Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (qua trường hợp tôi thấy hoa ...

Tài liệu Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (qua trường hợp tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh)

.PDF
65
102
91

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ====== HOÀNG THỊ THƯƠNG CHUYỂN THỂ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH (QUA TRƯỜNG HỢP TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH) KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Lí luận văn học Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ KIỀU ANH HÀ NỘI, 2016 LỜI CẢM ƠN Trước hết, em xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo của khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, đã hết sức nhiệt tình trong quá trình giảng dạy giúp em có những kiến thức quý giá phục vụ trực tiếp cho quá trình thực hiện khoá luận tốt nghiệp. Em cũng xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Kiều Anh, người đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khoá luận, từ việc định hướng, lựa chọn đề tài đến việc xây dựng đề cương và triển khai khoá luận. Cô đã có những góp ý cụ thể và luôn luôn động viên để em có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đề tài của em chắc hẳn sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được sự góp ý chân thành của thầy cô cùng các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Sinh viên Hoàng Thị Thương LỜI CAM ĐOAN Khoá luận tốt nghiệp “ Chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (qua trường hợp Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh)” được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS.Nguyễn Thị Kiều Anh. Em xin cam đoan rằng: Các số liệu và tài liệu được sử dụng trong khoá luận là trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2016 Sinh viên Hoàng Thị Thương MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1 1. Lý do lựa chọn đề tài. ...................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ................................................................................. 2 3. Mục đích, ý nghĩa đề tài .................................................................. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ................................................... 3 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. ..................................................................... 4 6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................. 4 7. Bố cục báo cáo ................................................................................ 4 8. Quy cách trình bày .......................................................................... 5 CHƯƠNG 1: MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH ......................................................................................... 6 1.1. Văn học ........................................................................................ 6 1.1.1. Thuật ngữ văn học ..................................................................... 6 1.1.2. Đặc trưng của văn học ............................................................... 8 1.1.2.1. Tính “phi vật thể” của hình tượng ngôn từ .............................. 8 1.1.2.2. Khả năng miêu tả, thâm nhập vào đời sống tâm lý, tình cảm của con người ........................................................................................... 10 1.1.2.3. Khả năng chiếm lĩnh và xử lý không gian, thời gian. ............. 11 1.2. Điện ảnh ...................................................................................... 13 1.2.1. Thuật ngữ điện ảnh ................................................................... 13 1.2.2. Đặc trưng của điện ảnh ............................................................. 18 1.2.2.1. Ngôn ngữ thị giác .................................................................. 18 1.2.2.2. Ngôn ngữ thính giác .............................................................. 23 1.2.2.3. Montage (dựng phim) ............................................................ 25 1.3. Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. ........................................ 26 1.3.1. Mối quan hệ gần gũi, tác động lẫn nhau .................................... 26 1.3.2. Phim chuyển thể - sản phẩm của sự giao thoa giữa văn học và điện ảnh ............................................................................................. 28 1.3.2.1. Các hình thức chuyển thể ....................................................... 29 1.3.2.2. Những vấn đề cần lưu ý khi chuyển thể. ................................ 30 CHƯƠNG 2: TÔI THẤY HOA VÀNG TRÊN CỎ XANH - SỰ CHUYỂN THỂ TỪ TÁC PHẨM VĂN HỌC SANG TÁC PHẨM ĐIỆN ẢNH .............................................................................................. 32 2.1. Phim chuyển thể trong lịch sử điện ảnh Việt Nam ........................ 32 2.2. Tác phẩm “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” ................................ 35 2.2.1. Truyện dài "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh”(Nguyễn Nhật Ánh) .......................................................................................................... 35 2.2.2. Phim chuyển thể "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" (Victo Vũ). 36 2.3. Sự tương đồng và khác biệt giữa tác phẩm văn học và phim điện ảnh Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. ................................................... 38 2.3.1. Những điểm tương đồng. .......................................................... 38 2.3.2. Những điểm khác biệt ............................................................... 42 2.3.2.1. Nội dung tư tưởng ................................................................ 42 2.3.2.2. Nhân vật trong văn học và điện ảnh ...................................... 44 2.3.2.3. Ngôn ngữ và hình ảnh ........................................................... 52 KẾT LUẬN ........................................................................................ 57 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài. Nghệ thuật là sản phẩm kỳ diệu, vĩ đại nhất của trí tuệ và tâm hồn nhân loại. Trong quá trình vận động và phát triển, nghệ thuật ngày càng thoả mãn những yêu cầu đa dạng, phong phú của đời sống tinh thần con người đồng thời khẳng định tính độc lập của nó trước thực tiễn. Sở dĩ nghệ thuật cần thiết bởi vì chính trong nghệ thuật, con người đã tìm thấy sự biểu hiện cao nhất và đầy đủ nhất những khả năng nhiều mặt của mình. Đó là văn học, âm nhạc, hội hoạ, là điêu khắc, kiến trúc… và sau này là sân khấu điện ảnh. Các loại hình nghệ thuật có mối quan hệ qua lại, tác động và thâm nhập lẫn nhau. Một khuynh hướng văn nghệ có thể phát triển và lây lan trong nhiều ngành nghệ thuật như: chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa hiện sinh, … trong đó mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh trong gia đình nghệ thuật được coi là một trong những “duyên phận” kỳ diệu và đáng chú ý nhất. Văn học đã trở thành một nguồn rất quan trọng cho sự phát triển của điện ảnh. Rất nhiều các tác phẩm điện ảnh kinh điển trên thế giới và cả ở Việt Nam đã được chuyển thể từ các tác phẩm văn học nổi tiếng. Điện ảnh đã biết khai thác mảnh đất màu mỡ của văn học để làm cái nôi cho sự phát triển của mình. Đến nay điện ảnh đã ra đời hơn một thế kỷ. So với các loại hình nghệ thuật khác như văn học, âm nhạc, hội hoạ, sân khấu, kiến trúc… thì đây là một ngành nghệ thuật trẻ tuổi nhất. Mặc dù “sinh sau đẻ muộn” nhưng điện ảnh đã đạt được vô vàn những thành tựu tuyệt vời. Đó là do điện ảnh không chỉ dựa vào sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ, mà còn thừa hưởng tinh hoa của tất cả các loại hình nghệ thuật có trước. Bên cạnh đó, điện ảnh còn tác động ngược trở lại vào các ngành nghệ thuật, đặc biệt là văn học, tạo nên một diện mạo mới lạ, đầy sức sống cho các tác phẩm văn học. 1 Tuy nhiên từ văn học sang điện ảnh không phải là một con đường bằng phẳng, nó đầy những khó khăn, phức tạp và thử thách đối với những người yêu nghề, trong nghề. Vậy khi tác phẩm văn học được chuyển thể sang phim điện ảnh, nó đã khai thác và chuyển hoá những gì? Nó có những biến đổi ra sao và có bảo toàn được tính văn học nữa không? Điện ảnh đã tác động vào văn học như thế nào? Lựa chọn đề tài nghiên cứu: “chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (qua trường hợp: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh)” chúng tôi những mong tìm hiểu và lý giải được phần nào những mối quan hệ đa chiều, phức tạp đó. 2. Lịch sử vấn đề Sự ảnh hưởng, tác động của văn học với điện ảnh, điện ảnh với văn học chưa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Qua khảo sát, chúng tôi thấy vấn đề này được đề cập đến trong một số cuốn sách của các nhà phê bình, nghiên cứu điện ảnh của Liên Xô như Văn học với điện ảnh của Vai-Sphen, M.Rôm, I.Khâyphítxơ, E.Gabơrilôtritru; Tiết diện vàng màn ảnh của X.Prêilich… Các cuốn sách này đã phân tích một số khía cạnh về đặc trưng ngôn ngữ văn học và điện ảnh, phương pháp biểu hiện của truyện phim, thành phần văn xuôi trong truyện phim… Bên cạnh đó, vấn đề này còn được bàn đến trong một số bài báo như: - Mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh (Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 12-2002, Minh Trí) - Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 2 năm 2001, Hương Nguyên). -Từ văn học đến điện ảnh (Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, số 6/1999, Phạm Vũ Dũng). 2 Các bài báo trên chủ yếu chỉ ra những nét khái quát về mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh, đặc biệt là vai trò của văn học với điện ảnh. Và có phân tích ít nhiều đến sự chuyển thể từ tác phẩm văn học sang phim điện ảnh. Vì vậy để có được một cái nhìn tương đối đầy đủ về sự chuyển thể từ tác phẩm văn học sang phim điện ảnh là một điều tương đối khó khăn đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài này. Mặt khác, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là truyện dài mới nhất của Nguyễn Nhật Ánh , được Đạo diễn Victo Vũ chuyển thể thành phim điện ảnh công chiếu vào tháng 10/2015 vừa qua và qua khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện. Hiện mới chỉ có những bài viết đăng trên các báo, tạp chí giới thiệu đôi nét về sáng tác, văn phong của tác phẩm cũng như những cảm nhận, suy nghĩ của người xem về bộ phim. Lịch sử vấn đề như vậy quả thực là một thử thách của chúng tôi. 3. Mục đích, ý nghĩa đề tài Từ việc phân tích đặc điểm của văn học và điện ảnh cũng như mối quan hệ đa chiều giữa văn học và điện ảnh, chúng tôi muốn xem xét, tìm hiểu sự chuyển thể của văn học khi đi vào môi trường điện ảnh thông qua việc chuyển thể tác phẩm văn học Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh sang tác phẩm điện ảnh cùng tên của đạo diễn Victo Vũ .Qua đó chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của tác phẩm văn học với phim điện ảnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4.1 Đối tượng nghiên cứu Sự chuyển thể tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh (qua trường hợp Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh). 3 4.2 Phạm vi nghiên cứu Truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Tác phẩm điện ảnh Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh của đạo diễn Victo Vũ. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. Tìm hiểu đặc điểm, mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh. Tìm hiểu về truyện dài Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (Nguyễn Nhật Ánh). Tìm hiểu về phim chuyển thể Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh (đạo diễn Victo Vũ). So sánh hai thể loại và thấy được sự tương đồng, khác biệt của tác phẩm văn học và phim chuyển thể Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh. 6. Phương pháp nghiên cứu Nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa tác phẩm văn học và phim điện ảnh chúng tôi đã lựa chọn và kết hợp các phương pháp, thao tác nghiên cứu khoa học như: - Phương pháp phân tích - tổng hợp. - Phương pháp phân loại - thống kê. - Phương pháp khảo sát - so sánh. - Phương pháp mô tả 7. Bố cục khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đề tài gồm có 2 chương: Chương 1: Một vài nét về đặc điểm của văn học và điện ảnh Chương 2: Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh – Sự chuyển thể từ tác phẩm văn học sang tác phẩm điện ảnh. 4 8. Quy cách trình bày - Tên các loại tác phẩm: In nghiêng không đậm. - Viết tắt - Nxb = Nhà xuất bản. - Thông tin trong ngoặc vuông thứ tự là: Số thứ tự tài liệu đã dẫn, ở trang thứ 5 CHƯƠNG 1: MỘT VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HỌC VÀ ĐIỆN ẢNH “Tìm hiểu tính đặc thù của nghệ thuật không có nghĩa là tìm ra đường biên ranh giới giữa nghệ thuật và các hình thái ý thức xã hội khác mà chủ yếu chỉ ra những thuộc tính cơ bản, loại biệt của nghệ thuật” [10; 13]. Văn học và điện ảnh là hai loại hình nghệ thuật độc lập, tồn tại song song và tương trợ lẫn nhau. Chúng ta thường nghe thấy những mệnh đề: “Chất văn học trong điện ảnh” hay “chất điện ảnh trong văn học”… Vậy bản chất của văn học và điện ảnh thực sự là gì? Đặc trưng ngôn ngữ thể loại và chất liệu của chúng như thế nào? Chúng tôi sẽ dành toàn bộ nội dung chương 1 để tìm hiểu những vấn đề đó và rút ra những nét so sánh cơ bản về hai loại hình nghệ thuật này. 1.1. Văn học 1.1.1. Thuật ngữ văn học Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội, nó là một “sản phẩm thẩm mỹ độc đáo nảy sinh trong quá trình sáng tạo theo quy luật cái đẹp” [14; 13]. Phương tiện phản ánh hiện thực của nghệ thuật chính là các hình tượng nghệ thuật. Hơn 2000 năm trước đây Aritxtot, nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã chú ý đến đặc trưng nổi bật của nghệ thuật là sự “mô phỏng tự nhiên”, bao hàm việc tái hiện cuộc sống bằng hình tượng. Nhưng mỗi loại hình nghệ thuật có cách “mô phỏng tự nhiên khác nhau”, nó được quy định bởi chất liệu của loại hình. Đặc trưng của mỗi loại hình nghệ thuật, xét đến cùng, là bắt nguồn từ chất liệu của nó. Và người ta đã đưa ra những khái niệm về thuật ngữ văn học cũng chính từ nhân tố này. Nếu chất liệu của hội hoạ là màu sắc và đường nét, của âm nhạc là tiết tấu và âm thành, của vũ đạo là hình thể và động tác…tức đều tồn tại dưới trạng thái vật chất thì chất liệu của văn học là ngôn từ. “Văn học là nghệ thuật ngôn từ” [2; 377], hay văn học là “loại hình nghệ thuật sáng tạo bằng ngôn 6 từ” [9; 275]. Như vậy văn học lấy ngôn từ làm chất liệu để phản ánh đời sống xã hội và thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người. Tuy nhiên cần phải thấy rõ tính đặc thù của chất liệu nghệ thuật ngôn từ. Chất liệu của các loại hình nghệ thuật khác, xét cho cùng, đều do thiên nhiên cung cấp cho người nghệ sĩ, đó là gỗ, đá, kim loại, sơn màu, âm thanh và cả cơ thể con người để tạo nên các tác phẩm điêu khắc, kiến trúc, hội hoạ, vũ đạo… nhưng chất liệu của văn học thì hoàn toàn do con người tạo ra. Đó là ngôn ngữ, hay nói cách khác là ngôn từ. Những từ ấy tồn tại một cách khách quan trong đời sống hàng ngày. Nhà phê bình nghệ thuật Letssing đã phân biệt chính xác khi cho rằng hội hoạ sử dụng “các vật thể và màu sắc tồn tại trong không gian làm phương tiện và ký hiệu, còn thơ ca thì sử dụng âm thanh phát ra từ tiếng lần lượt trong không gian”. Bởi vậy, nếu chúng ta không biết thứ ngôn ngữ viết trong tác phẩm văn học thì chúng ta sẽ không thể nào hiểu được nội dung của nó. Bản chất xã hội lịch sử của văn học với tư cách là hình thái ý thức xã hội đặc thù được xác định bằng các khái niệm như “tính hiện thực”, “tính nhân loại”, “tính giai cấp”, “tính tư tưởng”, “tính khuynh hướng”, “tính Đảng”, “tính nhân dân”… Nhưng văn học khác với các hình thái ý thức xã hội như chính trị, triết học, đạo đức… còn ở đối tượng nhận thức và nội dung của nó. Văn học là sự phản ánh của đời sống nên văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm. Văn học nhận thức con người trong tính tổng hợp, toàn vẹn, sống động trong các mối quan hệ đời sống phong phú và phức tạp của nó trên các phương diện thẩm mỹ. Trong các tác phẩm văn học, nhà văn không chỉ đưa ra những nhận thức khách quan mà còn bộc lộ tư tưởng, tình cảm, ước mơ, khát vọng của mình đối với con người và cuộc sống. Do đó “nội dung của văn học là sự thống nhất biện chứng giữa phương diện chủ quan và phương diện 7 khách quan” [9; 276]. Đối tượng và nội dung đặc thù đòi hỏi văn học phải có phương thức chiếm lĩnh và biểu đạt riêng, đó là hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ thuật làm cho văn học gần gũi với các loại hình nghệ thuật khác. Tuy nhiên do mỗi loại hình sử dụng một chất liệu khác nhau nên hình tượng của chúng có những điểm riêng biệt. Tóm lại, văn học là nghệ thuật ngôn từ, thứ nghệ thuật có những hình tượng không trực tiếp trông thấy, nghe thấy được mà chỉ hiện lên trong trí tưởng tượng của chúng ta. Với tất cả những khả năng kỳ diệu của mình, ngôn từ đã đem lại cho văn học những đặc trưng độc đáo, giúp khu biệt văn học với các loại hình nghệ thuật và các hình thái ý thức xã hội khác. 1.1.2. Đặc trưng của văn học 1.1.2.1. Tính “phi vật thể” của hình tượng ngôn từ Do lấy ngôn từ làm chất liệu nên văn học gắn với kiểu hình tượng “phi vật thể”, có khả năng tác động vào trí tuệ, vào liên tưởng của con người. Sở dĩ có thể xây dựng được hình tượng nghệ thuật đặc biệt như vậy vì các từ, hay nói đúng hơn là sự kết hợp của các từ có khả năng chỉ ra hoặc làm cho người đọc nhớ đến bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong giới tự nhiên, xã hội và ý thức con người. Văn học khác với các loại hình nghệ thuật khác ở chỗ các hình tượng của nó không được cảm thụ trực tiếp bằng các giác quan: Thị giác, thính giác… Chúng ta có thể trực tiếp nhìn thấy bức tranh Người đàn bà xa lạ, nghe điệu nhạc Sông Danube xanh, tận mắt thấy điệu múa Champa, tháp Ép phen… nhưng với các tác phẩm văn học thì không thể, bởi ngôn ngữ - chất liệu đặc thù của nó - không phải là vật chất hay vật thể, đó chỉ là những ký hiệu của nó mà thôi. Khi đọc hoặc nghe một tác phẩm văn học, chúng ta không nhìn thấy trực quan cái mà nhà văn mô tả, nhưng nhờ vào sức mạnh của trí tưởng tượng 8 mà dường như chúng ta tái tạo lại được các hình tượng, biểu tượng mà văn bản chỉ ra. Khi nàng Kiều bị Hồ Tôn Hiến bắt “thị yến dưới màn”, ép nàng gẩy đàn mua vui, Nguyễn Du đã miêu tả tiếng đàn của Kiều như sau: “Một cung gió tủi, mưa sầu Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay! Ve ngâm, vượn hú, nào tày, Lọt tai, Hồ cũng nhăn mày, rơi châu” (Truyện Kiều) Hiển nhiên là chúng ta có thể nghe thấy ngữ âm của những câu thơ ấy. Nhưng bóng dáng của Kiều, và điệu đàn “muôn oán, nghìn sầu” thì không nghe thấy gì cả. Song những ngôn từ đó sẽ tác động vào trí não của chúng ta, làm cho chúng ta “nghe thấy” được một cách gián tiếp qua trí tưởng tượng. Các hình tượng văn học tuy thiếu tính trực quan nhưng lại được bù bằng những khả năng độc đáo khác. Nhà văn có thể tái tạo các phương diện hiện thực để người đọc có thể cảm nhận bằng mọi giác quan. Bằng chất liệu ngôn từ, nhà văn không những tái tạo được những cái hữu hình mà còn tái tạo được cả những cái vô hình, những cái mỏng manh, mơ hồ nhất mà các loại hình nghệ thuật khác phải bất lực. Nhà thơ Đoàn Phú Tứ đã từng tái hiện sinh động màu sắc và hương vị của thời gian qua tâm trạng hoài niệm: “Màu thời gian không xanh Màu thời gian tím ngát Hương thời gian không nồng Hương thời gian thanh thanh”. (Màu thời gian) 9 Dưới tác động “ma thuật” của nghệ thuật ngôn từ, đắm mình vào thế giới của các biểu tượng biến hoá khôn lường mà văn bản ghi lại, người đọc đã trở thành người đồng sáng tạo với nhà văn trong quá trình tham gia xây dựng nên các hình tượng nghệ thuật. Như vậy tính “phi vật thể” của hình tượng nghệ thuật là một đặc tính nổi bật khác biệt giữa văn học với các loại hình nghệ thuật khác. Nhờ có đặc tính này mà các nhà văn không chỉ miêu tả được hiện thực đa dạng, muôn màu của cuộc sống mà còn có thể đi sâu vào thế giới bên trong của hiện thực, mở ra chân trời tưởng tượng của thế giới nội tâm phong phú của con người. 1.1.2.2. Khả năng miêu tả, thâm nhập vào đời sống tâm lý, tình cảm của con người Khách thể của văn học là “vương quốc bất tận của tinh thần”. Chính ngôn từ, cái vỏ của tư duy, đã giúp văn học khám phá, đi sâu vào “vương quốc bất tận” đó với những suy tư phức tạp, những rung động tinh tế của lòng người: “Mới đọc được mươi dòng chị giận giữ tưởng như có thể xé vụn từng mảnh được, người ta coi thường chị đến thế ư? Nhưng khi gập lá thư lại thì một cảm giác êm đềm cứ lan nhanh ra như mạch nước ngọt rỉ thấm vào những thớ đất khô cằn vì nắng hạn, một nỗi vui sướng kỳ lạ dào dạt không thể nén lại nổi khiến người chị ngây ngất, muốn cười to một tiếng, nhưng trong mi mắt lại như đã mọng đầy nước chỉ định trào ra”. Đó là tâm trạng của nhân vật Đào - một người phụ nữ nhan sắc kém mặn mà, bất hạnh trong cuộc sống khi nhận được lá thư của ông Trung đội trưởng già phụ trách lò gạch trong truyện ngắn Mùa lạc của nhà văn Nguyễn Khải. Có lẽ không có loại hình nghệ thuật nào có thể lột tả được hết những cảm giác vô hình ấy trong lòng người như văn học. Âm nhạc trữ tình cũng đi sâu vào lòng người nhưng là trên những cảm xúc và rung động ít nhiều trừu tượng. Chỉ cần một xúc cảm, 10 một tâm trạng, một suy nghĩ của con người trước cuộc sống cũng đủ để nhà văn có thể tạo nên những bức tranh sinh động, cụ thể về hiện thực. Đây cũng chính là một thế mạnh của văn học với tư cách là một loại hình nghệ thuật bằng ngôn từ, và cũng là lãnh địa của các nhà văn, nhà thơ, giúp họ làm nên tên tuổi. 1.1.2.3. Khả năng chiếm lĩnh và xử lý không gian, thời gian. Các loại hình nghệ thuật chiếm lĩnh hiện thực trong các chiều không gian, thời gian của nó một cách khác nhau. Chẳng hạn hội hoạ và điêu khắc miêu tả các sự vật một cách tĩnh tại, chớp lấy một khoảnh khắc nhất định của đối tượng và biểu hiện nó trong tương quan về không gian. Nhưng văn học thì trái lại (về mặt này thì nó giống với sân khấu và điện ảnh), chủ yếu tái hiện các quá trình đời sống diễn ra trong thời gian, hoạt động sống của con người gắn liền với những cảm thụ, suy nghĩ, ý định, hành vi sự kiện… Việc văn học thiên về miêu tả các quá trình đời sống được Lecssing cắt nghĩa một cách thuyết phục là do quảng tính thời gian của lời nói con người. “Lấy ngôn từ làm chất liệu, văn học mang tính cực đại về không gian, cực lâu và cực nhanh về thời gian” [2; 191 ]. Văn học có khả năng to lớn trong việc miêu tả đối tượng trong tính vận động, tái tạo dòng thời gian với những nhịp độ khác nhau. Sự vận động của thời gian trong tác phẩm văn học phản ánh nhịp độ vận động của cuộc sống. Trong Chiến tranh và hoà bình, L.Tolstoy có thể tái hiện lại hoàn cảnh chiến trường Brodino mà những bức tranh hoành tráng cũng không thể làm nổi, còn Tam Quốc có thể kể lại câu chuyện hàng trăm năm, rồi 15 năm lưu lạc của nàng Kiều thì dù có tranh liên hoàn cũng không thể nào vẽ được tỉ mỉ như vậy… Vì miêu tả thời gian trong ý thức, trong sự cảm thụ của con người mà tác phẩm văn học có thể “co” lại trong một vài dòng trần thuật ngắn hoặc “kéo căng” trong hàng chục trang. Mặt khác, văn học còn có khả năng miêu tả thời 11 gian ba chiều (quá khứ - hiện tại - tương lai). Chính vì vậy mà văn học có thể chiếm lĩnh và tái hiện đời sống một cách đa dạng, sâu rộng mà các loại hình nghệ thuật khác như hội hoạ, điêu khắc không thể nào đạt được. Ngay cả trong việc mô tả không gian nghệ thuật, văn học cũng lại có những ưu thế riêng so với điêu khắc, hội hoạ. Vận dụng những từ ngữ để chỉ ra các sự vật, nhà văn có khả năng chuyển dịch từ bức tranh này sang bức tranh khác một cách nhanh chóng lạ thường, dễ dàng đưa người đọc vào những miền không gian khác nhau. Chẳng hạn, trong bài thơ Kapka nổi tiếng, chỉ với hai bốn dòng thơ Puskin đã khắc hoạ một bức tranh hoành tráng về Kapka, từ đỉnh núi đến những mỏm đá, những tầng rêu xanh.... Các hình tượng của trường ca, truyện vừa, tiểu thuyết càng mở ra những con đường rộng lớn trong việc miêu tả không gian. Trong thơ Huy Cận thì ta lại bắt gặp không gian ba chiều: “Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” (Tràng Giang) Các biểu tượng không gian trong văn học không chỉ là hình ảnh của không gian vật lý mà nó còn là sự hiện diện của không gian tâm tưởng mang ý nghĩa khái quát. Qua những không gian ấy, con người có được một hình thức biểu hiện tư tưởng - thẩm mỹ, tình cảm, cảm xúc, một phương thức chiếm lĩnh hiện thực đời sống một cách đặc thù. “Các nghệ sĩ ngôn từ không những gần gũi với các biểu tượng thời gian mà còn gần gũi với các biểu tượng không gian, mặc dù trong văn học rõ ràng là cái thứ nhất chiếm ưu thế” [1; 83]. Như vậy, với việc sử dụng ngôn từ làm chất liệu, văn học đã xây dựng được các hình tượng nghệ thuật “phi vật thể” đầy sống động mà người đọc có thể cảm nhận bằng mọi giác quan. Bên cạnh đó văn học còn có khả năng to 12 lớn trong việc thâm nhập vào đời sống tinh thần của con người và chiếm lĩnh thời gian, không gian một cách linh hoạt. Đó là những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ văn học. Trong quá trình phát triển của mình, văn học ngày càng phát huy những mặt lợi thế của nó và khắc phục dần dần những “thua kém” của nó về tính trực quan, đồng thời cũng tự làm mới mình bằng cách tiếp thu phương thức tạo hình biểu hiện của các loại hình nghệ thuật khác. 1.2. Điện ảnh 1.2.1. Thuật ngữ điện ảnh Tính đến nay, năm 2015, nghệ thuật điện ảnh đã có 119 năm tuổi. Sự ra đời của điện ảnh đã làm cho nghệ thuật biến động và khởi sắc, nó tác động to lớn đến đời sống tinh thần của nhân loại. Người ta không khỏi bất ngờ trước diện mạo mới mẻ và trẻ trung của nó. Nhưng điện ảnh là gì thì vẫn chưa có một khái niệm như văn học. Trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt, điện ảnh đã được định nghĩa là “1Kỹ thuật thu vào phim những hình cử động liên tục và chiếu lại trên màn ảnh. 2- Ngành nghệ thuật dùng kỹ thuật để thu phát kịch bản được dàn dựng, đạo diễn công phu” [7; 634]. Còn cuốn sách Từ điển tiếng Việt tường giải và liên tưởng thì đưa ra cách hiểu về điện ảnh là “nghệ thuật phản ánh hiện thực bằng những hình ảnh hoạt động liên tục, thu vào phim (nhựa, video) để chiếu các cử động lên màn ảnh” [8; 905]. Những nhà nghệ sĩ thì tuỳ theo cảm quan của mình mà đưa ra những ý kiến khác nhau: “điện ảnh là âm nhạc của ánh sáng”, “là nghệ thuật của sự biến đổi”, “là hình ảnh chuyển động”, “là con đẻ của khoa học kỹ thuật”… Tuy nhiên những nhận xét đó chưa phải là toàn bộ nội hàm của thuật ngữ điện ảnh. Để hiểu được khái niệm điện ảnh một cách tương đối đầy đủ cần phải có một cái nhìn toàn diện về những thuộc tính của nó. “Có nhiều quan niệm khác nhau về đặc trưng điện ảnh. Song hiện nay quan niệm phổ biến nhất cho rằng điện ảnh có 8 thuộc tính cơ bản: điện ảnh là một 13 nghệ thuật tổng hợp, có tính chất quần chúng, tính dân tộc và tính quốc tế, tính giải trí, tính kinh tế thương mại và mang giá trị tư tưởng nhân sinh sâu sắc. Điện ảnh là con đẻ của khoa học kỹ thuật - công nghệ và nằm trong cấu trúc văn hoá, truyền thông đại chúng” [13; 16]. Điện ảnh là một ngành nghệ thuật tổng hợp bởi nhiều nguyên nhân sau. Thứ nhất là điện ảnh đã tiếp nhận ở văn học đề tài, cốt truyện, tư tưởng, lời thoại và các thủ pháp nghệ thuật. Trong lịch sử điện ảnh thế giới cũng như Việt Nam, việc các thể loại điện ảnh, đặc biệt là phim truyện luôn kế thừa ý tưởng, cốt truyện… của các tác phẩm văn học là một điều hết sức phổ biến. Chẳng cần nêu thật tỉ mỉ, chúng ta cũng thấy quá rõ, phần lớn phim truyện của ta được hình thành dựa trên thành tựu của văn học nước nhà như: Lửa trung tuyến (năm 1961) dựa theo truyện ngắn của Nguyễn Văn Dân, Chim vành khuyên (năm 1962) dựa theo truyện ngắn của Nguyễn Thông, rồi Chị Tư Hậu (năm 1964), Nổi gió (năm 1966), Cánh đồng hoang (năm 1979), Mẹ vắng nhà (năm 1979)… Điện ảnh còn tiếp nhận ở hội hoạ và các loại hình nghệ thuật khác như điêu khắc, kiến trúc… để tạo ra những thành tố cho một bộ phim. Với 24hình/s, có thể nói rằng, mỗi khoảnh khắc trong một bộ phim là rất nhiều tác phẩm nghệ thuật tạo hình liên hệ với nhau. Mỗi hình phim giống như một tác phẩm hội hoạ mà ở đó dưới sự chỉ đạo của người đạo diễn, sự bài trí của người hoạ sĩ, cách đặt máy quay của người quay phim, diễn xuất của diễn viên hay một cảnh thiên nhiên tĩnh lặng… đều là một tác phẩm hội hoạ có bố cục hoàn chỉnh về màu sắc, có tiền cảnh, hậu cảnh… có chủ điểm ý tưởng mà những người làm phim muốn gửi đến người xem. Cảnh Natalia bị Grigôri ruồng bỏ, quỳ ngoài trời trong đêm mưa, giơ đôi tay quằn quại, thất vọng lên không trung mịt mù, cầu van đấng tối cao trừng phạt người chồng bội bạc 14 trong phim Sông Đông êm đềm chính là bước chuyển ngôn ngữ từ bức tranh Một con chiên đau khổ cầu chúa và tác phẩm điện ảnh. Điện ảnh đưa âm nhạc tham gia vào bộ phim không chỉ để phụ hoạ làm nền mà còn làm tăng tính chất trữ tình và thi vị cho bộ phim. Những ai đã từng xem phim Xô Viết Bản tình cả của những người yêu nhau hẳn không thể nào quên được lời bài hát đớn đau nhưng tràn đầy hy vọng của cô gái tưởng như bị mất người yêu khi chàng trai phải đi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Hay ca khúc Hoa sữa ngọt ngào trong bộ phim Hà Nội - Mùa chim làm tổ, ca khúc da diết buồn Chị tôi trong phim truyền hình nhiều tập Người Hà Nội… Những gì mà điện ảnh tiếp nhận ở những loại hình nghệ thuật khác, những thông điệp bằng lời, bằng âm nhạc, bằng hình ảnh … đã tạo nên tính tổng hợp của nghệ thuật điện ảnh. Bởi vậy, nói về điện ảnh, có nhà nghiên cứu đã phải khẳng định rằng: “Điện ảnh là một nghệ thuật tổng hợp, mang đến cho hàng triệu người xem ngôn từ của nhà văn, tranh của hoạ sĩ, diễn xuất của diễn viên, giai điệu của nhạc sĩ… Đây là nghệ thuật liên kết hội hoạ và kiến trúc, âm nhạc và văn học. Phim có âm thanh và màu sắc, khổ rộng và lập thể - Đây quả thực là một nghệ thuật tổng hợp” [8; 17]. Với tính tổng hợp về ngôn ngữ biểu hiện như vậy, điện ảnh có thể phản ánh đời sống một cách phong phú, hiện thực hơn tất cả các nghệ thuật khác, đồng thời cũng “phi hiện thực”, “siêu hiện thực” hơn tất cả. Điện ảnh là nghệ thuật chân tình nhất, chủ quan nhất, cảm động nhất, thấm sâu nhất, tác động mạnh mẽ nhất vào giác quan của người xem. Điện ảnh đã mở đường cho việc nhận thức bằng nghệ thuật những chân trời rộng lớn. Tuy nhiên sẽ rất sai lầm nếu nghĩ rằng điện ảnh chỉ là sự “hoà lẫn” các loại hình nghệ thuật khác nhau. Điện ảnh hoàn toàn là một loại hình độc lập, tính chất độc lập của nó không kém gì so với các loại hình nghệ thuật khác. Nó chỉ sử dụng một cách sáng tạo kinh nghiệm phong phú của quá trình phát 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan