt nói chung và các vai nghĩa trong tiếng Việt nói riêng. Tiếp theo, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu như “Ngữ pháp chức năng tiếng Việt- Quyển I- Câu trong tiếng Việt” của tập thể các tác giả Hoàng Xuân Tâm- Nguyễn Văn Bằng- Bùi Tất tươm- Cao Xuân Hạo (chủ biên), “Câu chủ- vị tiếng Việt” của Lê Xuân Thại… Trong các công trình này, các tác giả trên cơ sở học tập, kế thừa kết quả nghiên cứu của một số nhà ngữ pháp chức năng trên thế giới như L. Tesnière, C.J. Fillmore, W. Chafe, S.C. Dik…đã bước đầu đưa ra một danh sách các vai nghĩa trong tiếng Việt. Gần đây, một số công trình ngữ pháp tiếng Việt như Câu chủ- vị tiếng Việt” (Lê Xuân Thại), “Thành phần câu tiếng Việt” (Nguyễn Minh Thuyết- Nguyễn Văn Hiệp), “Ngữ pháp chức năng (Vị từ hành động)” (Nguyễn Thị Quy), “Ngữ pháp tiếng Việt- tập 2”, “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt (theo định hướng ngữ pháp chức năng)” (Diệp Quang Ban)… đã thể hiện rõ sự vận dụng ngữ pháp chức năng vào việc nghiên cứu, lý giải các hiện tượng ngữ pháp với cấu trúc nghĩa (cụ thể là mối quan hệ giữa các chức năng cú pháp và các vai nghĩa). Trong “Câu chủ - vị tiếng Việt” [44], Lê Xuân Thại đã xác định được các vai nghĩa có thể đứng vị trí chủ ngữ trong câu tiếng Việt: 1. Kẻ hoạt động, 2. Đối tượng của hoạt động, 3. Kẻ tiếp nhận, 4. Công cụ của hoạt động, 5. Vị trí. Tác giả Lê Xuân Thại cũng cho rằng việc các vai nghĩa trên (trừ vai kẻ hoạt động) đứng ở vị trí chủ ngữ thì “kéo theo sự thay đổi ý nghĩa và cấu tạo của vị ngữ so với vị ngữ khi kẻ hoạt động đứng làm chủ ngữ và cũng từ đó mà ý nghĩa của câu cũng có chỗ thay đổi”. [44: 152] Nguyễn Thị Quy [41] do chỉ giới hạn trong phạm vi vị từ hành động tiếng Việt nên chỉ xem xét một số tham thể như: đối tượng bị tác động, đích, nơi chốn, thời gian, người hưởng lợi, công cụ, người hưởng lợi, công cụ, người tiếp nhận. Tác giả Hoàng Văn Vân, với tác phẩm Ngữ pháp kinh nghiệm cú tiếng Việt mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống [2005], đã thuyết minh cho quan điểm mà Halliday [1985 và 1994] tự hào gọi là “hệ thống tính” trong cách phân tích ngữ pháp của các ngôn ngữ trên thế giới dựa trên quan điểm chức năng, đặc biệt là cách phân tích câu. Theo Hoàng Văn Vân [2005], các vai nghĩa sau đây có trong tiếng Việt: Hành thể, Đích thể, Lợi thể, Tiếp thể, Khách thể, Khiến thể, Cảm thể, Hiện tượng, Đương thể, Thuộc tính, Tạo thuộc tính thể, Giá trị, Biểu hiện, Bị đồng nhất thể, Đồng nhất thể, Hiện hữu thể, Phát ngôn thể, Tiếp ngôn thể, Đồng nhất thể, Hiện hữu thể, Ngôn thể, Dung môi, Cương vực, Ứng thể, Chu cảnh gồm Phạm vi, Định vị, Phong cách, Nguyên nhân, Đồng hành, Vấn đề, Vai diễn và Quan điểm. Nguyễn Thị Ảnh [2002], không giống Hoàng Văn Vân, chỉ tìm hiểu những vai nghĩa có thể làm Đề trong câu tiếng Việt và tiếng Anh để so sánh chúng với nhau. Theo tác giả này “sự khác biệt, cái làm nên nhu cầu đối chiếu, được thể hiện chủ yếu ở sự khác biệt của Đề. Với phần thuyết sự khác biệt này dường như không đáng kể”; do đó luận án của Nguyễn Thị Ảnh “bỏ qua việc thảo luận về phần Thuyết và xem đối chiếu cấu trúc Đề- Thuyết trong câu tiếng Việt dựa trên khảo sát và kết quả nghiên cứu phần Đề”. Theo Nguyễn Thị Ảnh [2002], các vai nghĩa sau đây có thể làm Đề trong câu tiếng Việt: Tác thể, Hành thể, Lực, Động thể, Nghiệm thể, Đương thể, Đối thể, Mục tiêu, Tiếp thể, Đích, Nguồn, Công cụ, Thời gian, Nơi chốn, và Điều kiện. Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng và Bùi Mạnh Hùng [2003] nêu lên 22 vai nghĩa cần phân biệt hơn cả mà học sinh trung học cơ sở tại Việt Nam phải nắm cho được: Người hành động, Người tác động, Lực tác động, Người thể nghiệm, Người/vật trải qua sự biến, Người/vật bị tác động, Vật tạo tác, Người/vật mang trạng thái, Người nhận, người hưởng lợi, nơi chốn, Đích, Hướng, Nguồn, Lối đi, Phương thức, Công cụ, Thời gian, Khoảng cách không gian, Nguyên nhân, Điều kiện, Trở ngại và Người/vật tồn tại. Việc trình bày của các tác giả trong tiểu mục này là chỗ dựa hết sức quan trọng và đáng tin cậy để chúng tôi đi vào nghiên cứu một số vai nghĩa trong luận văn này. Việc nghiên cứu vai nghĩa gần đây ở Việt Nam cũng được một số tác giả quan tâm. Tác giả Nguyễn Thị Lương, trong cuốn “Câu tiếng Việt”[2006], đã nghiên cứu câu từ góc độ ba bình diện: ngữ pháp- ngữ nghĩa- ngữ dụng. Và theo đó, ở bình diện ngữ nghĩa, tác giả đã vận dụng lí thuyết vị tố- tham thể của ngữ pháp chức năng và lý thuyết hành động nói để nghiên cứu hai thành phần tạo nên nghĩa tường minh của câu: nghĩa miêu tả và nghĩa tình thái. Tác giả đưa ra khái niệm nghĩa miêu tả của câu “là nghĩa biểu hiện sự vật, việc, hiện tượng (gọi chung là sự tình) trong thực tế khách quan được phản ánh vào trong câu, qua lăng kính chủ quan của người nói (viết)..” [38:133]. Với việc tìm hiểu tìm hiểu cấu trúc nghĩa miêu tả, phân loại các thành tố trong cấu trúc nghĩa miêu tả. Đặc biệt là tác giả đã chỉ ra mối quan hệ của cấu trúc vị tố- tham thể với cấu trúc ngữ pháp của câu. Đồng thời tác giả cũng đã đề cập đến vai nghĩa của các thành phần: chủ ngữ, trạng ngữ , bổ ngữ, khởi ngữ. Đây cũng là gợi ý và chỗ dựa quan trọng cho những vai nghĩa được chọn trong luận văn. Tác giả Nguyễn Văn Hiệp, trong cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” [2008] cũng đã đưa cả chương 2 để nghiên cứu, tìm hiểu về nghĩa miêu tả. Đầu tiên là việc tìm hiểu cấu trúc vị từ - tham thể của câu dựa vào việc điểm lại ngữ pháp của Tesnière, về khái niệm vị từ. Đặc biệt là việc định nghĩa vai nghĩa từ quan điểm của Fillmore (1968), đưa ra danh sách các vai nghĩa của Fillmore và danh sách các vai nghĩa cơ bản được hầu hết các nhà nghiên cứu thừa nhận. Hơn thế nữa, tác giả cho thấy sự thể hiện hình thức của vai nghĩa và đánh dấu các vai nghĩa, phân loại các kiểu sự tình, sự đồ chiếu của cấu trúc vai nghĩa lên cấu trúc cú pháp. Ngoài ra vấn đề vai nghĩa cũng được trình bày rải rác trong các bài viết trên tạp chí Ngôn ngữ: Vai nghĩa phương tiện và các chức năng ngữ pháp của nó trong câu tiếng Việt (Lê Thị Lan Anh- Ngôn ngữ số 4, 2002); Tìm hiểu chức năng ngữ pháp và vai trò thông báo của vai nghĩa thời gian trong câu tiếng Việt (Bùi Thị Thanh Lương- Ngôn ngữ số 4, 2002); Phương pháp nhận diện vai nghĩa của các tham thể trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với vị từ đa trị như cho, tặng, gửi (Lâm Quang Đông- Ngôn ngữ số 7, 2006). Điểm qua các công trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra danh sách các vai nghĩa. Tuy vậy, đó vẫn là một danh sách hiện nay còn để ngỏ. Đồng thời việc tìm hiểu các vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu tiếng Việt cũng mới chỉ nghiên cứu ở việc phân tích phân loại các vai nghĩa chủ yếu trên bình diện ngữ nghĩa mà còn ít công trình chuyên sâu về mối quan hệ của các vai nghĩa và chức năng cú pháp của nó khi được hiện thực hóa trong câu. Vì vậy, cần có những công trình đi sâu nghiên cứu về chức năng ngữ pháp của vai nghĩa trong câu tiếng Việt. 3. Nhiệm vụ của luận văn Luận văn này có những nhiệm vụ cụ thể như sau: - Trình bày khái niệm về vai nghĩa, chức năng cú pháp, mối quan hệ giữa vai nghĩa và chức năng cú pháp. - Điểm qua danh sách các vai nghĩa, chọn một số vai nghĩa phổ biến trong khung vị ngữ (vai nghĩa đối thể- patient; vai nghĩa tạo thể - factitive; vai nghĩa vị trí - locative; vai nghĩa nguồn – source; vai nghĩa phương thức – manner). - Tìm hiểu, miêu tả chức năng cú pháp tương ứng với những vai nghĩa (đã chọn) trong câu tiếng Việt (qua ngữ liệu tiếng Việt). 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 4.1. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số các thủ pháp và phương pháp nghiên cứu khoa học chung như: - Thu thập, phân loại tài liệu - Khảo sát, phân tích tài liệu Ngoài các thủ pháp như trên, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học sau: - Phương pháp phân tích ngữ nghĩa, cú pháp - Phương pháp thống kê - Phương pháp miêu tả 4.2. Nguồn ngữ liệu: Nguồn ngữ liệu chủ yếu được thu thập từ các tác phẩm văn học, các giáo trình nghiên cứu ngữ pháp- ngữ nghĩa tiếng Việt, từ điển tiếng Việt. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung chính của luận văn được phân thành hai chương: Chương một: Những cơ sở lý thuyết Trong chương này, luận văn sẽ trình bày khái niệm vai nghĩa theo các nhà ngôn ngữ trên thế giới và các nhà Việt ngữ học; những vai nghĩa phổ biến trong khung vị ngữ; cấu trúc cú pháp và một số chức năng cú pháp của câu; cấu tạo ngữ pháp của chu tố và diễn tố; mối quan hệ giữa vai nghĩa với chức năng cú pháp của câu. Chương hai: Một số vai nghĩa với chức năng cú pháp của nó trong câu tiếng Việt Ở chương hai, luận văn miêu tả chức năng cú pháp của một số vai nghĩa: vai đối thể; vai tạo thể; vai phương thức; vai nguồn; vai vị trí- không gian. Chương 1: NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1. Khái niệm vai nghĩa Khái niệm vai nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ dùng với nhiều thuật ngữ khác nhau: cases (cách), semantic relations (quan hệ ngữ nghĩa), roles hay case-roles (vai nghĩa); hoặc thematic roles, theta-roles (vai tham tố), như phái ngữ pháp cải biến (transformational grammar) thường gọi. Luận văn chọn “vai nghĩa” (roles) vì thuật ngữ này ngắn gọn và dễ dàng gắn nó với khái niệm “phân vai” (role assignment) của vị từ ngôn liệu trong khung vị ngữ của câu. Theo tác giả Tô Minh Thanh [44: 37] thì nhìn chung chưa có một định nghĩa nhất quán dành cho vai nghĩa. Theo W. Wilkin [1998; 191-192], vai nghĩa “là thành phần thể hiện về mặt tinh thần các vật thể và khái niệm”. Cùng quan điểm này có D. L. F. Nilsen [1973], S. DeLancey [1982] và R. Jackendoff [1983]. Các tác giả này ít nhiều đều đánh đồng vai nghĩa (role) với các phạm trù của nhận thức (cognitive categories) và vì vậy mà vai nghĩa phải neo đậu vào bến bờ của nhận thức” [Schlessinger,1995: 4] giống như cách thức mà ngôn ngữ lồng ý nghĩa vào âm thanh vậy và do đó bắt buộc âm thanh phải chở tải ý nghĩa. Theo C.J. Fillmore, một sự tình gồm một vị từ trung tâm và quây quần quanh nó là các ngữ đoạn biểu thị những cách ngữ nghĩa hay vai nghĩa (semantic role) nào đó. Fillmore đã đưa ra một số vai nghĩa mà ông cho là có tính phổ quát, có thể tìm thấy trong mọi ngôn ngữ, phản ánh một phương diện chung trong cách thức chúng ta tri nhận về thế giới: “Ý niệm về cách bao gồm một tập hợp khái niệm phổ quát, được giả định là bẩm sinh, xác định những kiểu tri nhận nào đó của con người về những sự tình đang diễn ra quanh họ, tri nhận những vấn đề như ai thực hiện nó, nó xảy ra đối với ai và cái gì thay đổi” (Fillmore 1968, 24) [28: 41]. Định nghĩa của Fillmore cho thấy tác giả nhấn mạnh tính phổ quát của vai nghĩa: nếu kết cấu bẩm sinh của miền nhận thức là giống nhau ở mọi người và nếu vai nghĩa là những khái niệm nhận thức cơ bản (cognitive primitives) thì chẳng phải đó là các phổ niệm (universals). Theo định nghĩa trên của Fillmore về vai nghĩa thì chúng ta có thể hiểu là vai nghĩa tồn tại trong nhận thức nhưng độc lập với ngôn ngữ và có lẽ là có trước ngôn ngữ và rằng hệ thống ngôn ngữ có sử dụng các vai nghĩa thì tồn tại độc lập với các vai này. Tác giả I.M. Schlesinger [1995: 24] “đề nghị […] coi các vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ không nhất thiết phải tồn tại trong miền nhận thức dù có thể được định nghĩa bằng khái niệm trong miền nhận thức.” [Dẫn theo 44: 38] Như vậy, Schlesinger lại cho vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ (linguistic constructs), cụ thể là những kết cấu ngữ nghĩa (semantic constructs) chứ không nhất thiết phải là những kết cấu nhận thức (cognitive constructs). Ý kiến này đã để ngỏ cái khả năng là vai nghĩa có thể mang tính cụ thể của riêng từng ngôn ngữ (language-specific). Cách đề xuất của Schlesinger coi vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ dẫn đến việc phải xác định tiêu chuẩn nhận diện các vai nghĩa và xem chúng hoạt động như thế nào dưới tác động của quy tắc ngữ pháp của một ngôn ngữ cụ thể như tiếng Anh chẳng hạn. Ví dụ vai Tác thể trong tiếng Anh có thể được xác định nhờ những khái niệm nhận thức cơ bản, chính là các đặc điểm của vai nghĩa này, như [+ hành động (activity)], [+ chủ định (volitition)] và [+ý định (intention)] và [+ động vật (anymacy)]. Như vậy, quan điểm của Schlesinger coi vai nghĩa là những kết cấu ngôn ngữ. Quan điểm này cũng có thể rất hữu ích cho việc phân tích một số vai nghĩa trong câu tiếng Việt. Theo tác giả Cao Xuân Hạo, câu biểu hiện một sự tình (hay sự thể). Nội dung (nghĩa biểu hiện) của nó có thể hình dung như một “cảnh” (một màn kịch ngắn) diễn trên sân khấu. Cái cảnh ấy có một nội dung nhất định: trên sân khấu hiện ra quang cảnh nào đấy (một sự tình tĩnh), rồi lại diễn ra một sự việc nào đấy (một sự tình động). Các nhân/ vật (đọc là “nhân và vật” hoặc là “nhân hay vật”) có mặt trên sân khấu được gọi là tham tố của sự tình hay vai (“vai nghĩa”). [27: 51] Như vậy, các tham tố là các vai nghĩa trong một màn kịch nhỏ của một sự thể. Tác giả Hoàng Dũng và Bùi Mạnh Hùng cũng đã định nghĩa vai nghĩa là “quan hệ ngữ nghĩa của ngữ danh từ đối với vị từ trong câu, là cách thức mà thực thể do ngữ danh từ biểu thị góp phần vào sự tình được câu diễn đạt.” [17: 134] Vấn đề vai nghĩa là một vấn đề phức tạp và đã được khảo sát, nghiên cứu theo nhiều quan điểm khác nhau. Nhìn chung, các nhà ngôn ngữ chưa có sự thống nhất cao trong việc xác định và miêu tả các vai nghĩa. Vấn đề danh sách các vai nghĩa và tên gọi của các vai nghĩa cũng còn chưa có sự thống nhất ở các nhà nghiên cứu. Theo tác giả Nguyễn Văn Hiệp [28: 46], có tình hình này bởi các lí do sau: - Thứ nhất, hiện nay nhiều tác giả khác nhau khi nghiên cứu vai nghĩa đã nêu ra một danh sách khác nhau. Thường thấy, là một danh sách khoảng vài chục vai, nhưng cũng có thể lên đến hàng trăm vai (Dixon 1992). - Thứ hai, tên gọi của các vai có thể khác nhau. Có tình trạng một số tác giả dùng chung tên gọi vai nghĩa, nhưng quan niệm khác nhau. Lại có tình trạng dùng tên gọi vai nghĩa khác nhau, nhưng quan niệm lại giống nhau… Và cũng theo tác giả Nguyễn Văn Hiệp [28: 46], ngoài ra cũng phải tính đến khả năng là một ngữ đoạn nào đó trong câu có thể đảm nhận hơn một vai nghĩa, tức nhìn từ góc độ này thì có thể cho rằng nó biểu thị vai nghĩa x, nhưng nhìn từ góc độ khác lại có thể cho rằng nó biểu thị vai nghĩa y. Trước những vấn đề phức tạp như trên, luận văn bước đầu chỉ tìm hiểu một số vai nghĩa đã được các nhà nghiên cứu tương đối thống nhất về tên gọi như các vai: đối thể, tạo thể, phương thức, vị trí, nguồn. 1.2. Những vai nghĩa phổ biến trong khung vị ngữ 1.2.1. Khung vị ngữ Theo Cao Xuân Hạo (1991: 103- 106), nghĩa của câu không đơn giản là một phép cộng nghĩa của các từ ngữ trong câu. Nghĩa của câu là một cấu trúc có nhiều tầng. Các tầng nghĩa trong câu phối hợp với nhau tạo ra nghĩa hành chức (nội dung thông báo) của câu. [Dẫn theo 21: 23] Cao Xuân Hạo quan niệm “nghĩa chính là cái điều được truyền đạt trong lời nói” [23:17] gồm nội dung hay ý nghĩa- nghĩa nguyên văn và nghĩa ngôn trung. Ông phê phán quan điểm cho nghĩa của câu chỉ là tổng các nghĩa của từ kết hợp lại mà thành. Ông ủng hộ quan điểm của Dik “lớp nghĩa học là lớp nghĩa của ‘sự tình’ được biểu thị và những ‘vai trò’ tham gia vào sự tình ấy. Ở đây có những tham tố (participants) của sự tình, gồm có các diễn tố (actants) và những chu tố (circumstants). Các diễn tố là những vai trò tất yếu được giả định sẵn trong nghĩa từ vựng của vị từ. Chẳng hạn một vị từ cho tất nhiên giả định một chủ thể của hành động “cho” (hay hành thể), một đối thể là vật được đem cho và một tiếp thể tức người nhận tặng phẩm. Các chu tố làm thành cái cảnh trí ở xung quanh các tham tố không được giả định một cách tất nhiên trong khung vị ngữ. Đó là các điều kiện thời gian, không gian, là cách thức, phương tiện, hoặc là những nhân vật có liên quan,”v.v.. [23:21] Cũng theo tác giả Cao Xuân Hạo (1991) “các sự tình, được biểu hiện trong ngôn ngữ bằng những câu mà hạt nhân là khung vị ngữ, gồm lõi vị ngữ, (mà trung tâm là vị từ) và các tham tố của nó trong đó có một tham tố làm đề (hay tiểu đề nếu câu có nhiều bậc cấu trúc đềthuyết)” trước hết có thể chia ra làm ba loại sau: câu tồn tại, nhận định rằng trong một thế giới hay một nơi nào đó có một cái gì; câu chỉ sự tình động hay sự việc biến cố; câu chỉ sự tình tĩnh hay tình hình. từ đó ông phân loại câu theo vị từ Hành động (vô tác, chuyển tác), Quá trình (vô tác, chuyển tác), Trạng thái, Quan hệ với số lượng các diễn tố và vai nghĩa của các diễn tố cùng với một vài chu tố. [23: 433] Như vậy, trong khung vị ngữ, vị từ là yếu tố cốt lõi và quây quần xung quanh là các tham tố biểu thị một số vai nghĩa nào đó hay có thể gọi là cấu trúc vị từ- tham tố. Có những vai nghĩa mang tính bắt buộc, bị quy định bởi bản chất từ vựng- ngữ pháp của vị từ trung tâm, theo cái nghĩa là những vị từ có bản chất từ vựng- ngữ pháp khác nhau sẽ quy định các vai nghĩa bắt buộc khác nhau. Nhưng cũng có những vai nghĩa mang tính tùy nghi, tức không chịu sự quy định bắt buộc như vậy. Trong ngữ pháp của Tesnière, những vai nghĩa bắt buộc sẽ được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được coi là diễn tố, còn những vai nghĩa tùy nghi thì được hiện thực hóa thông qua các ngữ đoạn được gọi là chu tố. Việc đánh giá một vai nghĩa là bắt buộc hay tùy nghi phải đặt trong quan hệ với vị từ trung tâm. 1.2.2. Vị từ và các tham tố 1.2.2.1. Vị từ Các nhà nghiên cứu theo quan điểm chức năng cho rằng trong khung vị ngữ không nên đồng nhất khái niệm vị từ với hai từ loại (bao gồm động từ và tính từ) theo cách hiểu thông thường. Ở đây vị từ được hiểu là yếu tố ngôn ngữ chỉ đặc trưng và quan hệ với tư cách chức năng ngữ nghĩa; trong quan hệ với các tham tố (tham thể) mới xuất hiện khái niệm vị từ. Vị từ với cách hiểu như trên sẽ do các từ loại khác đảm nhiệm có thể là động từ, tính từ và cũng có thể là danh từ. Theo tác giả Diệp Quang Ban thì Anna Siewierska- một tác giả có công trình nghiên cứu về ngữ pháp chức năng- đã từng nhận xét: “Trong ngữ pháp chức năng, toàn bộ các vị từ chia thành ba loại: thuộc động từ, thuộc tính từ và thuộc danh từ” [tr 22- Ngữ pháp chức năng- 1991] [Dẫn theo 1:14]. Tất nhiên thực tế sử dụng ngôn ngữ cho thấy vị từ thường do tính từ và động từ thể hiện. Nó học bài. Tôi đọc sách. Em bé gầy yếu quá. Bông hoa này rất đẹp. Trường hợp danh từ đảm nhận chức năng làm vị từ là trường hợp rất hạn hữu. Hầu như ta chỉ gặp vị từ là danh từ trong các kiểu câu: - Anh công nhân, em bác sĩ. - Nhà ấy vợ giáo viên, chồng kỹ sư. Hoặc - Mưa ! - Chuột ! Tuy nhiên những trường hợp hiếm hoi này lại là những bằng chứng giúp chúng ta khẳng định một cách chắc chắn: vị từ trong khung vị ngữ (cấu trúc vị từ- tham thể) không phải là từ loại mà là chức năng nghĩa trong quan hệ với các tham thể. Với cách hiểu như trên, vị từ trong cấu trúc khung vị ngữ được phân loại không giống với cách phân loại vị từ thông thường. Đã có nhiều cách phân loại vị từ nhưng chủ yếu các nhà ngữ pháp chức năng căn cứ vào hai tiêu chí đã được nhà ngôn ngữ học S.C. Dik (1978) sử dụng để phân loại các sự tình dựa vào sự tổng hợp hai cặp đối lập (+/-ĐỘNG dynamism), (+/-CHỦ Ý - control). Dựa vào hai tiêu chí trên, vị từ và sự tình mà câu phản ánh được chia làm bốn loại, mỗi loại mang hai đặc trưng: Vị từ hành động mang đặc trưng [+ ĐỘNG] và [+ CHỦ Ý]: là các vị từ chỉ hành động (đi, chạy, nhảy, kêu, gào, đánh, đập, chọc, khuân, vác, xây, đắp..) - Vị từ quá trình mang đặc trưng [+ ĐỘNG] và [- CHỦ Ý]: đó là các loại vi từ chỉ quá trình (rơi, khô, héo, phai, thấm,ngấm, chảy, trôi,..) - Vị từ tư thế mang đặc trưng [- ĐỘNG] và [+ CHỦ Ý]: là loại vị từ chỉ tư thế (ngồi, quỳ, đứng, cúi, nằm, lom khom, …) - Vị từ trạng thái mang đặc trưng [- ĐỘNG] và [- CHỦ ĐỘNG]: là các vị từ chỉ trạng thái, tính chất, quan hệ (lo, sợ, vui, mừng, to, nhỏ, đẹp, xấu, là, của, vì, để, bằng…) 1.2.2.2 Tham tố (hoặc vai nghĩa) Các nhà nghiên cứu đã khá thống nhất cho rằng tham tố (tham thể) là tất cả các thực thể (được biểu hiện bằng các danh từ hoặc tương đương danh từ) tham gia vào sự tình, chịu sự chi phối trực tiếp của ý nghĩa của vị từ hoặc phải được vị từ chấp nhận. Theo tác giả Diệp Quang Ban, cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu gồm có phần chỉ sự thể (nêu đặc trưng hay quan hệ) và các vai nghĩa nằm trong phạm vi bao quát của sự thể ấy. Phần sự thể thường do vị tố (Diệp Quang Ban thường dùng thuật ngữ vị tố tương đương với thuật ngữ vị từ) thực hiện và diễn đạt đặc trưng hay quan hệ. [Dẫn theo 21: 27] Cũng theo Diệp Quang Ban, tham thể là những thực thể tham gia vào sự thể (sự việc) như là bộ phận cần thiết của sự thể, bộ phận nằm trong sự thể. Tham thể có quan hệ với sự thể theo kiểu do sự thể ấn định, tức là một sự thể cụ thể chỉ có thể diễn ra nhờ sự có mặt của một hoặc những tham thể nào đó, một sự thể khác có thể diễn ra không cần đến sự có mặt của tham thể nào cả. Chẳng hạn sự đánh nhau nhất thiết phải có hai bên tham gia. [Dẫn theo 21: 28] Cao Xuân Hạo khi dẫn ra tư tưởng của S. C. Dik có khẳng định: “Theo S. C. Dik (1981) một cấu trúc chủ -vị hạt nhân (nuclear predication) xét toàn bộ biểu thị một sự tình (state of affairs) được xác định bởi cái thuộc tính hay mối quan hệ do vị ngữ biểu thị liên kết với các thực thể do các danh tố biểu thị” [23: 91]. Cũng theo S. C. Dik “Một kết cấu vị ngữ hạt nhân bao gồm một vị từ gắn kết với một số thích hợp các ngữ định danh để lắp đầy vị trí các tham tố của vị từ đó. Kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, trong đó thuộc tính hay quan hệ của nó được vị từ chỉ định, có hiệu lực đối với những ngữ định danh cụ thể mà vị từ được ứng dụng.” [14: 39] Theo S. C. Dik thì việc miêu tả các biểu thức ngôn ngữ học trong ngữ pháp chức năng bắt đầu với cấu trúc của kết cấu vị ngữ. Về cấu trúc chung của kết cấu vị ngữ, chúng ta cần phân biệt một bên là kết cấu vị ngữ hạt nhân và một bên là kết cấu vị ngữ mở rộng. Căn cứ vào kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, chúng ta có thể tạo thành một kết cấu vị ngữ mở rộng bằng cách thêm vào một hay nhiều chu tố cho kết cấu vị ngữ hạt nhân đó. Trong khung vị ngữ, các tham tố nêu đặc trưng bằng các chức năng nghĩa trong mối quan hệ với vị từ. Do đó, các tham tố còn được gọi là các vai nghĩa. Trên cơ sở xác định các chức năng nghĩa của các tham tố đối với các loại vị từ mà các tác giả đã đưa ra một danh sách gồm các tham thể: thể hành động, thể (chịu) quá trình, thể (trong) tư thế, thể (trong) trạng thái, lực, thể vị trí, thể đích, thể được lợi, thể bị hại, thể liên đới, tham thể không gian, thời gian, công cụ, phương tiện, nguyên nhân, điều kiện, nghịch đối, mục đích, kết quả… Các tham thể trên được các nhà nghiên cứu khái quát thành hai loại: tham thể cơ sở và tham thể mở rộng (thuật ngữ của tác giả Diệp Quang Ban) hoặc diễn tố và chu tố (thuật ngữ thường dùng của tác giả Cao Xuân Hạo và một số tác giả khác). Ở luận văn này, chúng tôi dùng thuật ngữ diễn tố và chu tố. Diễn tố (tham thể cơ sở) còn gọi là các vai nghĩa bắt buộc mà như tư tưởng của Dik đó là các vai nghĩa trong kết cấu vị ngữ hạt nhân. Các vai nghĩa của chu tố (tham thể mở rộng)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan