Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Con người cô đơn trong tiểu thuyết của kawabata nhìn từ tâm thức hiện sinh...

Tài liệu Con người cô đơn trong tiểu thuyết của kawabata nhìn từ tâm thức hiện sinh

.PDF
140
428
136

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 -------------***------------- TRẦN THÚY HẰNG CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA KAWABATA – NHÌN TỪ TÂM THỨC HIỆN SINH Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học PGS. TS. TRƯƠNG ĐĂNG DUNG HÀ NỘI, 2015 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình làm luận văn em đã nhận được sự giúp đỡ, động viên chân tình từ gia đình, thầy cô, bạn bè. Hoàn thành đề tài nghiên cứu, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Trương Đăng Dung – người thầy đã tận tâm hướng dẫn em hoàn thành luận văn này. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, đặc biệt là các thầy cô Phòng Sau Đại học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình học tập và thực hiện đề tài. Xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và người thân đã luôn bên cạnh, động viên, khuyến khích, giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu. Hà Nội ngày 16 tháng 7 năm 2015 Tác giả TRẦN THÚY HẰNG LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu đã được cảm ơn và thông tin trích dẫn trong luận văn đã ghi rõ nguồn gốc. Đề tài Con người cô đơn trong tiểu thuyết của Kawwabata – nhìn từ tâm thức hiện sinh được thực hiện bởi chính tác giả, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.Trương Đăng Dung. Luận văn chưa được công bố ở bất kỳ nơi nào. Tác giả TRẦN THÚY HẰNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 8 5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................... 8 6. Bố cục luận văn ......................................................................................... 9 NỘI DUNG ..................................................................................................... 10 Chương 1. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG TRIẾT HỌC VÀ VĂN HỌC HIỆN SINH .................................................................................. 10 1.1. Con người cô đơn trong triết học hiện sinh ......................................... 10 1.1.1. Khái quát sự ra đời của triết học hiện sinh trên thế giới.............. 10 1.1.2. Hiểu về khái niệm “triết học hiện sinh” ....................................... 12 1.1.3. Những nội dung chính của triết học hiện sinh về con người ........ 13 1.2. Con người cô đơn trong văn học hiện sinh .......................................... 19 1.2.1. Khái quát về phong trào văn học hiện sinh thế giới .................... 19 1.2.2. Những nội dung cơ bản trong văn học hiện sinh .......................... 21 1.2.3. Tư tưởng hiện sinh trong văn học Nhật Bản ................................. 23 1.3. Tiền đề cho sự xuất hiện con người cô đơn trong sáng tác của Kawabata...................................................................................................... 25 1.3.1. Yếu tố đất nước và con người Nhật Bản ....................................... 25 1.3.2. Yếu tố văn hóa, văn học truyền thống Nhật Bản .......................... 26 1.3.2.1. Từ nền văn hóa giàu bản sắc ................................................. 26 1.3.2.2. Đến nền văn học đậm niềm bi cảm ........................................ 29 1.3.3. Sự tiếp xúc giữa văn hóa Nhật Bản và văn hóa phương Tây ....... 33 1.3.4. Những biến động trong cuộc đời Kawabata ................................. 34 1.3.4.1. Người lữ khách ưu sầu ........................................................... 34 1.3.4.2. Tâm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của Kawabata ............. 37 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CON NGƯỜI CÔ ĐƠN MANG TÂM THỨC HIỆN SINH TRONG TIỂU THUYẾT KAWABATA .................................. 40 2.1. Con người mang cảm thức cô đơn ....................................................... 40 2.1.1. Con người với nỗi cô đơn bản thể................................................. 40 2.1.2. Con người mang niềm bi cảm Nhật Bản ....................................... 45 2.2. Con người với giới hạn thân phận........................................................ 52 2.2.1. Những nghịch cảnh của số mệnh .................................................. 52 2.2.2. Ý thức về hữu hạn ......................................................................... 57 2.3. Hành trình sống và dấn thân ................................................................ 62 2.3.1. Hành trình vượt giới hạn .............................................................. 62 2.3.2. Hành trình tìm kiếm ý nghĩa của đời sống .................................... 68 2.3.3. Cuộc chiến chống lại sự tha hóa ................................................... 74 Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG TIỂU THUYẾT KAWABATA NHÌN TỪ TÂM THỨC HIỆN SINH................................................................................................................ 79 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật mang tâm thức hiện sinh ..................... 79 3.1.1. Nghệ thuật khắc họa ngoại hình nhân vật .................................... 80 3.1.1.1. Miêu tả vẻ đẹp ngoại hình nhân vật nữ.................................. 80 3.1.1.2. Sự mờ hóa chân dung nhân vật nam ...................................... 85 3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nội tâm nhân vật ......................................... 87 3.1.2.1. Khắc họa nội tâm qua lời nửa trực tiếp ................................. 88 3.1.2.2. Khắc họa nội tâm qua ngôn ngữ nhân vật ............................. 93 3.2. Nghệ thuật xây dựng không gian và thời gian sống của nhân vật ..... 104 3.2.1. Con người cô đơn trong không gian ........................................... 104 3.2.1.1. Không gian khép kín ............................................................ 105 3.2.1.2. Không gian tâm tưởng ......................................................... 109 3.2.2. Con người cô đơn trong thời gian .............................................. 113 3.2.2.1. Thời gian vận động theo mùa .............................................. 114 3.2.2.2. Thời gian dòng ý thức .......................................................... 117 KẾT LUẬN ................................................................................................... 124 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 128 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Ấn tượng về “đất nước mặt trời mọc” Về vị trí địa lí, Nhật Bản là một quốc gia khá độc lập so với các quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực. Không chỉ nổi tiếng với cái tên như “đất nước mặt trời mọc”, Nhật Bản còn được biết đến là một “quốc đảo” khi toàn bộ diện tích đất nước là sự quy tụ của những hòn đảo lớn nhỏ, xung quanh là đại dương mênh mông. Khoảng cách đó vừa đủ xa để người Nhật lắng nghe những biến động của thế giới vừa đủ cách biệt để họ khép kín trong nỗi cô đơn của dân tộc mình. Thế giới biết đến Nhật Bản không chỉ là một cường quốc về kinh tế và khoa học công nghệ mà còn bởi những đức tính đáng quý của con người Nhật. Với ý chí và nghị lực phi thường, người Nhật đã tạo nên sức bật thần kì để hồi sinh mạnh mẽ sau hai cuộc chiến tranh thế giới. Tuy nhiên, như là định mệnh, hệ quả tất yếu của tính chủ động, độc lập chính là nỗi cô đơn, trầm mặc trong đời sống tâm hồn và sự cô lập, khép kín với tha nhân. Về tôn giáo, ở Nhật Bản, đạo Phật chiếm ưu thế hơn hẳn so với các tôn giáo khác. Phật giáo cung cấp cho người Nhật một cách nhận thức về thế giới tự nhiên, tâm linh, bản ngã và tạo cho người Nhật lối sống thiên về nội tâm trầm lặng, đi sâu vào thế giới bên trong con người hơn là khai phá hiện thực khách quan. Về văn học, xuyên suốt chiều dài lịch sử, Nhật Bản có quyền tự hào về một nền văn học giàu có bậc nhất thế giới với lịch sử phát triển gần mười hai thế kỷ với những tác phẩm nổi tiếng như: Kokiji (Cổ sự kí), Nihonsuki (Nhật Bản thư kí), Fudoki (Phong thổ kí), Manyyoshu (Vạn diệp tập)… Ấn tượng đặc biệt về “đất nước mặt trời mọc” là lí do thứ nhất chúng tôi lựa chọn một tác giả được sinh ra trên mảnh đất Phù Tang, xứ sở của hoa anh đào và những nét văn hóa phương Đông điển hình: nhà văn Kawabata. 2 1.2. Lòng ngưỡng mộ tài năng của một nhà văn phương Đông Trong nền văn học dân tộc, Kawabata có vị trí cực kì quan trọng. Ông là nhà văn đầu tiên ở Châu Á đoạt giải Nobel văn học năm 1968. Ông là đại diện tiểu biểu cho vẻ đẹp truyền thống Nhật Bản với những trang viết đậm chất trữ tình và khả năng khai thác tâm lí nhân vật của một cây bút bậc thầy. Đọc tác phẩm của Kawabata, người đọc thấy hiển hiện một nỗi buồn mênh mang, cố hữu, phảng phất tâm thức cô đơn của kiếp người trong quan niệm của Phật giáo và tư tưởng hiện sinh. Sự gặp gỡ này làm cho con người cô đơn trong sáng tác của Kawabata có điểm khác biệt với nỗi cô đơn thường thấy của các nhà hiện sinh phương Tây. Đó vừa là nỗi cô đơn bản thể của con người nhưng vừa là nỗi buồn mang vẻ đẹp và niềm u uẩn của con người Nhật Bản - một nỗi buồn bản địa đặc thù. Nỗi cô đơn trong tiểu thuyết Kawabata được viết nên trước hết từ chính những buồn đau trong cuộc đời nhà văn – con người dường như được sinh ra với định mệnh cô đơn; hơn nữa, nỗi cô đơn ấy cũng được kết tinh từ truyền thống văn hóa, văn học Nhật Bản; vang lên từ một thời đại mà cái đẹp đang dần bị hoen ố, từ chính những đổ vỡ tinh thần của người Nhật khi văn minh phương Tây xói mòn văn hóa truyền thống một cách dữ dội. Vì vậy, khám phá con người cô đơn trong tiểu thuyết của Kawabata không chỉ giúp chúng ta thấy rõ mạch nguồn truyền thống văn hóa, văn học của xứ sở hoa anh đào mà còn thấy cả một hiện thực đầy biến động của đất nước và con người Nhật Bản những thập niên đầu thế kỉ XX. 1.3. Nghiên cứu con người cô đơn nhìn từ tâm thức hiện sinh là một hướng đi có ý nghĩa trong bối cảnh văn học đương đại Chủ nghĩa hiện sinh ra đời đặt con người vào đúng vị trí của mình trong thế giới, gọi tên đúng những vấn đề mà con người đang mang, thức tỉnh họ đối diện với những hiện tồn của đời sống và bản thể cô đơn của mình. Những 3 nhà văn lớn đồng thời cũng là những nhà tư tưởng lớn, sáng tác của Kawabata đặc biệt là tiểu thuyết chính là nơi thể hiện những vấn đề hiện sinh như thế. Bởi vậy, việc nghiên cứu con người cô đơn trong tiểu thuyết Kawabata nói riêng và các tác gia văn học hiện đại nói chung là một hướng đi đúng và có ý nghĩa trọng bối cảnh hiện nay. Về mặt lí thuyết, lựa chọn đề tài, chúng tôi mong muốn góp thêm một cách tiếp cận mới về quan niệm con người trong tiểu thuyết Kawabata dưới sự soi chiếu của lí thuyết hiện sinh qua đó làm nổi bật những nét chung và nét riêng, những kế thừa và sáng tạo của nhà văn trong việc thể hiện con người cô đơn. Về thực tiễn, trong những năm gần đây, văn học Nhật và sáng tác của Kawabata được dịch, giới thiệu và giảng dạy phổ biến ở các trường Đại học, Cao đẳng, phổ thông ở Việt Nam. Vì vậy, với đề tài Con người cô đơn trong tiểu thuyết của Kawabata – nhìn từ tâm thức hiện sinh, chúng tôi hi vọng những nội dung được triển khai sẽ có ý nghĩa nhất định cho việc nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm của Kawabata trong nhà trường. 2. Lịch sử vấn đề Các tác phẩm của Kawabata không chỉ được giới thiệu rộng rãi mà còn thu hút nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam. Ở Việt Nam, các sáng tác của ông được dịch ra tiếng Việt gồm thể loại truyện ngắn, truyện ngắn trong lòng bàn tay và tiểu thuyết. Sáng tác của Kawabata từng được nghiên cứu dưới nhiều góc độ của phân tâm học, Thiền học, chủ nghĩa hiện sinh... Đề tài của chúng tôi có hai giới hạn: thứ nhất là về con người cô đơn, thứ hai là tiếp cận từ tâm thức hiện sinh. Vì vậy, dù số lượng các bài nghiên cứu, sách, bài viết về sáng tác của Kawabata là rất phong phú và đa dạng nhưng chúng tôi chỉ điểm qua những công trình nghiên cứu có đề cập đến yếu tố hiện sinh và con người cô đơn trong tiểu thuyết Kawabata với ý nghĩa cơ sở và gợi mở ý tưởng cho đề tài. 4 2.1. Nghiên cứu về sáng tác của Kawabata trên thế giới Do hạn chế về nguồn tư liệu và chưa sử dụng được tiếng Nhật nên chúng tôi chỉ kể tên và khái quát nội dung của những công trình nghiên cứu về Kawabata ở ngoài nước trong phạm vi chúng tôi thu thập được. Nhà văn vô sản Aono Suekiti trong cuốn Các nhà văn hiện đại Nhật Bản đã đặc biệt lưu ý đến chức năng “thanh lọc” trong tác phẩm của Kawabata: “Mỗi lần đọc tác phẩm của ông, tôi lại thấy xung quanh tựa hồ như lắng đi, không khí bỗng trở nên trong trẻo còn tôi thì hòa tan trong đó” (Chuyển dẫn theo [55; 10]). Nhà văn hiện đại nổi tiếng Nhật Bản - Mishima Yukio đã nâng Kawabata lên tầm “người lữ khách muôn đời đi tìm cái đẹp”. Nhận định nổi tiếng “Kawabata - vĩnh viễn lữ nhân” của ông là gợi ý, khởi nguồn cho rất nhiều công trình nghiên cứu khác về nhà văn này. Ý tưởng về kiểu nhân vật “lữ khách” đi tìm cái đẹp, nhân vật hành trình, dấn thân mang tâm thức hiện sinh cũng được chúng tôi khai triển dựa trên gợi mở của nhà văn Yukio. Trong diễn từ nhận giải Nobel văn chương năm 1994, Oe Kenzaburo đã dành phần lớn những trang đầu để tôn vinh Kawabata và đã bộc lộ một trong những đặc trưng cơ bản của tác phẩm Kawabata là tính mơ hồ, mông lung, diệu vợi - tiêu chí cơ bản của cái đẹp theo quan điểm mĩ học Thiền. Đây sẽ là gợi ý quan trọng để chúng tôi tìm hiểu sự mơ hồ, mong manh, hư vô của đời sống trong tâm thức con người. Nhà Đông phương học người Nga N.I. Fedorenco với các bài viết: Y.Kawabata với triết học và mĩ học, Y.Kawabata – con mắt nhìn thấu cái đẹp đã khẳng định dấu ấn của mĩ học Thiền trong sáng tác Kawabata và gián tiếp chỉ ra nét tương đồng giữa tác phẩm của Kawabata với các tác phẩm văn học hiện sinh về các vấn đề cốt lõi như “hư vô”, “khoảng trống”, “bản thể”… Đây được coi là tài liệu quan trọng giúp chúng tôi có định hướng rõ ràng trong 5 việc xác định những tiền đề cơ bản làm nảy sinh yếu tố hiện sinh trong tác phẩm của Kawabata. Do đó, dù cùng được nhìn từ tâm thức hiện sinh nhưng con người cô đơn trong tiểu thuyết Kawabata vẫn có những nét khác biệt so với các tiểu thuyết gia khác. 2.2. Nghiên cứu về sáng tác của Kawabata ở Việt Nam Ở Việt Nam, năm 1969 – một năm sau khi nhà văn Kawabata của Nhật Bản được tặng giải Nonel đã xuất hiện một số bài nghiên cứu, giới thiệu về cuộc đời sự nghiệp của nhà văn này. Từ đó đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ về ông và tác phẩm của ông. Công trình đáng kể nhất giới thiệu chung về tác giả Kawabata và tác phẩm của ông là Yasunary Kawabata cuộc đời và tác phẩm của tác giả Lưu Đức Trung do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1997. Trong chuyên luận này, tác giả đã đưa ra những tìm hiểu, phân tích cuộc đời và những yếu tố thời đại có ảnh hưởng nhất định đến con đường nghệ thuật và sáng tác của Kawabata. Phong cách nổi bật của Kawabata được tác giả nhận định đó là “chất trữ tình sâu lắng, nỗi buồn êm dịu” [88;18] được kế thừa từ dòng văn học “nữ lưu” thời Heian. Tác giả Lưu Đức Trung quay trở lại với bài viết Thi pháp tiểu thuyết Kawabata - nhà văn lớn của Nhật Bản nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Kawabata (1899 – 1999). Trong đó, ông đã chỉ ra đặc trưng nổi bật trong sáng tác Kawabata là dấu ấn của mĩ học Thiền - tiêu biểu là thi pháp chân không, lấy im lặng làm nguyên tắc biểu đạt. Bài viết Yasunary Kawabata dưới nhãn quan phương Tây in trên Tạp chí Văn Sài Gòn năm 1969 của tác giả Chu Sỹ Hạnh đã có những cảm nhận sắc sảo về bút pháp của nhà văn Kawabata như âm hưởng chung về nỗi cô đơn, những suy nghĩ nội tâm nhân vật... Những ý kiến sâu sắc của tác giả sẽ 6 được chúng tôi triển khai cụ thể trong từng tiểu thuyết, ở từng nhân vật với từng biểu hiện khác nhau. Năm 1992, ấn phẩm Dạo chơi vườn văn Nhật Bản được nhà xuất bản Giáo dục phát hành, trong đó nhà văn hóa Hữu Ngọc cho rằng tính cách lưỡng phân giữa lối sống cổ truyền và lối sống hiện đại là cái nền cho sáng tác của Kawabata. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng cảm nhận thấy sự “lưỡng phân” qua các nhân vật, đó vừa là nỗi cô đơn bản thể từ cái nhìn hiện đại vừa là nỗi cô đơn từ trong thẳm sâu tâm thức người Nhật. Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu với bài viết Thế giới Yasunary Kawabata (hay là cái đẹp: hình và bóng) in trên tạp chí Văn học số 3, năm 2000 giống như các nhà nghiên cứu khác đã nhấn mạnh đến vẻ đẹp, nỗi buồn, sự cô đơn hiện lên dưới nhãn quan duy mĩ của nhà văn. Tác giả Phạm Văn Tuấn trong bài viết Yashunari Kawabata(18991972): văn hào Nhật Bản và tác phẩm “Ngàn cánh hạc" khi phân chia các giai đoạn sáng tác trong sự nghiệp của Kawabata đã trực tiếp chỉ ra mối quan hệ tương đồng giữa sáng tác của Kawabata với văn học hiện sinh ở mặt nội dung, tư tưởng là cùng lấy nỗi cô đơn và ám ảnh cái chết làm trục chủ đạo xuyên suốt. Mặt khác, những “kinh nghiệm bi thương” của Kawabata được tác giả nhắc tới sẽ trở thành một trong những tiền đề dẫn đến sự xuất hiện yếu tố hiện sinh trong tác phẩm của Kawabata. Tác giả Đỗ Phương Nam trong bài viết Thủ pháp nghệ thuật đặc sắc xây dựng biểu tượng trong tiểu thuyết của Yasunari Kawabata nêu những đặc điểm cơ bản trong tiểu thuyết của Kawabata: luôn có xu hướng tìm về với truyền thống trong một cảm thức mất mát và suy tàn, cái chết là một ám ảnh ghê gớm và tiểu thuyết của ông luôn mang màu sắc buồn bã của sự chia li và niềm tuyệt vọng... Trong Tuyển tập Yashunari Kawabata, Thụy Khuê có bài viết Từ Murasaki đến Kawabata. Khi phân tích biểu tượng “người đẹp ngủ” trong tiểu 7 thuyết Người đẹp say ngủ, bà đã chỉ ra tình trạng thảm kịch của con người mà nhất là ám ảnh, đe dọa, trạng thái chênh vênh giữa hai bờ sống - chết và đây cũng là một trong những đặc trưng cơ bản của văn chương hiện sinh. Tác giả Đào Thị Thu Hằng với bài viết Kawabata giữa dòng chảy Đông Tây đã không ít lần nói về ảnh hưởng sâu sắc của Phân tâm học đến sáng tác của Kawabata như: vô thức, không gian giấc mơ huyền ảo và cả vấn đề tính dục… Tất cả những điều này sẽ là căn cứ giúp chúng tôi xác định một cách cụ thể hơn những biểu hiện hiện sinh của các nhân vật trong tiểu thuyết Kawabata. Khảo sát những công trình nghiên cứu về sáng tác của Kawabata, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đã làm sáng rõ những vấn đề chính như: cuộc đời và sự nghiệp Kawabata, những biến động lịch sử và cuộc đời riêng tác động đến sáng tác Kawabata, những khía cạnh nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm của ông... Đây sẽ là nguồn tư liệu vô cùng quý giá cho chúng tôi trong quá trình triển khai đề tài. Tuy nhiên để tìm hiểu con người cô đơn với những biểu hiện cụ thể trong tiểu thuyết Kawabata nhìn từ tâm thức hiện sinh thì chưa có công trình nào đề cập một cách trọn vẹn. Trên cơ sở đó, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Con người cô đơn trong tiểu thuyết của Kawabata – nhìn từ tâm thức hiện sinh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Nghiên cứu những biểu hiện cụ thể của con người cô đơn và vai trò của nghệ thuật trong việc thể hiện con người cô đơn qua sáu tiểu thuyết của Kawabata nhìn từ tâm thức hiện sinh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Giới hạn nghiên cứu của đề tài là con người cô đơn trong các tiểu thuyết Xứ tuyết, Ngàn cánh hạc, Tiếng rền của núi, Người đẹp ngủ mê, Cố đô, 8 Đẹp và Buồn in trong Tuyển tập Yashunari Kawabata của Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Nxb Lao động, xuất bản năm 2003. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích - Thực hiện đề tài chúng tôi nhằm mục đích làm rõ những biểu hiện con người cô đơn trong quan niệm nghệ thuật của Kawabata nhìn từ tâm thức hiện sinh, qua đó, khẳng định sự khác biệt giữa hình tượng con người cô đơn trong sáng tác của Kawabata với các tác giả khác đó là: con người với nỗi cô đơn bản thể nói chung nhưng còn là con người mang nỗi cô đơn bản địa đặc thù, mang niềm bi cảm Nhật Bản. - Song song với việc khai thác và làm rõ những vấn đề về nội dung, chúng tôi cũng đặt ra mục đích tìm hiểu vai trò của nghệ thuật trong việc thể hiện con người cô đơn nhìn từ thủ pháp của văn học hiện sinh. 4.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi đề ra cho luận văn những nhiệm vụ chính: - Tìm hiểu vấn đề con người cô đơn trong triết học và văn học hiện sinh đặc biệt là trong văn học Nhật Bản. - Tìm hiểu những biểu hiện cụ thể của con người cô đơn trong tiểu thuyết Kawabata nhìn từ tâm thức hiện sinh. - Tìm hiểu những thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu thể hiện con người cô đơn nhìn từ tâm thức hiện sinh. 5. Phương pháp nghiên cứu Thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp đối chiếu, so sánh Và các thao tác: thống kê, chứng minh, bình giảng. 9 6. Bố cục luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận văn có 3 chương: Chương 1: Vấn đề con người cô đơn trong triết học và văn học hiện sinh Chương 2: Đặc điểm con người cô đơn mang tâm thức hiện sinh trong tiểu thuyết Kawabata Chương 3: Nghệ thuật thể hiện con người cô đơn trong tiểu thuyết Kawabata nhìn từ tâm thức hiện sinh 10 NỘI DUNG Chương 1 VẤN ĐỀ CON NGƯỜI CÔ ĐƠN TRONG TRIẾT HỌC VÀ VĂN HỌC HIỆN SINH 1.1. Con người cô đơn trong triết học hiện sinh 1.1.1. Khái quát sự ra đời của triết học hiện sinh trên thế giới Trong lịch sử triết học thế giới, triết học hiện sinh ra đời sau triết học cổ truyền. Triết học cổ truyền hay còn gọi là triết học về thiên nhiên (tạm gọi là từ Platon, Aristoteles cho đến Descartes, Kant và Hegel) thường lấy vạn vật trong giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra căn nguyên của vũ trụ; trong thế giới tự nhiên, con người vô cùng nhỏ bé, bị vũ trụ lấn át và “bỏ quên”. Ngược lại, triết học hiện sinh coi con người là trung tâm của thế giới và là đối tượng nghiên cứu chính yếu của mình. Những câu hỏi đặt ra đều xoay xung quanh thân phận làm người của con người. Vì vậy triết học hiện sinh còn được gọi là triết học về con người. Bước sang thế kỉ XX, thế giới chứng kiến những đổi thay mạnh mẽ với nhiều thành tựu vượt bậc về khoa học – kĩ thuật nhưng nhân loại cũng phải trải qua biết bao biến thiên, thăng trầm, đau khổ, mất mát do chiến tranh mang lại. Nếu những phát minh khoa học như lí thuyết lượng tử của Max Planck, thuyết tương đối của A. Einstein... làm thay đổi bức tranh thế giới; sự phát triển đỉnh điểm của chủ nghĩa tư bản mang đến thành tựu rực rỡ về kinh tế, khoa học – kĩ thuật thì hệ quả của cuộc khủng hoảng kinh tế (1929 – 1933), hai cuộc thế chiến (1914 – 1918; 1939 – 1945) cũng đã phá hủy hàng ngàn công trình, hàng triệu người bị sát hại, nhân dân thế giới chứng kiến và gánh chịu những mất mát vô vùng to lớn cả về vật chất và tinh thần. 11 Đất nước Nhật Bản gánh chịu những đau thương tổn thất nặng nề trong cuộc chiến tranh thế giới II sau khi bị đế quốc Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố Hirôsima và Nagazaki. Hành động này của Mĩ khiến nhân loại cảm thấy hoang mang, đau đớn và sụp đổ niềm tin nghiêm trọng vào lòng nhân ái của con người. Trong quang cảnh đó, một bộ phận người dân châu Âu đặc biệt là giới trí thức đã bắt đầu tỏ ra bi quan và hoài nghi về cuộc sống và thân phận mong manh của con người: “Mọi sự đều vô nghĩa, mọi sự đều phi lí, đó là cái tâm trạng đổ nát của chế độ tư bản và trong tâm trạng đó họ bắt gặp tư tưởng hiện sinh chủ nghĩa về thân phận con người” (Chuyển dẫn theo [19;15]). Sự biến động của xã hội tư bản phương Tây đầu thế kỉ XX khiến “trí năng tỏ ra bất lực trước đời sống”. Trong bối cảnh đó, nhiều lí thuyết triết học ra đời như tác phẩm hiện tượng luận Nghiên cứu logic của E.Husserl, phân tâm học của S. Freud giúp con người nhận ra bên cạnh “cái nói ra được” còn có cái “không nói ra được”, bên cạnh con người ngoại hiện còn tồn tại “con người tồn tại bên trong con người”. Hiện thực còn ẩn giấu cái gì đằng sau nó được lưu giữ nơi vô thức. Từ những nền tảng ý trí luận của Schopenhauer, Nietzche; trực giác luận của H.Bergson, hiện tượng luận của Husserl, phân tâm học của S.Freud, C.Jung, triết học hiện sinh ra đời lấy con người làm đối tượng nghiên cứu chính đã nhanh chóng đáp ứng được những bức thiết mà thời đại đang đặt ra. Sự ra đời của triết học hiện sinh đầu thế kỉ XX đối với đời sống tinh thần của người dân châu Âu thời bấy giờ được xem như “một tiếng sấm vang động cả trời đất, lay động xã hội Tây phương một cách mạnh mẽ chưa từng thấy trong lịch sử” [22;7]. Chúng ta có thể mượn lời tuyên ngôn nổi tiếng của V.Bela: “Thế kỉ XIX: Thế giới là tôi. Thế kỉ XX: Tôi không phải là thế giới” (chuyển dẫn theo [14;192]) để tổng kết cho sự bừng ngộ của thời đại sau khi triết học hiện sinh ra đời. 12 1.1.2. Hiểu về khái niệm “ triết học hiện sinh” Triết học hiện sinh là gì? Theo cách nói của M. Fragonard trong cuốn Từ điển lịch sử văn hóa thế kỉ XX, triết học hiện sinh được định nghĩa là “triết học về nỗi lo tồn tại của con người”, là “triết học về con người” [22;8]. Triết hiện sinh đặt con người và ý nghĩa cuộc nhân sinh làm đối tượng nghiên cứu chính yếu. Con người trong triết học hiện sinh là con người cụ thể, riêng biệt, độc đáo với chủ thể tính và tự do tính (không phải con người chung, phổ quát theo quan niệm của Aristoteles). Triết học hiện sinh còn được gọi là triết học hành động, nhập thế. Con người sống, quyết định, hành động vì những gì “tôi” cảm thấy cần phải làm chứ không vì thấy người khác làm hay vì người khác nghĩ “tôi” phải làm, không phải vì “tôi” sợ người này hay sợ người kia, càng không phải vì những mục đích đê tiện hay thói quen. Hành động là cách “tôi” thể hiện ý nghĩa cuộc đời của mình, “làm cho bản thân mình thêm phong phú và định mệnh của mình thêm quý trọng” [22;30]. Triết học hiện sinh hay còn được gọi là triết học của sự bừng tỉnh. Tại sao lại bừng tỉnh và bừng tỉnh về điều gì? Nếu như triết học truyền thống coi vũ trụ là đối tượng để khám phá và con người chỉ là một trong hàng vạn vật, khuyến khích con người quên mình để tìm hiểu về những lẽ huyền vi của tạo hóa; con người bị bỏ quên, mờ hóa, nhạt nhòa thì triết hiện sinh lại dạy con người biết suy nghĩ về thân phận làm người của mình. Con người trăn trở về chính mình, về lí do tồn tại của mình trên cõi đời: Ta là ai? Cuộc đời ta rồi sẽ đi đến đâu? Kết thúc thế nào? Ta kiếm tìm điều gì ở cuộc sống và đời có đáng sống không?... Những câu hỏi thôi thúc các nhà hiện sinh chủ nghĩa đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của sự tồn tại. Mỗi con người hiện sinh phải là một nhân vị độc đáo. Con người hành động để khẳng định cá tính, sự sáng tạo và bản lĩnh của mình. Độc đáo chính là một đề tài lớn của triết hiện sinh nhưng “độc đáo không có nghĩa là lập dị, 13 và ngang tàn không có nghĩa là phá phách” [22;28]. Con người hiện sinh nhìn rõ khả năng và giới hạn của bản thân mình trước những thử thách của cuộc sống. Vì vậy họ biết tận dụng khả năng, vượt qua giới hạn để thể hiện ý nghĩa cuộc nhân sinh, khẳng định cái “tôi” hoàn toàn khác biệt. Nếu mỗi người đều ý thức và hành động để khẳng định bản thân như những nhân vị độc đáo thì sẽ tạo nên một thế giới nhân sinh đầy ý nghĩa và nhân bản. Ở mỗi thời điểm, với những điều kiện nhất định, sự lựa chọn hành động là cách thể hiện cá tính và ý nghĩa cuộc đời, là cách để người hiện sinh tạo nên giá trị và định mệnh riêng của bản thân. Mỗi hành động đều mang một giá trị hiện sinh trung thực vì mỗi hành động đều đòi hỏi một ý thức thận trọng và một tinh thần trách nhiệm cao cả. Không chỉ có chủ thể tính, người hiện sinh còn có tự do tính. Triết hiện sinh coi trọng tự do cá nhân, đề cao tính độc lập, sáng tạo, tính tự chịu trách nhiệm của mỗi người: tự do quyết định, tự mình đảm nhận định mệnh của mình – một định mệnh tự do, độc đáo nhưng cũng rât đỗi cô đơn bởi không ai sống thay và chết thay ta được. Trải qua những tranh luận và nhầm lẫn, đến nay chủ nghĩa hiện sinh đã có vị trí chắc chắn trong đời sống xã hội và đi vào lịch sử triết học hiện đại. Tâm thức hiện sinh vẫn không ngừng vươn xa trong tư duy của con người hiện đại. 1.1.3. Những nội dung chính của triết học hiện sinh về con người Phong trào hiện sinh là một phong trào rộng lớn, gồm nhiều khuynh hướng khác nhau. Nhưng vượt lên mọi sự khác nhau, tất cả các triết gia hiện sinh đều thống nhất trong quan niệm: triết hiện sinh không phải là khoa học tìm hiểu những nguyên lí, quy luật của tự nhiên mà là khoa học tìm hiểu những vấn đề hiện tại của đời sống con người. Đề tài duy nhất của triết hiện sinh là con người tại thế, độc đáo, cô đơn, luôn nhận thấy những giới hạn và nỗ lực vượt qua giới hạn. Con người luôn cố gắng vì nỗi sợ hãi bị lãng quên. 14 Mỗi triết học đều có phạm trù riêng, triết học hiện sinh cũng vậy. Khi quan sát cuộc sinh hoạt cụ thể của con người thời đại, các triết gia hiện sinh đã chỉ ra những phạm trù của triết hiện sinh. Trong cuốn Triết học hiện sinh, tác giả Trần Thái Đỉnh đã tổng quát lại một số phạm trù hiện sinh chính yếu: - Buồn nôn: chỉ thái độ của người hiện sinh trước vẻ vô lí và vô ý nghĩa của một cuộc đời không lí tưởng, không ý thức về định mệnh tồn tại của mình. Buồn nôn chỉ cảnh sống của những người chưa vươn lên tới mức đích thực, còn sống như cỏ cây và động vật chứ chưa cố gắng sống để chứng minh bản lĩnh làm người của mình. "Sống như sinh vật là một buồn nôn cho triết gia hiện sinh đã ý thức sâu xa về nhân vị con người" [22;42]. Những người sống mà không biết mình sống để làm gì, Sarte gọi là hiện hữu chứ chưa phải là hiện sinh, tồn tại chứ chưa phải là sống. Bản thân những người đó không ý thức được sự nhàm chán và "buồn nôn" của cuộc đời mình còn những người đã ý thức sâu xa được địa vị làm người của mình thì cảm thấy "khó chịu" bởi vẻ tầm thường và vô nghĩa lí ấy. "Buồn nôn làm cho chúng ta vùng dậy, bỏ trạng thái sự vật để vươn lên thiên chức làm những nhân vị tự do và tự trách nhiệm" [22;44]. Điều này làm nên ý nghĩa nhân bản của tư tưởng hiện sinh. - Phóng thể: nguyên nghĩa dịch từ tiếng Pháp là "hóa thành cái khác", thành người khác. Phóng thể là tình trạng những con người chưa tự ý thức mình là những nhân vị độc đáo, họ sinh hoạt như mọi người và hành động chỉ vì người khác bảo mình làm hoặc nghĩ mình phải làm chứ không phải vì mình muốn hay cần làm để khẳng định bản ngã của mình. Phóng thể làm mất bản ngã của con người, làm con người sống yên trong một trạng thái gần như sự vật, là căn nguyên của cuộc sống tầm thường, nhạt nhẽo và vô nghĩa. - Ưu tư: là trạng thái thức tỉnh và suy nghĩ của con người khi đã tỉnh ngộ để bắt đầu hối cải và vươn lên một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Ưu tư "là xao xuyến, băn khoăn về tương lai chưa rõ rệt" [22;47]. Con người hiện sinh
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan