ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÝ XUÂN NHẤT
CHỨNG CỨ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM NĂM 2015
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÝ XUÂN NHẤT
CHỨNG CỨ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM NĂM 2015
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Hiển
HÀ NỘI – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lý Xuân Nhất
i
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .......................................................................... iv
DANH MỤC BẢNG ...................................................................................................v
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG RÚT
ĐÚC TỪ LỊCH SỬ, CÁC MÔ HÌNH CỦA CÁC QUỐC GIA QUY ĐỊNH VỀ
CHỨNG CỨ ................................................................................................................5
1.1. Lý luận về chứng cứ .............................................................................................5
1.1.1. Khái niệm chứng cứ ..........................................................................................5
1.1.2. Thuộc tính của chứng cứ ...................................................................................7
1.1.3. Phân loại chứng cứ ..........................................................................................11
1.1.4. Nguồn chứng cứ ..............................................................................................14
1.2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chứng cứ qua các thời kỳ lịch sử .........22
1.2.1. Chứng cứ trong pháp luật phong kiến Việt Nam ............................................22
1.2.2. Chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ khi Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công cho đến khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988,
năm 2003 và năm 2015 .............................................................................................26
1.3. Chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự một số quốc gia theo mô hình tố tụng
trên thế giới ...............................................................................................................28
1.3.1. Chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng
thẩm vấn ....................................................................................................................28
1.3.2. Chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình tố tụng
tranh tụng...................................................................................................................30
1.3.3. Chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự của các nước theo mô hình kết hợp
tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn .....................................................................32
Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ
CHỨNG CỨ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG ..............................................................36
2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 về chứng cứ ..........36
2.1.1. Quy định về chứng cứ và nguồn chứng cứ .....................................................36
2.1.2. Quy định về thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ ....................................44
2.2. Thực tiễn áp dụng ...............................................................................................50
2.2.1. Kết quả đạt được .............................................................................................50
ii
2.2.3. Nguyên nhân của hạn chế, bất cập ..................................................................68
Chương 3 KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ THỰC HIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
CHỨNG CỨ ..............................................................................................................70
3.1. Kiến nghị về hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành về chứng cứ ..............................................................................................70
3.2. Kiến nghị về thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam về
chứng cứ ....................................................................................................................76
KẾT LUẬN ...............................................................................................................82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................84
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Thứ tự
Từ viết tắt
Nội dung từ
1
CHLB
Cộng hòa liên bang
2
CHND
Cộng hòa nhân dân
3
CQĐT
Cơ quan điều tra
4
GĐT
Giám đốc thẩm
5
HLPL
Hiệu lực pháp luật
6
LTTHS
Luật tố tụng hình sự
7
TTHS
Tố tụng hình sự
8
TAND
Tòa án nhân dân
9
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
10
VKS
Viện kiểm sát
iv
DANH MỤC BẢNG
2.1 Bảng thống kê số liệu giải quyết án thuộc giai đoạn điều tra .............................51
2.2 Bảng thống kê số liệu giải quyết án thuộc giai đoạn truy tố ...............................52
2.3 Bảng thống kê số liệu giải quyết án thuộc giai đoạn xét xử sơ thẩm..................53
2.4 Bảng thống kê số liệu giải quyết án thuộc giai đoạn xét xử phúc thẩm .............54
2.5 Bảng thống kê số vụ án bị Giám đốc thẩm và Tái thẩm .....................................55
2.6. Bảng thống kê các trường hợp VKS hủy quyết định khởi tố bị can; yêu cầu khởi
tố bị can; khởi tố bị can yêu cầu điều tra ..................................................................56
2.7. Bảng thống kê các trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung..................................57
v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Chứng cứ là một trong những chế định quan trọng nhất xuyên suốt toàn bộ
quá trình tố tụng kể từ khi khởi tố, điều tra đến truy tố, xét xử vụ án hình sự. Chứng
cứ là cơ sở, phương tiện để chứng minh làm sáng tỏ nội vụ án hình sự. Để chứng
minh tội phạm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Toà án cần phải căn cứ vào chứng cứ đã thu thâp được, thông qua
chứng cứ để xác định xem có tội phạm hay không có tội phạm xảy ra.
Bằng việc phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng mới có thể nghiên cứu đầy đủ và toàn diện các tình tiết của
vụ án đã xảy ra, xác định sự phù hợp của chúng với hiện thực từ đó tìm ra chân lý
sự thật khách quan của vụ án. Vì vậy, chứng cứ có vị trí đặc biệt quan trọng trong lý
luận cũng như trong thực tiễn của hoạt động tố tụng hình sự. Việc nhận thức đúng
vấn đề chứng cứ sẽ là cơ sở lý luận, định hướng đúng cho quá trình thu thập, nghiên
cứu, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, làm cơ sở, tiền đề cho việc giải quyết vụ án được
khách quan, chính xác.
Trong bối cảnh đất nước không ngừng phát triển, đổi thay, các quan hệ xã
hội trở nên đa dạng hơn, thì tình hình tội phạm cũng tinh vi, phức tạp hơn. Trước sự
đổi thay đó một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tỏ ra không còn
phù hợp, trong đó có các vấn đề liên quan đến chứng cứ còn nhiều bất cập chưa đáp
ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung hàng loạt các quy định về chứng cứ,
nhằm khắc phục những yếu điểm trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, qua đó
đáp ứng được đỏi hỏi ngày càng cao trong việc đấu tranh, phòng ngừa tội phạm.
Thông qua đề tài luận văn “Chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2015”, tôi hi vọng có thể đóng góp phần nào trong việc làm rõ những vấn đề lý luận
và thực tiễn về chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
1
2. Tình hình nghiên cứu
Chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự là một lĩnh vực phức tạp, nhạy
cảm, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Từ trước đến
nay có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, cụ thể như sách
chuyên khảo: Chế định chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 của TS. Trần Quang Tiệp; “Phương pháp nghiên cứu,
đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành luật Tố
tụng hình sự mới nhất năm 2018” của Th.S Nguyễn Ngọc Điệp (Nxb Lao Động,
2018)…vv. Đối với các bài viết đăng trên tạp chí khoa học pháp lý có thể kể đến:
“Về chứng cứ và nguồn chứng cứ quy định tại Điều 64 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003” (Tạp chí Nghề luật, số 02/2006) của PGS.TS. Trịnh Tiến Việt; “Những điểm
mới về chứng minh và chứng cứ theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” (Tạp chí
KHGD CSND số 96/2017) của tác giả Vũ Đức Trung; “Đổi mới chế định chứng cứ
và chứng minh trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” (Tạp chí CSND, 2017) của
tác giả Lương Hải Yến, Nguyễn Thế Viễn; “Nguồn chứng cứ trong tố tụng hình
sự” (Tạp chí kiểm sát Online, 2018) của tác giả Nguyễn Cao Cường…, ngoài ra còn
rất nhiều các công trình, bài viết khác nghiên cứu, phân tích, đánh giá về chứng cứ,
đều thể hiện các quan điểm riêng của từng tác giả trong cách nhìn nhận, phân tích,
đánh giá chứng cứ, vị trí vai trò của chứng cứ trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên
trong thời đại hiện nay, khi mà các quan hệ xã hội luôn không ngừng phát triển, đan
xen, tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường, đòi hỏi các cơ
quan chức năng phải tăng cường, chủ động đấu tranh, phòng chống tội phạm, nên
việc nghiên cứu chuyên sâu về “chứng cứ” để phục vụ cho công tác trên là hết sức
cần thiết. Hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện, đồng bộ, nào về
chứng cứ, đặc biệt là từ khi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 ra đời. Vì
vậy việc lựa chọn đề tài “Chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm
2015” sẽ đóng góp, bổ sung thêm về cơ sở lý luận, thực tiễn cũng như nhận thức
của tác giả đối với chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
2
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chỉ ra được những bất cập, tồn tại, hạn chế,
từ đó đề xuất hoàn thiện chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về chứng cứ như (Khái niệm, thuộc
tính, phân loại chứng cứ, nguồn chứng cứ,...). Phân tích làm rõ quy định của pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về chứng cứ qua các thời kỳ lịch sử; chứng cứ trong
pháp luật tụng hình sự một số quốc gia theo các mô hình tố tụng trên thế giới.
Phân tích, làm sáng tỏ những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
về chứng cứ như (quy định về chứng cứ; quá trình thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ) và thực tiễn áp dụng; chỉ ra những khó khăn bất cập, đồng thời đề xuất
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,
đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về chứng cứ trong giải quyết vụ án hình sự.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Pham vi luận văn nghiên cứu về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt
Nam năm 2015 ở cả ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử trong vụ án hình sự và tình
hình thực tiễn áp dụng quy định của luật tố tụng hình sự về chứng cứ tại Việt Nam.
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền, về chính sách pháp luật tố tụng hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn còn kết hợp với một số
phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp: Hệ thống; logic; phân tích; tổng
3
hợp; so sánh; khảo sát thực tế để chọn lựa tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn
liên quan đến chứng cứ trong tố tụng hình sự Việt Nam, từ đó làm sáng tỏ nội dung
nghiên cứu của luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật về chứng cứ
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Phân tích những quy định về chứng cứ trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
làm rõ những quy định mới về chứng cứ trong bộ luật tố tụng hình sự hiện hành so
với bộ luật tố tụng hình sự trước đó, từ đó đánh giá được những kết quả đạt được,
những tồn tại, hạn chế cũng như nguyên nhân của tồn tại, hạn chế đó.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả đã đề xuất một số
định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định, nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về chứng cứ trong các vụ án hình sự, đảm bảo giải quyết vụ án được
nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu 03 chương cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm xây dựng rút đúc từ lịch sử,
các mô hình của các quốc gia quy định về chứng cứ.
Chương 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chứng cứ và
thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện và đảm bảo thực hiện các quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chứng cứ.
4
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG RÚT ĐÚC
TỪ LỊCH SỬ, CÁC MÔ HÌNH CỦA CÁC QUỐC GIA QUY ĐỊNH VỀ
CHỨNG CỨ
1.1. Lý luận về chứng cứ
Chứng cứ là một trong những chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng
hình sự (TTHS). Chế định này vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn cao. Để giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như: Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xác định sự việc phạm tội và người thực
hiện hành vi phạm tội. Quá trình thực hiện hành vi phạm tội là những diễn biến, sự
việc do tội phạm gây ra đã xảy ra trong quá khứ, muốn hình dung, tái hiện được
diễn biến, sự việc đó cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải dựa vào chứng
cứ của vụ án. Xét về bản chất, chứng cứ là những thông tin, tài liệu hay những gì có
thật được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập, kiểm tra và đánh giá
theo quy định của pháp luật nhằm phục vụ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình
sự. Vì vậy, việc nghiên cứu bản chất của chứng cứ, lý giải về mặt khoa học, cơ sở lí
luận và thực tiễn áp dụng chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2015 có ý nghĩa rất lớn trong quá trình lập pháp tố tụng hình sự
cũng như thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
1.1.1. Khái niệm chứng cứ
Trong lịch sử hình thành phát triển của nhân loại, hoạt động tố tụng hình sự
có nhiều bước thăng trầm, bắt đầu từ nhận thức, đánh giá sơ khai của con người về
sự vật, hiện tượng xảy ra trong đời sống hàng ngày đến hình thành quy tắc đặc trưng
có tính kế thừa, học hỏi, và từng bước được hoàn thiện. Cùng với các điều kiện lịch
sử nói chung, cũng như nhân tố đặc thù của các quốc gia nói riêng, các hình thức tố
tụng hình sự đều có sự phân chia khác nhau, nhưng để tiến hành tố tụng nhằm xác
định các sự kiện có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, thì phương tiện quan trọng
nhất sử dụng trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự của tất cả các hình thức tố
5
tụng đó chính là chứng cứ. Vậy chứng cứ là gì? Trước đây đã từng có các quan
điểm khác nhau về chứng cứ trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, đó là các
quan điểm phi Mác xít về vấn đề này như các quan điểm thần học, tôn giáo, quan
điểm hình thức, quan điểm nhân chủng học, quan điểm niềm tin nội tâm của Thẩm
phán…các quan điểm này phản ánh, đánh giá về chứng cứ có phần chủ quan, phiến
diện, máy móc, không phù hợp với các quy luật khách quan.
Triết học Mác – Lênin ra đời, dựa trên phương pháp luận biện chứng khoa
học đã lý giải một cách đầy đủ bản chất của nhận thức; bác bỏ quan điểm của triết
học duy tâm nói chung, thuyết hoài nghi luận và thuyết bất khả tri luận nói riêng,
chứng minh được rằng, con người có thể nhận thức được thế giới khách quan và
quy luật của nó; trên thế giới không có sự vật, hiện tượng nào là không thể nhận
thức được, mà chỉ có sự vật, hiện tượng chưa nhận thức được, nhưng con người sẽ
nhận thức được, “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu
tượng đến thực tiễn – đó là con đường biện chứng của nhận thức chân lý, của sự
nhận thức hiện thực khách quan” [10, tr.179]. Từ nhận thức cảm tính (trực quan
sinh động), con người thu nhận các thông tin về tội phạm, từ đó có sự kiểm tra,
đánh giá thông qua tư duy của mình, kết luận về các tình tiết nói riêng và về tội
phạm nói chung. Học thuyết về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng là học
thuyết về sự phản ánh của thế giới khách quan trong ý thức con người; cách giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học là vật chất có trước và sau mới là ý thức. Ý thức
của con người có khả năng phản ánh chính xác hiện thực khách quan, là xuất phát
điểm cực kỳ quan trọng cho lý luận về chứng cứ, cho lập pháp TTHS về chứng cứ
và áp dụng các quy định của pháp luật về chứng cứ trong thực tiễn. Cũng theo lý
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì mọi sự vật đều có thuộc tính phản ánh, vì
vậy hoạt động của con người, trong đó các hành vi phạm tội đều để lại dấu vết trong
thế giới khách quan. Những dấu vết của tội phạm để lại có thể được thể hiện dưới
dạng vật chất như: dấu vết tội phạm tồn tại trên công cụ, phương tiện phạm tội như
dấu vân tay, máu… hoặc được phản ánh, ghi nhận trong trí nhớ của con người, như
bị hại, người làm chứng, bị can, bị cáo. Trên cơ sở việc thu thập đầy đủ, có hệ thống
6
các dấu vết này, con người có thể nhận thức được diễn biến của hành vi phạm tội đã
xảy ra. Ngoài ra, điều này còn phản ánh việc thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật
chất nói chung, những dấu vết mà tội phạm để lại trong thế giới khách quan nói
riêng độc lập với ý thức chủ quan của những người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Do đó, đến lượt mình, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chính là
chủ thể của nhận thức về các vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự đó, phải
tìm ra và làm rõ dấu vết của tội phạm để lại trong thế giới khách quan, qua đó làm
sáng tỏ bản chất của vụ án. Tóm lại, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhận thức
thế giới là cơ sở lý luận của chứng cứ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt nam.
Trong khoa học pháp lí, có nhiều quan niệm về chứng cứ, một số học giả
cho rằng “Chứng cứ là tất cả những gì trong thế giới vật chất, thế giới tinh thần mà
con người có thể lĩnh hội được”, một số khác thì quan niệm “Chứng cứ là cái để
chứng minh sự tồn tại hay không tồn tại của một sự kiện liên quan đến vụ án”, hay
“Chứng cứ là những gì chứa đựng sự thật nhằm chứng minh một luận điểm nào
đó”. Các quan điểm trên đã phản ánh, làm rõ được phần nào những vấn đề thuộc về
bản chất của chứng cứ, tuy nhiên chưa đầy đủ.
Quan điểm của TS. Đỗ Văn Đương cho rằng: “Chứng cứ là những thông
tin xác thực về những gì có thật liên quan đến hành vi phạm tội, được thu thập theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà những người và cơ quan tiến hành tố
tụng dùng làm căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án” [20, tr.30].
Như vậy có thể thấy rằng, chứng cứ được các tác giả nghiên cứu nhìn nhận
ở những góc độ khác nhau và đưa ra những quan điểm khác nhau về chứng cứ, qua
đây tác giả xin đưa ra khái niệm về chứng cứ như sau: “Chứng cứ là những sự vật,
sự việc tồn tại khách quan, liên quan đến hành vi phạm tội, được thu thập theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, được dùng làm căn cứ để xác định
có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình
tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.
1.1.2. Thuộc tính của chứng cứ
Từ khái niệm trên, có thể thấy chứng cứ có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải
7
quyết vụ án hình sự. Là một phạm trù pháp lý khá phức tạp, tuy vậy đối với các sự
vật, sự việc đã xảy ra, thì con người có khả năng nhận thức, đánh giá được thông
qua các thuộc tính của nó, các thuộc tính của chứng cứ bao gồm: Tính khách quan,
tính liên quan và tính hợp pháp.
Tính khách quan của chứng cứ:
Tính khách quan là thuộc tính cơ bản thứ nhất của chứng cứ. Chủ nghĩa
Mác-Lênin đã chỉ rõ hiện thực khách quan là cơ sở của nhận thức. Nếu dựa vào
những gì mà chưa xác định được tính chân thực khách quan để ra các quyết định
giải quyết vụ án đều có thể đem lại sai lầm. Theo Đại từ điển tiếng việt, khách quan
là: “Cái tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức của con người” [26, tr.884].
Chứng cứ là những gì có thật, tức là phải tồn tại trong thực tế khách quan
điều đó có nghĩa rằng chứng cứ là những thông tin, tài liệu, đồ vật, tồn tại độc lập
không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người và phải phù hợp với các tình tiết
của vụ án đang chứng minh. Tính khách quan chứng cứ được gọi là tính xác thực của
chứng cứ, tính khách quan của chứng cứ được thể hiện đầu tiên đó là những vấn đề
phải chứng minh trong vụ án hình sự cũng như các tình tiết khác liên quan phải tồn
tại một cách khách quan, độc lập với ý thức của người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Muốn làm được như vậy, đòi hỏi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi
giải quyết vụ án hình sự phải xuất phát từ thực tế để có nhận thức đúng đắn, toàn diện
vấn đề; không được lấy ý chí chủ quan để áp đặt, phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ
chủ quan nóng vội, phiến diện, định kiến, không trung thực. Mặt khác, khi nghiên
cứu thuộc tính này chúng ta cũng cần lưu ý nếu những thông tin, tài liệu, đồ vật dù
tồn tại trên thực tế nhưng bị xuyên tạc, bóp méo hay bị giả tạo theo ý chí chủ quan thì
không còn mang tính khách quan, vì vậy, nó không phải chứng cứ. Tóm lại, trong
thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, việc xác định đúng đắn tính khách quan của chứng
cứ có ý nghĩa quan trọng trong chứng minh tội phạm. Việc sử dụng thông tin, tài liệu
bị bóp méo, giả tạo sẽ làm cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án không
chính xác. Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm tính khách quan của chứng
cứ như sau: Tính khách quan của chứng cứ chỉ sự tồn tại độc lập của nó trong thực tế
8
khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của những người tiến hành tố tụng.
Ví dụ: Trong vụ án giết người kết luận giám định xác định nguyên nhân cái
chết của nạn nhân là do bị một vật tày đánh vào phía sau đầu, làm lún vỏ sọ, gây
chấn thương sọ não. Chứng cứ được thu thập tại hiện trường vụ án là một chiếc búa,
có vết máu của bị hại, phù hợp với kết luận giám định, với lời khai cử người làm
chứng đã nhìn thấy bị can dùng búa đập vào đầu nạn nhân. Như vậy, chiếc búa do
cơ quan điều tra thu thập được trong vụ án tồn tại một cách khách quan và nó đảm
bảo thuộc tính khách quan của chứng cứ.
Tính liên quan của chứng cứ:
Tính liên quan là một trong ba thuộc tính cơ bản của chứng cứ. Chứng cứ là
những thông tin, tài liệu, đồ vật mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng như Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án dùng làm căn cứ xác định có hay không hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và các tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn vụ án. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử trong một vụ án hình sự có
một khối lượng thông tin, tài liệu, tuy nhiên không phải tất cả đều là chứng cứ mà chỉ các
thông tin, tài liệu liên quan đến vụ án, tức làm căn cứ giải quyết vụ án mới là chứng cứ.
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ khách quan giữa chúng với các tình
tiết vụ án cần được xác định. Mối quan hệ này thể hiện ở hai mức độ khác nhau:
Ở mức độ thứ nhất, chứng cứ được dùng làm căn cứ để giải quyết thực chất
vụ án, tức xác định hành vi phạm tội, người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các
tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt, các biện pháp tư pháp…
Ở mức độ thứ hai, có những thông tin, tài liệu, đồ vật không được dùng làm
căn cứ trực tiếp để giải quyết thực chất vụ án nhưng dùng để xác định các tình tiết
khác có ý nghĩa đối với vụ án.Trong trường hợp này tính liên quan của chúng thể
hiện một cách gián tiếp. Măc dù là quan hệ gián tiếp nhưng trong nhiều trường hợp
việc chứng minh tội phạm không thể thiếu được chúng.
Ví dụ: Lời khai của người làm chứng nhìn thấy A dùng con dao nhọn, cán dao
bằng nhựa, màu xanh, loại dao gọt hoa quả, đâm B làm B tử vong. Cơ quan điều tra đã
thu giữ được con dao có đặc điểm như người làm chứng đã mô tả, có dấu vân tay của A
9
và vết máu của B. Như vậy con dao có liên quan đến hành vi phạm tội của A.
Để coi một thông tin, tài liệu, đồ vật có phải là chứng cứ hay không, cơ
quan tiến có thẩm quyền hành tố tụng phải xác định tính liên quan ở hai mức độ.
Nếu thông tin, tài liệu đó không thể là căn cứ để giải quyết vụ án thì chúng thiếu
tính liên quan, vì vậy nó không phải là chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ:
Là một trong ba thuộc tính quan trọng và không thể thiếu của chứng cứ.
Tính hợp pháp của chứng cứ được hiểu là sự phù hợp của nó với các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự và thuộc tính này được biểu hiện ở những mặt sau:
Thứ nhất, chứng cứ được xác định bằng nguồn nhất định theo quy định của
pháp luật. Những thông tin, tài liệu, đồ vật tuy tồn tại trong thực tế và có liên quan
đến vụ án nhưng không được lưu giữ trong nguồn mà pháp luật quy định thì không
được coi là chứng cứ. Theo đó chứng cứ phải được xác định trong các nguồn sau:
1) Vật chứng; 2) Lời khai, lời trình bày; 3) Dữ liệu điện tử; 4 ) Kết luận
giám định, định giá tài sản; 5) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án; 6) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác; 7)
Các tài liệu, đồ vật khác.
Chứng cứ trong vụ án có thể xác định bằng nhiều nguồn khác nhau mà
BLTTHS quy định. Ngoài ra, mỗi loại chứng cứ phải được xác định trong nguồn
tương ứng xác định.
Thứ hai, tính hợp pháp đòi hỏi chứng cứ phải được thu thập theo trình tự, thủ tục
do BLTTHS quy định. Tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của từng loại chứng cứ mà
BLTTHS quy định trình tự, thủ tục thu thập khác nhau nhằm đảm bảo tính khách quan
và giá trị chứng minh của chứng cứ trong tất cả giai đoạn tố tụng, cụ thể như: Lời khai
của người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chỉ được
làm chứng cứ nếu họ nói rõ vì sao họ biết những tình tiết mà họ trình bày. Còn vật chứng
phải được mô tả đúng thực trạng vào biên bản và hồ sơ vụ án, các tình tiết không được
mô tả trong biên bản thu giữ vật chứng thì không phải chứng cứ và không có giá trị
chứng minh. Ngoài ra, các hoạt động điều tra để thu thập chứng cứ như khám người,
khám chỗ ở, khám nơi làm việc, khám nghiệm tử thi phải có người chứng kiến nếu thiếu
10
người chứng kiến, kết quả thu được từ hoạt động trên không phải là chứng cứ.
Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy có không ít trường hợp cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu giữ tài liệu, đồ vật không đúng thủ tục rồi sau đó
tiến hành hợp pháp hóa đưa vào hồ sơ vụ án. Trong trường hợp đó chứng cứ thiếu
tính hợp pháp nên không thể là giá trị chứng minh trong vụ án.
Như vậy, tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp là các thuộc tính
cần và đủ của chứng cứ. Chúng thể hiện ở các mặt khác nhau của chứng cứ nhưng
liên quan chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất về nội dung cũng như hình
thức đảm bảo cho chứng cứ có giá trị chứng minh. Các thuộc tính đều có ý nghĩa
pháp lí như nhau, không được coi thường thuộc tính nào, thiếu một trong các thuộc
tính này thông tin, tài liệu thu thập được không phải là chứng cứ. Mặt khác, trong
thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy thông thường cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng ít coi trọng tính hợp pháp của chứng cứ. Nhiều trường hợp vụ án
được giải quyết trên cơ sở những chứng cứ thu thập bất hợp pháp như hợp thức hóa
nguồn chứng cứ, thu thập không theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định, thu
thập lời khai bằng cách mớm cung, bức cung, dùng nhục hình…nên dẫn đến sai lầm
trong giải quyết vụ án nghiêm trọng dẫn đến oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
1.1.3. Phân loại chứng cứ
Việc phân loại chứng cứ có một vị trí quan trọng trong tố tụng hình sự.
Thông qua việc phân loại chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể xác định được vị trí của từng loại chứng cứ
trong từng vụ án hình sự. Thực tiễn cho thấy các chứng cứ thu thập được không có
giá trị chứng minh như nhau do nó có nguồn khác nhau, do các biện pháp thu thập
khác nhau, vì vậy phân loại chứng cứ giúp cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng có phương án phát hiện, thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ phù hợp. Đồng
thời nó giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự xác định đúng vị trí
của chứng cứ trong tổng thể các chứng cứ đã thu thập được trong vụ án hình sự.
Tùy thuộc vào từng cơ sở phân loại mà người ta phân chia chứng cứ thành những
loại khác nhau.
Dựa vào mối quan hệ giữa chứng cứ với đối tượng chứng minh để phân
11
chứng cứ thành chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
Dựa vào xuất xứ của chứng cứ để phân chứng cứ thành chứng cứ gốc, chứng
cứ sao chép, chứng cứ thuật lại.
Dựa vào mối quan hệ của chứng cứ với đối tượng bị buộc tội để phân loại
thành chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội.
Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp
Chứng cứ trực tiếp là chứng cứ chỉ thẳng, làm rõ ngay được một trong những
vấn đề phải chứng minh, giúp cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự
thấy ngay được sự kiện xảy ra có phải là sự kiện phạm tội hay không, ai là người
thực hiện hành vi phạm tội, lỗi của người phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội,
các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các yếu tố nhân thân và các
tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Vì vậy việc thu thập chứng
cứ trực tiếp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án.
Ví dụ: Lời khai của người làm chứng trong vụ án giết người, trực tiếp nhìn
thấy A dùng dao đâm nhiều nhát vào B làm B chết. Lời khai của người làm chứng
là chứng cứ trực tiếp.
Chứng cứ trực tiếp có thể được rút ra từ nhiều nguồn khác nhau như lời khai
của người bị giữ, bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam, bị can, bị cáo; vật chứng; dữ liệu
điện tử….
Chứng cứ gián tiếp là chứng cứ không liên quan trực tiếp mà chỉ liên quan gián
tiếp đến đối tượng chứng minh. Chỉ thông qua chứng cứ gián tiếp không thể xác định
được những vấn đề cần phải chứng minh được quy định tại Điều 85 BLTTHS năm
2015 (Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô
ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình
tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân
thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;
nguyên nhân và điều kiện phạm tội…), chỉ khi kết hợp với các chứng cứ khác, chứng
cứ gián tiếp mới có thể giúp xác định đối tượng chứng minh.
Ví dụ: A nghe B kể vừa nhìn thấy một vụ giết người, hậu quả có một người chết,
12
sau đó A đến công an trình báo về sự việc trên. Lời khai của A là chứng cứ gián tiếp.
Chứng cứ gián tiếp thường tản mạn, nhưng dễ thu thập, khi đánh giá chứng
cứ gián tiếp thì phải qua hai bước, một là, phải xem có thỏa mãn ba thuộc tính của
chứng cứ hay không; hai là, đánh giá sự kiện do chứng cứ đó xác định trong mối
quan hệ với chứng cứ khác.
Đối với chứng cứ gián tiếp lưu ý khi sử dụng cần phải có nhiều chứng cứ
gián tiếp, tất cả các chứng cứ đó phải có mối liên hệ với nhau tạo thành một hệ
thống chặt chẽ, các chứng cứ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tất cả các chứng cứ gián
tiếp phải được đặt trong mối quan hệ nhân quả với vấn đề cần làm rõ, và đi đến kết
luận thống nhất. Chứng cứ gián tiếp được sử dụng phải có độ tin cậy cao và đảm
bảo đủ các thuộc tính của chứng cứ.
Chứng cứ gốc và chứng cứ sao chép, thuật lại
Chứng cứ gốc là chứng cứ thu thập trực tiếp từ nơi xuất xứ của nó mà không
thông qua một khâu trung gian nào. Chứng cứ gốc thường có độ tin cậy cao, vì
được phản ánh từ nguồn trực tiếp, nên cần chú ý thu thập loại chứng cứ này.
Ví dụ: Cơ quan điều tra thu giữ được con dao C dùng để đâm B, trên con dao
có dấu vân tay của C và dính máu của B ở đầu mũi dao.
Chứng cứ sao chép, thuật lại là chứng cứ thu thập được không phải trực tiếp
từ nơi xuất xứ của nó mà qua một hay nhiều khâu trung gian. Những thông tin tư
liệu liên quan đến đối tượng chứng minh hay sự kiện chứng minh được thông qua
bản sao khác hoặc qua một người khác kể lại.
Ví dụ như: A cướp giật tài sản là chiếc điện thoại của B; C nhìn thấy, lời khai
của C là chứng cứ gốc. Sau đó C đi kể lại cho D nghe, D đến cơ quan trình báo thì
lời khai của D là chứng cứ thuật lại.
Khi giải quyết vụ án hình sự, chứng cứ gốc bao giờ cũng có giá trị chứng
minh cao hơn, điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi thu
thập chứng cứ càng gần nguồn gốc càng tốt. Tuy nhiên chứng cứ sao chép lại, thuật
lại cũng là phương tiện cần thiết cho việc phát hiện các chứng gốc mà thiếu nó rất
khó khăn trong việc giải quyết vụ án. Chứng cứ sao chép lại, thuật lại cũng có thể
thay thế cho chứng cứ gốc trong một số trường hợp như không thể truy tìm được
13
- Xem thêm -