Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở thừa thiên huế...

Tài liệu Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở thừa thiên huế

.PDF
133
94
144

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ----------***---------- Khuất Thị Huyền Nga Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế Chuyên ngành Mã số : Kinh tế : 60 31 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ Người hướng dẫn: TS. Đinh Quang Ty HÀ NỘI - 2008 MỤC LỤC Formatted: Left: 1.38", Right: 0.59", Top: 0.98", Bottom: 0.79" Trang PHẦN MỞ ĐẦU Chƣơng 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.1 Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Khái niệm cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế 1.1.1 Chuyển dịch cơ cấu và quan niệm về chuyển dịch cơ cấu 1.1.2 ngành kinh tế Những chỉ tiêu chủ yếu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành 1.1.3 kinh tế 1.2 Nội dung của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.2.1 Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.2.1.1 Các nhân tố cung - cầu (đầu vào và đầu ra của sản xuất trong nền kinh tế thị trường) 1.2.1.2 Lao động và vốn nhân lực 1.2.1.3 Khoa học và công nghệ 1.2.1.4 Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước 1.2.1.5 Yếu tố vị trí địa lý, địa hình, khí hậu và tài nguyên thiên nhiên 1.2.1.6 Mức độ liên kết kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế 1.2.2 Khái quát về một số mô hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.2.2.1 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa kiểu cổ điển 1.2.2.2 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá kiểu kế hoạch hoá tập trung 1.2.2.3 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu 1.2.2.4 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa hướng xuất khẩu 1.3 Kinh nghiệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và một số vấn đề rút ra đối với Thừa Thiên - Huế 1.3.1 Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố trong nước 1.3.2 Một số vấn đề có giá trị tham khảo đối với tỉnh Thừa Thiên - Huế Chƣơng 2 Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế trong những năm đổi mới vừa qua 2.1 Những lợi thế, bất lợi thế của Thừa Thiên - Huế ảnh hưởng và đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 2.1.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội và ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ 1 2.1.2.1 2.1.2.2 cấu ngành kinh tế Tiềm năng và những lợi thế của Thừa Thiên- Huế trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tiềm năng khoáng sản Tiềm năng về đất 2.1.2.3 Tiềm năng về rừng 1.2.2.4 Tiềm năng biển và đầm phá 2.1.2.5 Tiềm năng du lịch 2.1.3 Những khó khăn chủ yếu có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Thừa Thiên - Huế Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế những năm gần đây và các tác động chính Đánh giá thực trạng trên một số bình diện cơ bản Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo nhóm ngành kinh tế Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ các ngành sản xuất Chuyển dịch cơ cấu nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản Chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp Chuyển dịch cơ cấu nhóm ngành dịch vụ 2.1.2 2.2 2.2.1 2.2.1.1 2.2.1.2 a b c 2.2.2 2.2.2.1 2.2.2.2 2.2.2.3 2.2.2.4 2.2.2.5 2.3 2.3.1 2.3.2 Tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đến động thái phát triển chung của địa phương Tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Tác động đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong sản xuất Tác động đối với việc hình thành cơ cấu ngành kinh tế hợp lý Tác động đối với phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn Tác động đối với phát triển nguồn nhân lực Đánh giá chung về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Thừa Thiên - Huế trong thời gian vừa qua Những kết quả tiêu biểu và nguyên nhân Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân Chƣơng 3 Một số kiến nghị góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế Trong giai đoạn 2006 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 3.1 Về định hướng chung trong chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 3.1.1 Những luận cứ chủ yếu để kiến nghị về định hướng 3.1.1.1 Bối cảnh mới trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến quá 2 trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế 3.1.1.2 3.1.2 Dự kiến tốc độ phát triển một số sản phẩm chủ yếu của Thừa Thiên - Huế trong thời gian tới Kiến nghị về quan điểm, và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 3.1.2.1 3.1.2.2 Quan điểm Mục tiêu 3.2 Phương hướng phát triển các ngành kinh tế chủ yếu trong giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 Ngành công nghiệp 3.2.1 3.2.2 3.2.3 3.2.4 3.3 Các Nhóm ngành dịch vụ Ngành thuỷ sản Ngành nông, lâm nghiệp Các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế 3.3.1 Hoàn thiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thừa Thiên Huế 3.3.2 Khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả đầu tư vốn 33.3 Giải Giải pháp về thị trường 3.3.4 Phát triển, đào tạo nguồn nhân lực 3.3.5 Phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1 - SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Kinh nghiệm xây dựng kinh tế thị trường của nhiều nước trên thế giới và thực tiễn phát triển kinh tế Việt Nam trong hơn 20 năm đổi mới (1986 - 2007) cho thấy giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa có mối quan hệ biện chứng; và đối với nước ta hiện nay, chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gắn kết hết sức chặt chẽ với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là một trong những vấn đề mang tính cơ bản về phương diện lý luận và cũng rất thiết yếu về phương diện thực tiễn. Cho đến nay, ở nước ta vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được nhiều nhà nghiên cứu, tiếp cận và phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, đây là một vấn đề có nội dung phức tạp xét cả về mặt lí luận và thực tiễn, trong đó có nhiều khía cạnh chưa được làm sáng tỏ. Và nếu nhìn sâu hơn vào từng địa bàn, thì một trong những vấn đề cần phải nghiên cứu - đó là xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong điều kiện cụ thể của một tỉnh. Thừa Thiên - Huế là một tỉnh miền Trung, có điều kiện khí hậu khá phức tạp, diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người thấp, việc phát triển kinh tế nhìn chung gặp nhiều khó khăn so với các địa phương khác trong nước. Lợi thế nổi bật của Thừa Thiên - Huế thể hiện ở chỗ có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản và phát triển công nghiệp chế biến. Song, điều đáng nói là sau 20 năm đổi mới, Thừa Thiên - Huế vẫn là một trong những tỉnh nghèo nhất miền Trung. Trước tình hình đó có nhiều vấn được đặt ra: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế có gì khác biệt so với các địa phương khác? Những nét đặc thù đó là gì và làm thế nào để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế, phù hợp với đặc điểm của địa phương, xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế.v.v…? Cho đến nay, quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế cũng như định hướng, giải pháp chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Thừa Thiên - Huế chưa được nghiên cứu một cách hệ thống. Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế ” để thực hiện luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Kinh tế chính trị. 2 - TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở nước ngoài, lý thuyết cơ cấu kinh tế được khởi xướng từ những năm 50 của thế kỷ XX, nhưng mãi tới những năm 70 mới trở thành đối tượng nghiên cứu quan trọng đối với các nhà kinh 4 tế học và cũng được giới chính khách ở các nước phương Tây có nền kinh tế thị trường phát triển quan tâm. Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá vừa là giải pháp thực hiện, vừa là bộ phận chủ yếu cấu thành chiến lược phát triển đất nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một đòi hỏi tất yếu nhằm chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế thị trường hiện đại và phát triển bền vững. Gắn với chủ đề lớn này, ở nước ta trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu, tiêu biểu như: - Tác động kinh tế của Nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, Nguyễn Cúc (Chủ biên) - Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 1994; - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn ở Việt Nam, tập thể tác giả (Đỗ Hoài Nam, Trần Đình Thiên, Bùi Tất Thắng, Phí Mạnh Hồng, Nguyễn Kế Tuấn), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội - 1996; - Những nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hoá ở Việt Nam, Bùi Tất Thắng (Chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nôi - 1997; - Xác định cơ cấu kinh tế lãnh thổ theo hướng phát triển có trọng điểm ở Việt Nam, Ngô Doãn Vịnh và Nguyễn Văn Phú (đồng chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 1998; - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới, công trình nghiên cứu khoa học của tập thể tác giả thuộc Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển - Trường Đại học Kinh tế quốc dân (1999); - Một số vấn đề về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Đỗ Hoài Nam (Chủ biên) Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 2003; - Yêu cầu và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu đầu tư trong thời gian tới, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), Chủ nhiệm đề tài: TS Lưu Bích Hồ, 5/2003; - Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam, PGS.TS Bùi Tất Thắng (Chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội - 2006); v.v… Những công trình nói trên có giá trị tham khảo rất bổ ích cho đề tài của luận văn; tuy nhiên, trong số đó chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu sâu và hệ thống về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Thừa Thiên - Huế. 3 - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN - Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong mối quan hệ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; 5 - Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thừa Thiên - Huế trong những năm đổi mới vừa qua; làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương này; - Đề xuất định hướng, mục tiêu và giải pháp góp phần đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Thừa Thiên - Huế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở giai đoạn 2006 - 2010. 4 - ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 4.1 - Đối tƣợng nghiên cứu Luận văn lấy vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trên địa bàn Thừa Thiên - Huế làm đối tượng nghiên cứu. 4.2 - Phạm vi nghiên cứu Tập trung nghiên cứu các nội dung chủ yếu của cơ cấu ngành kinh tế ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong khoảng 10 năm gần đây; đề xuất định hướng và các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của địa phương này theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn 2006 - 2010. 5 - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn áp dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, đối chiếu và so sánh, logic và lịch sử, khảo sát thực tế; đồng thời sử dụng số liệu thống kê của Trung ương và địa phương; tham khảo, chắt lọc các kết quả nghiên cứu đã có về cơ cấu ngành kinh tế . 6 - DỰ KIẾN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN - Góp phần làm rõ hơn khái niệm, vai trò của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế; bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm thực tiễn của một số tỉnh, thành phố trong nước về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. - Làm rõ thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế trong quá trình đổi mới. - Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế. 7 - KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 6 Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế trong những năm đổi mới vừa qua Chương 3: Một số kiến nghị góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Thừa Thiên - Huế trong giai đoạn 2006 - 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1.1 - CƠ CẤU KINH TẾ VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1.1.1 - Khái niệm cơ cấu kinh tế và cơ cấu ngành kinh tế 1.1.1.1 - Khái niệm cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế, nhìn dưới góc độ triết học duy vật biện chứng, là khái niệm dùng để chỉ cách thức, tính chất bên trong của một hệ thống kinh tế, biểu hiện sự thống nhất của các mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của hệ thống đó. Cơ cấu là thuộc tính mà bất kỳ một nền kinh tế nào cũng có. Cơ cấu kinh tế phản ánh tính chất, trình độ, cấu trúc và các mối quan hệ bên trong của một nền kinh tế - theo đó, nền kinh tế được coi là một hệ thống có tính lịch sử trong một giai đoạn nhất định. Đó là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu không chỉ về số lượng và tỷ lệ giữa các yếu tố hợp thành - biểu hiện sự tăng trưởng của hệ thống mà còn là những mối quan hệ cơ cấu về chất giữa các yếu tố - biểu hiện sự phát triển của hệ thống. Các Mác nói rằng: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ, tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy cũng hợp thành cơ cấu kinh tế xã hội”. Nhìn chung, cách tiếp cận về cơ cấu kinh tế thù rất đa dạng, song đều tập trung phân tích bản chất cơ cấu kinh tế, và thống nhất nhận thức ở một số điểm quan trọng: Một là, coi cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ kinh tế trong hệ thống. Các quan hệ này không phải là quan hệ riêng lẻ mà là quan hệ tổng thể hữu cơ. Các quan hệ đó không chỉ là quan hệ tỷ lệ về lượng mà còn có quan hệ về chất, quan hệ về cấu trúc bên trong. 7 Hai là, cơ cấu kinh tế bao gồm các bộ phận cấu thành nền kinh tế, các nhóm ngành, các khu vực, các thành phần nằm trong hệ thống kinh tế quốc dân. Ba là, cơ cấu kinh tế biểu hiện trong những điều kiện không gian, thời gian, về tự nhiên, kinh tế xã hội nhất định. Với ý nghĩa đó, chúng tôi cho rằng nền kinh tế quốc dân là một hệ thống phức tạp, có rất nhiều bộ phận và kiểu cơ cấu hợp thành chúng, tùy theo cách tiếp cận khi nghiên cứu hệ thống đó. Sự vận động và phát triển của nền kinh tế quốc dân đã chứa đựng trong nó sự thay đổi của chính bản thân các bộ phận, các kiểu cơ cấu. Vì vậy, cơ cấu kinh tế quốc dân là tổng thể hợp thành các bộ phận, các kiểu cơ cấu, trong mối quan hệ hữu cơ, tương tác lẫn nhau cả về số lượng và chất lượng, trong không gian, thời gian và những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Cơ cấu kinh tế là một phạm trù khách quan. Tính khách quan của cơ cấu kinh tế thể hiện ở chỗ, trình độ phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội quyết định sự hình thành cơ cấu kinh tế. Một cơ cấu kinh tế như thế nào, xu thế chuyển dịch của nó ra sao phụ thuộc vào những điều kiện khách quan về tự nhiên, kinh tế, xã hội và thể chế chính trị nhất định. Tương ứng với những điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định, tất yếu có một cơ cấu kinh tế phù hợp. Điều đó thể hiện ở mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, mỗi điều kiện cụ thể đều có thể xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý. Một cơ cấu kinh tế hợp lý phải đảm bảo được các yêu cầu sau đây: Thứ nhất, phản ánh được và đúng các quy luật khách quan bao gồm các quy luật tự nhiên, kinh tế và xã hội, đặc biệt là các quy luật kinh tế, như quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và các quy luật của tái sản xuất… Thứ hai, đảm bảo khai thác và giải phóng tối đa các tiềm năng, nguồn lực của cả nước, của ngành, địa phương và lãnh thổ, của các phương án kinh doanh… Thứ ba, sử dụng được ngày càng nhiều lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh giữa trong nước và nước ngoài, giữa các vùng và khu vực… Thứ tư, phản ánh được xu hướng phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa và thương mại quốc tế... Thứ năm, đó là một cơ cấu kinh tế mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Tóm lại, cơ cấu kinh tế hợp lý là một cơ cấu kinh tế đảm bảo được tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững và đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Nền 8 kinh tế sẽ phát triển thuận lợi nếu cơ cấu kinh tế thực tế càng gần với cơ cấu kinh tế hợp lý. Mặt khác quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở từng giai đoạn đều chịu sự tác động của con người, trong đó sự tác động của cơ quan lãnh đạo là quan trọng nhất. Những tác động đó đã làm thay đổi các quan hệ kinh tế - xã hội theo đó cơ cấu kinh tế được hình thành. Do vậy, con người trên cơ sở nắm vững và tôn trọng yêu cầu của các quy luật khách quan, có thể tác động điều chỉnh cơ cấu kinh tế ngày càng gần với cơ cấu kinh tế hợp lý hơn. 1.1.1.2 - Cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu của nền kinh tế quốc dân chỉ được cụ thể hóa thông qua từng loại cơ cấu cụ thể. Theo các góc độ tiếp cận khác nhau, nền kinh tế có các loại cơ cấu cụ thể chủ yếu sau đây: cơ cấu kinh tế theo ngành, cơ cấu kinh tế theo vùng và cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế (hay đúng hơn là theo khu vực). Giữa các loại cơ cấu kinh tế đó có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn nhau, làm điều kiện cho nhau trong quá trình phát triển. Và nhìn một cách kháI quát, cơ cấu kinh tế quốc dân là tổng thể các cơ cấu ngành, vùng và các thành phần kinh tế. Trong hệ thống các cơ cấu đó, cơ cấu ngành là quan trọng nhất. Vậy thế nào là cơ cấu ngành kinh tế? Theo chúng tôi, cơ cấu ngành kinh tế là tổng thể hợp thành các ngành của nền kinh tế quốc dân, trong mối quan hệ hữu cơ, tương tác lẫn nhau cả về số lượng và chất lượng trong không gian, thời gian và những điều kiện kinh tế, xã hội nhất định. Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tổ hợp của các ngành, hợp thành tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các ngành đó của nền kinh tế quốc dân. Ngành kinh tế là tổng thể những hoạt động kinh tế giống nhau hoặc gần giống nhau của các đơn vị trong nền kinh tế quốc dân để sản xuất ra những sản phẩm hoặc dịch vụ có những đặc tính chung nhất định. Các ngành hợp thành trong nền kinh tế có thể phân loại dựa vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của nó, bao gồm: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, thương mại, dịch vụ,v.v…Trong mỗi ngành lại bao gồm các phân ngành, như trong công nghiệp có cơ khí, điện lực, hóa chất,v.v…Hoặc có thể phân theo tính chất tác động vào đối tượng lao động, gồm: khối ngành khai thác (nông nghiệp, các ngành công nghiệp khai thác), khối ngành chế biến và khối ngành dịch vụ. Theo kinh nghiệm nhiều nước, để hoạch định chính sách phát triển, người ta còn phân loại ngành theo chu kỳ vận động của bản thân các ngành đó, gồm ngành mới ra đời và 9 ngành sắp lặn; hoặc dựa vào vị trí, tầm quan trọng, xu thế vận động của nó, gồm ngành mũi nhọn, ngành then chốt và các ngành khác,v.v… Có thể có nhiều cách phân ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành. Song cho đến nay, có hai cách thức cơ bản thường được áp dụng, đó là phân ngành theo hệ thống “sản xuất vật chất” và phân ngành theo hệ thống tài khoản quốc gia. Theo hệ thống sản xuất vật chất, các ngành kinh tế được phân làm hai khu vực: sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất được chia thành các ngành cấp I. Các ngành cấp I lại được chia thành các ngành cấp II…Đặc biệt trong các ngành công nghiệp, người ta còn phân ra thành nhóm A và nhóm B. Theo hệ thống tài khoản quốc gia, các ngành kinh tế được phân thành 3 nhóm lớn là: nông, lâm nghiệp và thủy sản; công nghiệp và xây dựng; dịch vụ. Ba ngành gộp này bao gồm 20 ngành cấp I. Các ngành cấp I lại được chia nhỏ thành ngành cấp II. Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành các ngành sản phẩm. Có nhiều mức phân ngành khác nhau, tùy theo mức độ gộp hay chi tiết hóa đến chừng nào mà có được một tập hợp các ngành tương ứng. Với một cách phân ngành hợp lý và một đại lượng giá trị được chọn thống nhất có thể xác định được chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt của cơ cấu ngành, đó là tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế. Loại chỉ tiêu định lượng này đã được sử dụng trong các nghiên cứu về phát triển liên quan đến cơ cấu ngành của nền kinh tế. 1.1.2 - Chuyển dịch cơ cấu và quan niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là sự biến đổi, vận động, phát triển của các ngành làm thay đổi vị trí, tương quan tỷ lệ và mối quan hệ, tương tác giữa chúng theo thời gian dưới tác động của những yếu tố kinh tế - xã hội của đất nước và quốc tế nhất định. Việc đưa ra cụm từ chuyển dịch cơ cấu là để nhấn mạnh: chuyển dịch cơ cấu diễn ra một cách khách quan. Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là sự biến đổi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; và trong điều kiện hội nhập kinh tế quôc tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế không phải là sự thay đổi cơ cấu đã có trong khoảng thời gian ngắn, mà sự thay đổi mang tính biến đổi, làm thay đổi từ một cơ cấu ngành kinh tế mang đặc tính khép kín sang cơ cấu mở hội nhập. 10 Sức ép của nhu cầu thị trường và yêu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu ngành của nền kinh tế - và đó chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành. Ở đây, có một số quan niệm cần phải được làm sáng tỏ: Một là, chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định hướng và dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác, hợp lý và hiệu quả hơn. Hai là, chuyển dịch cơ cấu ngành phải được coi là điểm cốt tử, một nội dung cơ bản, lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nếu xác định phương hướng và giải pháp chuyển dịch đúng sẽ đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cao trong sự phát triển. Ngược lại, sẽ phải trả giá đắt cho những sự phát triển về sau. Ba là, trong thời đại ngày nay, với sự thay đổi nhanh chóng của nhu cầu thị trường và tốc độ phát triển vũ bão của khoa học - công nghệ, tất cả các nước đều phải quan tâm đến vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành. Riêng ở các nước đang phát triển, chuyển dịch cơ cấu ngành phải luôn gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa tức là tạo lập cơ cấu ngành mới phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Yêu cầu đặt ra là phải định vị được một cơ cấu các ngành kinh tế, xác định hợp lý các ngành (vùng) trọng điểm, mũi nhọn cho phù hợp với mỗi giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chuyển dịch cơ cấu ngành của nền kinh tế thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội và việc tổ chức thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã xác định. Ở đây, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc hoạch định chủ trương và chính sách kinh tế vĩ mô, còn các doanh nghiệp thì có vai trò quyết định việc thực thi phương hướng, nhiệm vụ chuyển dịch. Trên thực tế, kết quả của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thường biểu hiện ở những “dấu hiệu” có tính điển hình dưới đây: - Xuất hiện thêm những ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là đã có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế. Sự thay đổi này chỉ có thể nhận biết được khi hệ thống phân loại ngành là đủ chi tiết. - Tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn đến thay đổi cơ cấu. Trong trường hợp này, sự biến đổi cơ cấu kinh tế ngành là kết quả của sự phát triển không đồng đều giữa các ngành sau mỗi thời kỳ hay giai đoạn. Để đánh giá đúng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành trong mỗi thời kỳ, phải xem xét đồng thời cả tốc độ tăng trưởng và quy mô phát triển ngành ở điểm xuất phát. 11 - Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành. Sự thay đổi này trước hết biểu hiện bằng số lượng các ngành có liên quan. Mức độ tác động qua lại giữa ngành này với các ngành khác thể hiện qua quy mô đầu vào mà nó cung cấp cho các ngành hay nhận được từ các ngành đó. Những sự thay đổi này thường liên quan đến thay đổi về công nghệ sản xuất sản phẩm hay khả năng thay thế cho nhau để đáp ứng những nhu cầu của xã hội trong những điều kiện mới. Sự tăng trưởng của các ngành dẫn đến thay đổi cơ cấu ngành trong mỗi nền kinh tế. Cho nên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành xảy ra như là kết quả quá trình phát triển. Đó là quy luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền kinh tế. Vấn đề đáng quan tâm là ở chỗ: sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra theo chiều hướng nào và tốc độ chuyển dịch nhanh chậm ra sao, có những quy luật gì. Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành công trong sự phát triển nhờ quá trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể. Việc tìm ra một xu hướng và giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành ở nước ta không đơn thuần là áp dụng kinh nghiệm có được, mà là sự phát hiện những đặc thù của đất nước, của môi trường trong nước và thế giới hiện nay để làm thích ứng những bài học đã có phù hợp với hoàn cảnh Việt nam. Vì vậy, việc phân tích các “cách tiếp cận chuyển dịch cơ cấu” có quan điểm lựa chọn một chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phù hợp với điều kiện Việt Nam là hết sức cần thiết. Trong thực tế có các cách tiếp cận chuyển dịch cơ cấu sau đây: Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở tốc độ tăng trưởng nhanh. Một chiến lược cơ cấu trên cơ sở tốc độ tăng trưởng nhanh sẽ tập trung vào việc phân bổ các nguồn đầu tư và nhân lực vào các ngành mà đặc biệt là các phân ngành, các hoạt động kinh tế và các dự án có mức hoàn vốn cao nhất. Trong điều kiện hiện nay, điều này có nghĩa là hướng mạnh vào xuất khẩu là chủ yếu. Áp dụng chiến lược này sẽ có một số hạn chế là: tạo ra một lượng lớn lao động không có việc làm, do giảm tối đa nhân lực trong các ngành sản xuất, đặc biệt là sản xuất công nghiệp; làm tăng sự khác biệt và chênh lệch giữa các vùng, do bố trí sản xuất công nghiệp vào các vùng có kết cấu hạ tầng phát triển; đồng thời tạo ra chênh lệch lớn về thu nhập giữa các bộ phận dân cư, giữa các ngành các lĩnh vực. Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm giải quyết các nhu cầu cơ bản. Một chiến lược cơ cấu phát triển nhằm vào việc thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của nhân dân sẽ được thực hiện trên cơ sở hướng các nguồn lực vào việc phát triển sản 12 xuất và cung ứng cho thị trường trong nước về những nhu cầu hàng lương thực, thực phẩm cơ bản, may mặc thông thường, hàng tiêu dùng, vật liệu xây dựng, các sản phẩm công nghiệp nặng cho nhu cầu trong nước như sắt, thép, hóa chất, phân bón,v.v… Áp dụng chiến lược này sẽ có một số hạn chế: hiệu quả thấp, khả năng cạnh tranh kém, phụ thuộc vào nước ngoài do phải nhập khẩu nhiều nguyên liệu, máy móc thiết bị; thị trường nội địa không đủ lớn để kích thích mạnh mẽ sản xuất, do thu nhập của dân cư thấp. Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa trên cơ sở nguồn lực trong nước. Chiến lược này dựa vào thế mạnh tài nguyên thiên nhiên trong nước: khoáng sản, nông nghiệp, những hải sản, nghề rừng…Khai thác và chế biến các tài nguyên này cho cả thị trường trong nước và cả thị trường nước ngoài. Áp dụng chiến lược này đối với Việt Nam sẽ có những hạn chế, đó là: nguồn tài nguyên của ta tuy phong phú nhưng quy mô nhỏ, không đủ lớn để phát triển dựa hẳn vào nguồn tài nguyên trong nước: tăng trưởng chậm, do chủ yếu tập trung phát triển công nghiệp vừa và nhỏ. Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tập trung vào việc tạo việc làm. Chiến lược cơ cấu tạo tối đa việc làm chủ yếu tập trung vào các quá trình sản xuất dùng nhiều lao động mà không nhấn mạnh đến hiệu quả và hợp tác quốc tế. Hạn chế cơ bản của chiến lược cơ cấu này là công nghệ thấp, sản xuất kém hiệu quả, chỉ cạnh tranh được ở những sản phẩm có tỷ trọng lao động cao, khả năng hợp tác quốc tế rất thấp. Các cách tiếp cận chiến lược cơ cấu nêu trên cho thấy rõ những ưu tiên và những hạn chế cơ bản của chúng. Rõ ràng là nước ta không thể theo đuổi mục tiêu riêng của một chiến lược cơ cấu nào. Việt Nam không thể chỉ vì đạt tăng trưởng nhanh mà tạo ra sự phân hóa xã hội và chênh lệch quá lớn về mức sống; không thể chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc sử dụng hết nguồn lao động trong điều kiện nền kinh kém hiệu quả, không có khả năng hội nhập với kinh tế thế giới; nguồn tài nguyên nước ta cũng không đủ lớn để dựa vào nó mà phát triển nhanh. Trong thực tiễn cần lựa chọn một cơ cấu hỗn hợp trên cơ sở xem xét nhiều chính sách và nhiều hình mẫu khác nhau. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, phải nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa trên 13 chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu kết hợp thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Như vậy, mô hình tăng trưởng của Việt Nam từ nay đến năm 2020 là một mô hình phát triển hỗn hợp, vừa sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, vừa coi trọng thị trường nội địa, trong đó xuất khẩu được coi là trọng tâm. Việc áp dụng mô hình phát triển hỗn hợp ở đây có nghĩa là các ngành xuất khẩu luôn được coi là hướng ưu tiên hàng đầu, là trọng tâm và là động lực chủ yếu của sự phát triển. Thay thế nhập khẩu, tận dụng tốt các lợi thế của đất nước chỉ tập trung cho một số ngành sản xuất trong nước có hiệu quả, coi đây là bước quá độ, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để hướng mạnh về xuất khẩu trong tương lai. Đồng thời, cũng phải chú ý thỏa đáng đến việc nâng cao sức mua của thị trường nội địa, không chỉ ở khu vực đô thị, mà còn cả ở khu vực nông thôn rộng lớn của đất nước. 1.1.3 - Những chỉ tiêu chủ yếu phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Khi đánh giá cơ cấu kinh tế, người ta thường đánh giá trên hai mặt: kết cấu tỷ lệ các ngành hợp thành nền kinh tế, được xác định bằng tỷ lệ % của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ trong GDP; quan hệ tương hỗ giữa các ngành hợp thành nền kinh tế, biểu hiện ở mối quan hệ trong sản xuất và giao lưu kinh tế giữa các ngành cần chặt chẽ, cân đối ở mức độ cần thiết. Có thể phân loại chỉ tiêu đánh giá cơ cấu ngành hợp lý theo lĩnh vực hoạt động (chia thành chỉ tiêu kinh tế và chỉ tiêu xã hội) hoặc theo khả năng lượng hoá (chia thành chỉ tiêu định tính hoặc chỉ tiêu định lượng) để xem xét. a. Theo lĩnh vực hoạt động: - Các chỉ tiêu kinh tế: + Chỉ tiêu trực tiếp, gồm: cơ cấu GDP, cơ cấu GO cho các ngành. + Chỉ tiêu gián tiếp, gồm: cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư, cơ cấu diện tích… + Chỉ tiêu phản ánh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: so sánh cơ cấu kinh tế qua các thời kỳ, so sánh tốc độ phát triển của các hiện tượng kinh tế, các ngành trong cùng một kỳ. + Chỉ số về tốc độ tăng trưởng kinh tế (chung và từng ngành). + Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội (GNP): phản ánh tỷ lệ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong GDP; trong đó tỷ lệ ngành nông nghiệp giảm tương đối. 14 + Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X - M): thể hiện sự mở cửa của nền kinh tế đối với thế giới. Nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng trong GDP tăng lên. + Chỉ số về mức tiết kiệm - đầu tư (I): thể hiện khả năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai, là nhân tố quyết định sự tăng trưởng. + Tỷ lệ huy động cho ngân sách từ GDP, tỷ lệ tích luỹ nội bộ nền kinh tế. + Chỉ số về sự liên kết kinh tế: sự chặt chẽ của mối liên kết được đánh giá thông qua trao đổi các yếu tố đầu vào, đầu ra giữa các ngành, các vùng. - Các chỉ tiêu xã hội: + Cơ cấu nông thôn và thành thị: về dân cư, lao động…. + Mức thu nhập bình quân đầu người giữa các vùng, các ngành. + Cơ cấu lao động giữa các ngành. + Trình độ học vấn, trình độ kỹ thuật của dân cư, lao động trong các vùng, các ngành. + Tỷ lệ người biết chữ trong dân số. + Các chỉ số phản ánh sự bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ như: số bác sỹ, số giường bệnh/1vạn dân, số viện điều dưỡng/1vạn dân… giữa các vùng, các địa phương. + Sự độc lập hay phụ thuộc về kinh tế, chính trị của một quốc gia. b. Theo khả năng lượng hoá - Về mặt định tính: Đó là sự phù hợp, đáp ứng được các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - chính trị xã hội đặt ra trong từng thời kỳ. Quan điểm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta được Đại hội VIII khẳng định và cho đến nay vẫn có giá trị ứng dụng: “Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế, trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao. Mở rộng thương nghiệp, dịch vụ, du lịch. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như 15 chế biến nông, lâm, thuỷ sản, khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, du lịch”. - Về mặt định lượng: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực chất là sự chuyển dịch cơ cấu sản lượng đầu ra. Sự chuyển dịch này phụ thuộc vào hai yếu tố: năng suất lao động và quy mô sử dụng các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, tài nguyên và khoa học công nghệ… Từ đó cho thấy hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế xét về mặt lượng thể hiện hiệu quả sử dụng các yếu tố đó trên phạm vi toàn nền kinh tế. 1.2 - NỘI DUNG CỦA QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1.2.1 - Những nhân tố chủ yếu ảnh hƣởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.2.1.1 - Các nhân tố cung - cầu (đầu vào và đầu ra của sản xuất trong nền kinh tế thị trường) Việc chuyển dịch cơ cấu ngành và phát triển các ngành trọng điểm, mũi nhọn của nền kinh tế chịu tác động của yếu tố thị trường, các nguồn lực tự nhiên (tài nguyên đất, nước, rừng, khoáng sản…); tiến bộ khoa học - công nghệ; các nguồn lực, định hướng phát triển của Chính phủ, kinh tế đối ngoại, điều kiện, môi trường lịch sử - xã hội của sự phát triển kinh tế ,v.v… Thị trường, đặc biệt là nhu cầu và tình hình cạnh tranh trên thị trường (trong và ngoài nước) là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đầu tiên tới cơ cấu ngành của nền kinh tế. Chính nhu cầu, cơ cấu nhu cầu và xu thế vận động của chúng đặt ra những mục tiêu cần vươn lên để thỏa mãn, là cơ sở để đảm bảo tính thực thi và hiệu quả của phương án cơ cấu ngành của nền kinh tế. Nhóm nhân tố đầu tiên có ảnh hưởng mạnh tới thiên hướng tự nhiên của cơ cấu sản xuất của một nền kinh tế là các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của đất nước. Trong nhiều trường hợp, chúng tạo nên cái mà các nhà kinh tế học gọi là “lợi thế tuyệt đối” trong phân công lao động quốc tế của các nền kinh tế. Dưới tác động của sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, giá trị kinh tế của các nguồn tài nguyên thiên nhiên không phải là bất biến, mà có sự thay đổi không ngừng. Tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ có ảnh hưởng nhiều mặt đến cơ cấu ngành của nền kinh tế. Ở nước ta, yếu tố này đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển một số ngành như dầu khí, điện tử, v.v…, làm thay đổi quy mô, tốc độ phát triển của các ngành chế biến, dịch vụ. 16 Những định hướng chiến lược và vai trò quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước cũng có vai trò quan trọng đối với việc hình thành cơ cấu ngành. Trong trường hợp phó mặc cho sự tác động của thị trường thì sự hình thành cơ cấu ngành mong muốn sẽ quá chậm, nhất là những ngành bao gồm các doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích lợi nhuận hoặc mức lãi thấp (sản xuất hàng hóa công cộng, nguyên liệu cho công nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, v.v..). Ngược lại, những định hướng thiếu cơ sở khách quan, hoặc sự can thiệp quá sâu của Nhà nước trong quá trình thực hiện đều dẫn tới chỗ hình thành cơ cấu ngành kém hiệu quả. Nếu như nhóm yếu tố đầu vào phản ánh sự tác động của các nguồn lực có thể huy động cho sản xuất và sự phân bổ của chúng vào lĩnh vực kinh doanh khác nhau, thì nhóm các yếu tố đầu ra của sản phẩm quyết định xu hướng vận động của thị trường, nơi phát ra tín hiệu quan trọng bậc nhất dẫn dắt các luồng vốn đầu tư cũng như các nguồn lực sản xuất khác được quyết định phân bổ vào những lĩnh vực sản xuất nào và với quy mô bao nhiêu. Những nhân tố này bao gồm: dung lượng thị trường, thói quên tiêu dùng, mức độ sẵn có và các khả năng thay thế của các loại sản phẩm, giá cả và chất lượng hàng hóa và dịch vụ, các chính sách của Nhà nước… + Độ lớn của dung lượng thị trường và xu hướng tiêu dùng là một trong những nhân tố rất có ý nghĩa đối với sự di chuyển các nguồn lực được phân bổ vào các lĩnh vực sản xuất khác nhau. Các nhà kinh doanh là những người phân tích rất kỹ quy mô và xu hướng vận động của thị trường khi quyết định đầu tư kinh doanh một loại sản phẩm nào đó. Thông thường, dung lượng thị trường (lượng cầu) được quyết định bởi quy mô dân số và mức thu nhập. Khi mức thu nhập của dân cư còn thấp, hầu hết nguồn thu nhập chỉ được dùng cho những mặt hàng thiết yếu, trước hết là lương thực - thực phẩm. Đây là những loại hàng hóa được coi là có hệ số co giãn thấp, nghĩa là nhu cầu tiêu dùng chúng ít thay đổi so với sự thay đổi của mức thu nhập. Nhưng khi mức thu nhập của dân cư tăng lên, cơ cấu tiêu dùng của dân cư cũng bắt đầu có sự thay đổi theo hướng tỷ lệ chi tiêu cho mặt hàng tiêu dùng thiết yếu giảm đi tương đối, trong khi tỷ lệ chi tiêu cho những sản phẩm cao cấp hơn tăng lên. Những loại hàng hóa này được coi là có hệ số co giãn về cầu cao hơn. Chẳng hạn, theo quan sát của các nhà kinh tế, khi GDP/người đạt mức trên 1000USD/năm, những nhu cầu mua sắm các phương tiện đắt tiền như xe hơi, phương tiện nghe nhìn, trang bị nội thất nhà ở, du lịch, ăn ngon hơn, mặc đẹp hơn… bắt đầu xuất hiện, làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng vốn trước đó tập trung cho 17 những mặt hàng thiết yếu theo phương thức ăn no, mặc ấm. Rõ ràng, những dấu hiệu chuyển dịch cơ cấu cầu có khả năng thanh toán có tác động dẫn dắt hướng đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư và vì thế, tác động không nhỏ đến sự hình thành cơ cấu kinh tế. + Thói quen tiêu ding: Cùng với quy mô thị trường, thói quen tiêu dùng là một nhân tố “đầu ra” rất có ý nghĩa mà các nhà kinh doanh thường rất quan tâm khi quyết định bỏ vốn đầu tư và lựa chọn sản phẩm để đưa ra thị trường. Tuy đây là những quyết định thuộc phạm vi quản lý vi mô, nhưng lại có ý nghĩa to lớn đối với sự hình thành cơ cấu sản phẩm (cơ cấu phân ngành) của nền kinh tế quốc dân. Tính ưa thích theo thói quen tiêu dùng một số loại sản phẩm nào đó đòi hỏi các nhà đầu tư phải nghiên cứu để tìm cách đáp ứng và vì thế, tình trạng thỏa dụng của người tiêu dùng đã trở thành một trong những chỉ tiêu tác động vào sự hình thành cơ cấu của nền kinh tế. + Các chính sách của Nhà nước: Cũng như các nhân tố cung, các chính sách kinh tế của Nhà nước đối với khía cạnh cầu có tác động mạnh tới sự hình thành và phát triển của những phân ngành kinh tế nhất định. Sự khuyến khích hay không khuyến khích, thậm chí cấm ngặt đối với một số lĩnh vực nào đó sẽ có tác động làm gia tăng mức tăng trưởng hay kìm hãm, thậm chí loại bỏ một số lĩnh vực (sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ) mặc dù tiềm năng cung và mức cầu của dân cư vẫn tồn tại. Thường thì đây là những lĩnh vực có thể đem lại lợi nhuận xét về mặt kinh tế tài chính, nhưng việc có cho phép phát triển hay không lại phụ thuộc vào các quan điểm chính trị, văn hóa và xã hội, v.v… 1.2.1.2 - Lao động và vốn nhân lực Độ lớn dân số và tốc độ tăng dân số rõ ràng là có ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế cũng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, việc lý giải mối quan hệ giữa tốc độ tăng dân số và tăng trưởng kinh tế là tương đối phức tạp và còn nhiều tranh cãi. Lao động là một yếu tố sản xuất trực tiếp trong quá trình sản xuất. Tăng trưởng dân số thường được xem là một nhân tố tích cực trong việc kích thích tăng trưởng kinh tế. Một lực lượng lao động dồi dào có nghĩa là nguồn nhân lực sản xuất nhiều hơn trong khi đó dân số làm gia tăng tiềm năng của thị trường nội địa. Ngược lại, cũng có nhiều nhà kinh tế lập luận rằng tốc độ tăng dân số có thể làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại. Dân số tăng gây áp lực lên nguồn tài nguyên thiên nhiên, và nếu khu vực nông nghiệp không đủ khả năng 18 đáp ứng nhu cầu tăng thêm do dân số tăng, thì điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế. Trong khi vai trò của số lượng lao động (hay dân số) đối với tăng trưởng kinh tế là một vấn đề còn đang tranh cãi thì việc gia tăng, cải thiện chất lượng lao động hay vốn nhân lực có tác dụng kích thích tăng trưởng kinh tế đã được nhiều nhà kinh tế nhất trí. Vốn nhân lực có ý nghĩa là kỹ năng kiến thức mà người lao động tích lũy trong quá trình lao động, học hỏi, nghiên cứu, giáo dục…Việc nâng cao chất lượng nguồn lao động hay vốn nhân lực có tác dụng kích thích tăng trưởng các ngành, do đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời có ý nghĩa nâng cao chất lượng cơ cấu của nền kinh tế. 1.2.1.3- Khoa học và công nghệ Trong một số mô hình tăng trưởng, đặc biệt là trong hàm sản xuất tân cổ điển, khoa học công nghệ được giả định là phần còn lại giữa tốc độ tăng trưởng thực và tốc độ tăng trưởng có trọng số của các yếu tố sản xuất khác, vì vậy nó đại diện cho tất cả nhân tố đóng góp cho tăng trưởng ngoại trừ những sự gia tăng trong những yếu tố sản xuất chính như lao động và vốn; hay nói cách khác, nó đại diện cho tất cả các yếu tố sản xuất đóng góp cho tổng năng suất, bao gồm lợi thế tăng dần theo quy mô và sự chuyên môn hóa. Người ta lập luận rằng, khoa học công nghệ rất quan trọng đối với tăng trưởng, vì nó làm tăng năng suất của tất cả các yếu tố sản xuất. Việc ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất sẽ có tác dụng mạnh mẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả của các ngành. Vì vậy, khoa học, công nghệ còn có tác dụng nâng cao chất lượng cơ cấu của nền kinh tế. 1.2.1.4 - Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước phát sinh từ yêu cầu phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhà nước bằng vai trò can thiệp của mình sẽ bổ sung, hoàn thiện, sửa chữa, khắc phục những “khuyết tật” của thị trường và cùng với cơ chế thị trường khắc phục những vấn đề xã hội gay gắt. Chính sự kết hợp hài hòa, một cách khoa học vai trò của thị trường và vai trò của Nhà nước sẽ đảm bảo cho kinh tế phát triển bền vững. Sự thành công hay thất bại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ở một mức độ lớn gắn liền với việc sử dụng vai trò của Nhà nước. Vai trò của Nhà nước đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây: 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan