Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Con người trong thơ thiền lý trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại...

Tài liệu Con người trong thơ thiền lý trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại

.PDF
131
103
80

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH TRẦN HOÀNG HÙNG CON NGƯỜI TRONG THƠ THIỀN LÝ - TRẦN DƯỚI GÓC NHÌN THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2005 MỤC LỤC MỤC LỤC .................................................................................................................3 MỞ ĐẦU ...................................................................................................................5 1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI: ................................................................. 5 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. .................................................................................................... 6 3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: ............................................................................. 9 4.ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN: ......................................................................... 9 5. KẾT CẤU LUẬN VĂN: ............................................................................................. 9 CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ - VĂN HÓA THỜI LÝ TRẦN ................ 11 1.1.Bối cảnh lịch sử văn hóa thời Lý - Trần: .............................................................. 11 1.2.Khái lược về Phật giáo và Thiền tông thời Lý - Trần: ......................................... 20 1.3.Vài nét về mối quan hệ giữa thơ và thiền: ............................................................ 26 CHƯƠNG 2: CON NGƯỜI TRONG THƠ THIÊN LÝ – TRẦN DƯỚI GÓC NHÌN THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI .....................................................................34 2.1.Con người thật không địa vị trong thơ thiền Lý-Trần.......................................... 34 2.2.Con người trí tuệ: ................................................................................................... 50 2.3.Con người tự tại: .................................................................................................... 61 2.4.Con người vô ngã vị tha: ....................................................................................... 76 CHƯƠNG 3: KHÔNG GIAN, THỜI GIAN VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ THIỀN LÝ - TRẦN ......................................................................88 3.1.Không gian nghệ thuật: ......................................................................................... 88 3.2.Thời gian nghệ thuật .............................................................................................. 96 3.3.Ngôn ngữ nghệ thuật ........................................................................................... 106 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 118 TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................124 I/TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT ................................................................ 124 II/TÀI LIỆU TIẾNG ANH ........................................................................................ 130 III/TÀI LIỆU TIẾNG HOA ....................................................................................... 131 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI: Văn hoa là động lực để phát triển xã hội, mà văn học chính là xương sống của văn hoa. Văn học Phật giáo nói chung, thơ thiền nói riêng là một bộ phận quan trọng của văn học Lý - Trần, là di sản văn hoa quí báu của một thời đại đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Củng cố văn hoa truyền thống, kế thừa tiếp thu những thành tựu của văn hoa nhân loại làm phong phú thêm cho nền văn hoá nước nhà là việc làm vô cùng bức thiết. Thời đại Lý -Trần là thời kỳ vàng son nhất của lịch sử Việt Nam với những thành tựu rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, quân sự, chính trị, văn hoa, nghệ thuật... Nhưng độc đáo và kỳ đặc nhất là tinh thần hào hùng, trong sáng của những con người với phong cách siêu việt, vừa tự tin, hào hùng, phóng khoáng, vừa trong sáng, tinh khiết, thuần lương khó gặp ở những thời đại khác. Cái gì đã tạo ra được những con người như vậy ? Văn học là nhân học, văn học làm nên con người.Con người vừa là đối tượng chủ yếu, vừa là mục đích cứu cánh của văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm ưù rất quan trọng của thi pháp học, là trung tâm của quan niệm thẩm mỹ của nghệ sĩ. Nó hướng chúng ta đến đối tượng chủ yếu của văn học. Không thể lý giải một hệ thống thơ mà bỏ qua con người thể hiện trong đó. Hiện nay thơ thiền đang được giảng dạy ở các trường phổ thông, đại học và sau đại học. Tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về thơ thiền nói chung, con người ương thơ thiền nói riêng là việc làm cần thiết. Hơn nữa,người viết vốn thân ở cửa thiền nhiều năm, đã có cơ hội tiếp xúc với thiền học, Hán học, đã rất yêu thích và thuộc lòng nhiều bài thơ thiền từ lúc còn rất nhỏ. Nhưng thơ thiền rất kỳ lạ, càng đọc càng thấy hấp dẫn đến kỳ lạ, càng phát hiện ra những vấn đề mới. "Ôn cố nhi tri tân" góp phân nhỏ trong việc vén bức màn bí mật về những bức thông điệp của ông cha ta muốn nhắc lại cho hậu duệ, nên người viết chọn đề tài này. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. Thơ thiền Việt Nam là một hiện tượng văn học độc đáo, là một bông hoa kỳ lạ của vườn thơ. Văn học Phật giáo nói chung, thơ thiền nói riêng là một trong những nhánh chính khơi nguồn cho dòng văn học viết Việt Nam chảy mãi đến hôm nay. Nó xuất hiện vào thế kỷ thứ X, đến nay đã có lịch sử hơn một ngàn năm và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đinh Gia Khánh nhận định : "Văn học thời Lý mở đầu cho những truyền thống lớn của dòng văn học viết..., văn học thiền tông có vị trí nhất định. Thơ thiền gắn bó với đời sống dân tộc." Việc sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu, và nghiên cứu thơ thiền được các nhà nghiên cứu Việt Nam chú ý từ thế kỷ XV.Những công trình đầu tiên cày xới mảnh đất bí ẩn này phải kể đến "Việt Nam văn học sử yếu" (1941) của Dương Quảng Hàm, "Việt Nam cổ văn học sử" (1942) của Nguyễn Đổng Chi, "Văn học đời Lý" và "Văn học đời Trần" (1942) của Ngô Tất Tố, "Cuộc tiến hoá văn học Việt Nam" (1943) của Kiều Thanh Quế, "Văn học cổ Việt Nam" (1960)của Đinh Gia Khánh, "Hai trăm năm lịch sử văn họcđời Lý" và "Văn học đời Trần Hồ" của Phạm Văn Diêu, " Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học" của Đặng Thai Mai. Bên cạnh những công trình lớn, những chuyên luận, tiểu luận của những nhà nghiên cứu uy tín hàng đầu Việt Nam hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đề cập đến thơ thiền như Nguyễn Đăng Thục, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn,Nguyễn Duy Cần, Lê Văn Siêu, Thích Mãn Giác, Nguyễn Huệ Chi, Hà Văn Tấn, Nguyễn Duy Hình, Trần Đình sử, Kiều Thu Hoạch, Phạm Ngọc Lan, Đỗ Văn Hỷ, Mai Quốc Liên, Đoàn Thu Vân, Lê Mạnh Thát, Minh Chi, Trần Thị Băng Thanh, Lê Trí Viễn, Thích Thanh Từ, Minh Tuệ, Nguyễn văn Xuất... Một số luận án gần đây nhất với đối tượng nghiên cứu là văn học Phật giáo thời Lý - Trần như "Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam thời Lý - Trần" (1995)của Nguyễn Phạm Hùng, "Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế kỷ XI- XIV (1996) của Đoàn Thị Thu Vân, "Văn học Phật giáo thời Lý - Trần, diện mạo và đặc điểm." (2002) của Nguyễn Công Lý. Cả ba luận án này đều có đề cập đến con người trong thơ thiền thời Lý - Trần nhưng chưa phải là một công trình chuyên biệt, không nghiên cứu chuyên sâu về con người. Theo thiển kiến của người viết, phần lớn các nhà nghiên cứu xem xét thơ thiền trên quan điểm xã hội học- triết học. Xem xét thơ thiền trên bình diện văn hoa lịch sử như Đinh Gia Khánh, Đặng thai Mai, Mai Quốc Liên, Lê Mạnh Thát, Nguyễn Tự Cường, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Công Lý, Nguyễn Phạm Hùng. Khảo sát thơ thiền dưới quan điểm triết học Thiền và mỹ học Thiền như Thích Mãn giác, Thích Thanh Từ, Nhất Hạnh, Minh Chi, Minh Tuệ, Thích Phước An, Thích Phước Sơn. Kế thừa một số thành tựu của thi pháp học hiện đại trong nghiên cứu văn học, M. Bakh Tin đã cho ra đời nhiều công trình có sức ảnh hưởng lớn đến toàn thế giới, mở ra một hệ trình mới trong cách tiếp cận bản chất của văn học. Tiếp thu những thành tựu này, ở Việt Nam, Trần Đình Sử, Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn văn Xuất....đã vận dụng thi pháp học hiện đại vào nghiên cứu thơ thiền. Có thể kể đến những ý kiến bàn về thơ thiền của các nhà nghiên cứu. Dương Quảng Hàm cho rằng : "Các vị sư đều là những người uyên thâm Nho học, có nhiều vị làm thơ." Bùi Văn Nguyên nhận định : "Các nhà sư thường trở thành nhà thơ và có tâm hồn rung động trước cảnh vật và lòng người." Đinh Gia Khánh nhận xét về văn học thời Lý : "Sự hòa đồng giữa con người và thiên nhiên là cơ sở cho những tứ thơ độc đáo và những hình tượng thơ sinh động. Thiên nhiên được miêu tả với tình cảm thắm thiết và niềm lạc quan yêu đời, thể hiện thái độ an nhiên tự tại, bản lĩnh vững vàng tự tin của con người." Đặng Thai Mai đề cập tới con người có thái độ tích cực lạc quan của các nhà thơ thiền với tâm hồn phóng khoáng giàu chất nhân văn và những bài thơ thiền độc đáo dung hợp đạo đời. Nguyễn Huệ Chi cho rằng nét đặc sắc trong thơ văn Tuệ Trung thượng sĩ là ý thức về bản ngã về sự tự do tự tại của một nhà tư tưởng , một nhà duy lý ẩn trong con người thiền. Ông là con người vừa Nho vừa Phật, vừa Lão Trang. Nguyễn Phương Chi khẳng định cái cốt lõi của Huyền Quang không phải là con người thiền mà chính là con người thi sĩ, với những cảm xúc tràn đầy trước cuộc sống muôn màu muôn vẻ, con người thi nhân với sức sáng tạo mãnh liệt. Thích Thanh Từ , Minh Tuệ, Minh Chi, ca ngợi phẩm chất thiền, thái độ ung dung, tự tại trong cuộc sống đầy lăng xăng, phiền não của Tuệ Trung thể hiện từ con người, phong cách sống và tư tưởng siêu việt, thể hiện ra với thi hướng dạt dào phóng khoáng. Đoàn Thị Thu Vân trong luận án phó tiến sĩ "Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt nam thế kỷ XI- XIV" đề cập đến con người vô ngã, vô ngôn, vô uy, vô phân biệt với tinh thần phá chấp triệt để, đả phá cái nhìn nhị nguyên và con người tự do hoàn toàn đạt đạo. Nguyễn Phạm Hùng với luận án phó tiến sĩ "Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu văn học việt Nam thời Lý - Trần" cho rằng, con người trong thơ thiền là con người lưỡng thể, là sự hợp nhập của con người Phật giáo và con người cá nhân. về con người Phật giáo, Nguyễn Phạm Hùng chỉ ra con người tự do, con người vô ngã, con người vô ngôn và con người vũ trụ. Còn con người cá nhân với sự đề cao con người và trách nhiệm cá nhân nương vào cái hữu và cái sắc của nhà Phật mà tồn tại. Nguyễn Công Lý trong luận án tiến sĩ "Văn học Phật giáo thời Lý -Trần -diện mạo và đặc điểm" thông qua việc hộ thống lại nhưng quan niệm về con người của những nhà nghiên cứu trước, rút ra hai hướng tiếp cận nghiên cứu vấn đề con người trong văn học Phật giáo Lý Trần. Một là hướng tiếp cận những phẩm chất Phật giáo trong con người, nói cách khác, đó là những con người chịu ảnh hưởng sâu đậm triết lý thiền và triết lý ấy đã thâm nhập vào cuộc sống của con người hành đạo, tạo nên một lối sống, một bản lĩnh sống : sống thiền. Đó chính là cơ sở tạo nên phẩm chất con người. Hai là hướng tiếp cận những phẩm chất con người cá nhân với cá tính đầy cởi mở, rung động dạt dào niềm tin, tràn đầy sức sống. Bên cạnh đó, Viện triết học, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Tạp chí văn học, Tạp chí tư tưởng, Tạp chí Vạn Hạnh, Tạp chí Văn hoa dân gian ... hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập tới văn học Phật giáo và thơ thiền đã giúp cho người viết hiểu rõ thêm về con người ương thơ thiền Lý Trần 3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Dựa trên cơ sở tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, thống kê, phân loại, so sánh, liên ngành, văn bản học, vận dụng các phương pháp phù hợp với từng trường hợp cụ thể, đồng thời kết hợp với trực giác thiền, người viết đi sâu vào tìm hiểu con người trong thơ thiền Lý Trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại. 4.ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN: 4.1.Luận văn là một công trình chuyên biệt nghiên cứu về con người trong thơ thiền Lý - Trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại. Luận văn xem xét con người trong thơ thiền dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại, đưa ra một cách hiểu mới về con người trong thơ thiền Lý - Trần. 4.2.Kết quả của hướng nghiên cứu này sẽ góp thêm một cách hiểu về thơ thiền, cũng như việc xác định giá tri của thơ thiền Lý - Trần 4.3.Việc phát hiện ra "Con người thật không địa vị" trong thơ thiền mở ra một đối tượng mới, đầy bí ẩn và cuốn hút cho văn học. Bên cạnh đó, thiền ngữ và vô ngôn sẽ góp phần mở ra khả năng vô hạn trong việc phản ánh cuộc sống và con người. 5. KẾT CẤU LUẬN VĂN: Ngoài phần mở đầu (7 trang) và phần kết luận (8 trang) luận văn được tổ chức thành 3 chương như sau : - Chương 1: Bối cảnh lịch sử - văn hóa thời Lý - Trần (29 trang) - Chương 2: Con người trong thơ thiền Lý - Trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại (59 trang ) - Chương 3: Không gian, thời gian, ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ thiền Lý - Trần (32 trang) Tài liệu tham khảo ( 8 trang) CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ - VĂN HÓA THỜI LÝ TRẦN 1.1.Bối cảnh lịch sử văn hóa thời Lý - Trần: Sau hơn 1000 năm, nước ta liên tục bị các thế lực phong kiến phương Bắc đô hộ. Những trang sử Bắc thuộc đau thương của dân tộc ta bắt đầu từ sau cuộc kháng chiến chống Nam Việt thất bại của An Dương Vương vào năm 179 trước Công Nguyên kéo dài cho đến năm 905 mới dứt. Năm 905, Khúc Thừa Dụ nhân cơ hội Trung Quốc chính sự rối ren, ông từng bước xây dựng những cơ sỏ đầu tiên cho một chính quyề n độ c lập tự chủ. Đến năm 938 với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử , Ngô Quyền thật sự đa có công lớn trong việc dẫn dắt dân tộc ta bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ, xua tan mây đen nổ lệ ngàn năm, mở ra một chân trời mới. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên từng nói : "Tiền Ngô Vương không chỉ là người chiến thắng mà còn có công cắt đặt trăm quan, chế định ra triều nghi và phẩm phục tỏ cho thấy cách thức của bậc "Đế Vương" . Nhà nước phong kiến Việt Nam nhờ những tiền đề trên từng bước củng cô" và phát triển mọi lĩnh vực qua các thời kì: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân (968 - 980), Thập đạo tướng quân Lê Hoàn đánh tan quân Tống lập nên nhà Tiền Lê (980-1009), Lê Ngọc Triều hoang dâm vô độ, bỏ bê chính sự, mất vào năm 1009, Lý Công uẩn được tôn làm vua lập ra nhà Lý cho đến năm 1225, dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoang nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông). Nhà Trần tồn tại và phát triển đến năm 1400, Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần và bị nhà Minh đánh bại vào năm 1407. Kế thừa, phát huy những giá trị của nền văn minh sông Hồng - nền văn minh đầu tiên đặt nền tảng vững chắc khẳng định những giá trị mang tính bản sắc riêng, bền vững của lịch sử văn hóa Việt Nam , khẳng định bản lĩnh riêng Việt Nam . Nhìn từ góc độ văn hóa, triết lý lớn nhất xuyên suốt các truyện kể dân gian như truyện Hồng Bàng, truyện thánh Tản Viên, truyện Thánh Gióng ... là khuôn vàng thước ngọc về ý thức trách nhiệm xây dựng khối đòan kết gắn bó mật thiết với nhau vì nghĩa tình ruột thịt thiêng liêng, cùng nhau chống giặc giữ nước, cùng nhau chinh phục, cải tạo tự nhiên thiết lập cuộc sống ấm no hạnh phúc cho mình và con cháu đời đời về sau. Chính vì vậy cho nên dù nước ta trải qua thời kì đen tối hơn 1000 năm Bắc thuộc, các triều đại phong kiến phương Bắc tiếp nối nhau đô hộ nước ta nhưng vẫn không đồng hóa được. Trong suốt hơn một ngàn năm mây đen che phủ bầu trời đất Việt, các triều đại phương Bắc áp dụng nhiều kế sách đồng hóa về mọi mặt hòng thôn tính nước Việt ta. về chính trị, chúng tìm mọi cách thủ tiêu nền độc lập và ý chí tự chủ của dân tộc ta. về quân sự, chúng xây dựng và bảo vệ guồng máy đô hộ trên toan cõi nước ta, sẵn sàng đàn áp đẫm máu mọi hình thức đấu tranh của nhân dân ta. Về kinh tế, chúng ra sức vơ vét tài nguyên và của cải nước ta. Về văn hóa xã hội, chúng ra sức truyền bá văn hóa, chữ viết, tín ngưỡng, tập quán... của người Trung Quốc vào nước ta, mặt khác mở cửa cho dân Trung Quốc di cư vào nước ta hòng xóa tan mọi sự cách biệt để dễ dàng đồng hóa dân tộc ta. Mặc đù vậy, do dân tộc ta từ khi hình thành tồn tại và phát triển, sớm đã bị nhiều thế lực ngoai bang đe dọa, xâm lược nên sớm hình thành ý thức dân tộc. Nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần cho rằng : "Văn minh sông Hồng là đặc trưng riêng của bản lĩnh Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã hình thành ngay trong tiến trình dựng nước và giữ nước bền bỉ và kiên cường chứ không phải đợi đến thời cận đại như nhiều dân tộc khác trên thế giới". Trong suốt thời kì bị đô hộ , dân tộc ta không ngừng nổi dậy đòi quyền tự chủ, độc lập. Biết bao anh hùng nghĩa sĩ hy sinh, máu của họ tô đậm thêm bản lĩnh Việt Nam. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), khởi nghĩa Bà Triệu (248), khởi nghĩa Lý Bí (542), khởi nghĩa của Lý Tự Tiên - Đinh Kiến (687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi nghĩa Phùng Hưng (? -791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820)... Khác hẳn với thời sơ sử, thời Bắc Thuộc, đời sống văn hóa và tư tưởng của xã hội ta đã biến đổi một cách mạnh mẽ và sâu sắc. Lý do chủ yếu là do chúng ta tiếp nhận một số tư tưởng, học thuyết mới. Nổi bật nhất là Phật Học, Đạo Học, Nho Học... Nho Giáo vốn có lịch sử hình thành và phát triển rất lâu đời ở Trung Quốc. Khổng Tử (551-479) khai sinh ra Nho Học, Mạnh Tử là người kế thừa và phát triển. Nho Giáo chú trọng đề cao tam tòng, tứ đức, tam cương, ngũ thường, quan trọng nhất là điều "Nhân", học thuyết chính danh. "Chính danh" là việc làm căn bản đưa xã hội từ loạn sang trị. Ông ít bàn đến những vấn đề trừu tượng thuộc bản thể luận. Ông quan tâm đến việc xây dựng lại một xã hội có kỷ cương, lề lối, trật tự. Ông nói: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Muốn thiên hạ thái bình thì phải tu thân trước. Tóm lại, Nho Học chủ trương cách học làm người, cải thiện xã hội. Do thời đại lịch sử, từ khi Nho Giáo truyền sang Việt Nam cho đến đầu thế kỷ thứ X vẫn chưa có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa người Việt. Từ thế kỷ X - XIV địa vị của Nho Giáo ngay một được củng cố, phát triển. Từ cuối đời Trần đến nhà Hồ, Lê, Sơ, Mạc, Nho giáo đã phát triển đến đỉnh cao thịnh đạt nhất, chiếm địa vị quan trọng trên vũ đài chính trị và tư tưởng của nước ta. Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ cuối thế kỷ XIX tuy vẫn được quan tâm nhưng dần dần đi đến bước đường cùng. Từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay, Nho Giáo chẳng những phải rút ra khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng mà còn rút lui khỏi địa hạt giáo dục, thi cử và nhiều lĩnh vực khác mà nó từng ảnh hưởng. Giờ đây Nho Giáo chỉ còn là dĩ vãng, người ta nghiên cứu nó để tìm ra những giá trị thích hợp với xã hội hiện đại. Đạo Giáo cũng ra đời đồng thời với Nho Giáo, do Lão Tử khai sinh, Trang Tử kế thừa . Đạo học là một trong những học phái lớn của Trung Quốc. Khi truyền sang nước ta, xu thế Đạo giáo quí tộc (Đạo thần tiên) không tạo được ảnh hưởng lớn, ngược lại, Đạo giáo bình dân (Đạo phù thủy) được phổ biến mạnh mẽ và rộng rãi. Điều này hẳn do dân tộc ta đang bị mất nước, hoàn toàn không chấp nhận chính quyền đô hộ cũng như pháp chế của chúng. Họ xem thần thánh của Đạo giáo như những vị quan lại thanh liêm, nghiêm khắc, chứng minh, xét xử công bằng mọi đúng sai, tốt xấu ở đời, làm chỗ dựa tinh thần cho họ. Lúc đầu Đạo quán, miếu chỉ thờ những vị thần có nguồn gốc từ Trung Quốc, càng về sau Đạo quán , đền miếu dần dần trở thành nơi thờ những anh hùng nghĩa sĩ, những người có công dựng nước, giữ nước, những người hi sinh vì sự hòa bình độc lập của dân tộc. Theo Lão Tử, "Đạo" là phạm trù quan trọng nhất, là nguồn gốc sinh ra vạn vật, là cái có trước, bao trùm vạn vật. Đạo cũng chính là quy luật của tự nhiên, là quy luật tồn tại và vận động của vạn vật. Nếu Đạo là thể tinh vi, khó nắm bắt được thì Đức là dụng, là hình dáng của vật, là thứ ly sâu sắc và phổ biến. Ông nói: "Đạo làm cho vạn vật sinh trưởng, Đức làm cho vạn vật tốt tưới...". Ông chủ trương thuận theo tự nhiên, trở về với Đạo. Đạo giáo truyền vào nước ta khá sớm , từ thế kỷ thứ X đến cuối thế kỷ XIV (tức là từ họ Khúc nổi dậy đến cuối thời Trần ) Đạo giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tư tưởng của xã hội và có địa vị quan trọng trên vũ đài chính trị. Nhưng từ cuối thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIX , Đạo giáo rút lui khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng nhưng vẫn còn lưu lại trong lòng dân gian . Từ đầu thế kỷ XX đến nay, Đạo giáo gần như rất ít xuất hiện. Người ta chỉ còn biết về Đạo giáo qua một số dấu tích và một ít kinh sách mà thôi.(Về Phật giáo sẽ được đề cập ở phần sau) Tháng 10 năm Kỷ Dậu ( 1009) Lý Công Uẩn Lên ngôi Hoàng Đế. Vừa lên ngôi, Ông ban lệnh đại xá thiên hạ miễn thuế 3 năm ổn định mọi mặt. Các sử thần nhà Lê nhận xét: Hoàng Đế ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhận thời mở vận, là người khoan thứ nhân từ, tinh tế, và hòa nhã rất có lượng của bậc Đế Vương . Tháng 7 năm 1010 Ông dời đô về Thăng Long, tổ chức tại bộ máy nhà nước, phân rõ phẩm trật cao thấp.Ngay từ khi mới lên ngôi, Lý Công uẩn đã rất chăm lo đến việc củng cố xây dựng quân đội, chăm lo kinh tế, xem trọng nông nghiệp, kích thích thủ công, thương nghiệp phát triển. Gắn chặt với quá trình xây dựng và củng cố chính quyền độc lập và tự chủ là quá trình không ngừng mở mang về mọi mặt của đời sống văn hóa. Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn Miếu, đến năm 1076 lại cho xây tiếp trường Quốc Tử Giám ngay giữa kinh thành Thăng Long. Năm 1075, khoa thi đầu tiên trong lịch sử nước ta được tổ chức , sau năm đó, một số khoa thi minh kinh bác học cũng được mở ra. về mặt tư tưởng, tuy Nho Giáo đã bắt đầu có ảnh hưởng nhưng không đáng kể, thống trị xã hội vẫn là tư tưởng Phật giáo. Đây là giai đoan thịnh đạt của Phật giáo ở nước ta. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, tăng ni ngày một đông hơn. Đa số các vị vua triều Lý đều xuất gia tu Phật. Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông ... Thời này, phái Thiền Thảo Đường xuất hiện ở nước ta. Nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc phát triển rực rỡ. Một số công trình kiến trúc nổi tiếng và có giá trị lâu dài như : Kinh thành Thăng Long, Chùa Giạm, Tháp Báo Thiên, tượng phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm. Đặc điểm bao quát của nghệ thuật kiến trúc thời Lý là sự chắc chắn, cân đối hài hòa với ngoai cảnh. Nghệ thuật điêu khắc cũng có phong cách riêng, bố cục gọn gàng cân xứng nhưng không đơn điệu. Đề tài thường miêu tả cách điệu phong cảnh thiên nhiên cảnh người múa hát, đường khắc thanh thoát, mềm mại và có sức gợi phong phú. Độc đáo nhất là hình tượng con rồng chở được tất cả khát vọng của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Chúa Diên Hưu (chùa Một Cột) là tác phẩm tổng hợp của cả kiến trúc lẫn điêu khắc được xây cất vào năm 1049 với hình dáng thoát trông như một tòa sen , uy nghi và thanh cao, tĩnh mịch nhưng gần gũi cởi mở. Nghệ thuật ca múa nhạc là loai hình nghệ thuật có lịch sử lâu đời, đến đây đã phát triển vượt bậc. Hát ả đào trở nên phổ biến, hát chèo và tuồng cũng nhanh chóng định hình; các loai nhạc cụ như tiếng sáo, trúc, đàn đã khá thông dụng. Tóm lại, dưới thời Lý, Đại Việt thực sự đã trở thành một cường quốc, ngoài sức mạnh về quân sự, tiềm lực về kinh tế, văn hóa dân tộc cũng phát triển rực rỡ, thể hiện hào khí bừng bừng của cả một dân tộc vững bước đi lên sau một thời kì dài bị che phủ bởi mây đen nô lệ. Và đây cũng chính là thời kì dân tộc ta viết nên trang sử vẻ vang, chiến thắng quân Tống, bình định Chiêm Thành, bảo vệ độc lập dân tộc. Thuận theo dòng biến chuyển của thời gian, năm 1224, do không có con trai nối dõi, Lý Huệ Tông buộc phải truyền ngôi cho con gái là Lý Phật Kim (tức Lý Chiêu Hoàng), lúc đó mới 6 tuổi. Năm 1225, dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng kết hôn với Trần cảnh (Trần Thái Tông). Nhà Trần nhanh chóng ổn định tình hình rối ren loan lạc từ thời Lý. Nhà Trần lập ra Phủ Tông Chính, một cơ quan chuyên trông coi về trật tự thế thứ của quý tộc họ Trần. Năm 1230, nhà Trần cho biên soạn bộ Quốc triều thông chế, coi đó là cơ sở xây dựng, khảo xét hành chính. Cũng năm này, bộ Quốc triều thường lễ ra đời. Nhà Trần tổ chức lại quân đội, mở mang chế độ khoa cử để tuyển dụng nhân tài, củng cố và phát triển kinh tế, thống nhất tiền tệ và đơn vị đo lường, lưu thông buôn bán ngày càng được khuyến khích. Năm 1341, biên soạn bộ Hình Thư mới trên cơ sở bộ Hình Thư của thời Lý. Cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII, thế giới đang trong tình trạng báo động đau thương trước sự tàn bạo khát máu của quân Mông cổ. Vó ngựa quân Mông cổ giày xéo gần một nửa Âu, Á. Nhà thơ người Armenia là V.Frik (1210-1290) viết về sự đổ nát điều tàn này : "Không một dòng suối, không một con sông nào, không tràn đầy nước mắt chúng ta, Không một ngọn núi, một cánh đồng nào không bị quân tàu giày xéo." Thế nhưng, quân dân ta một lòng đã làm nên biết bao chiến công oanh liệt, ba lần đánh đuổi quân Mông - Nguyên ra khỏi bờ cõi, bảo vệ độc lập tự chủ, khẳng định được tinh thần và vị trí của dân tộc trên trường quốc tế, lập nên hào khí Đông Á bất diệt. Phật giáo chi phối toàn bộ tư tưởng xã hội Đại Việt suốt từ thời Lý, đến thời Trần càng được củng cố và phát triển hơn. Nếu thời Lý, phái Thiền Thảo Đường xuất hiện thì sang thời Trần, phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử ra đời do vua Trần Nhân Tông là tổ sư khai sáng. Đa số các vị vua Trần hoặc là xuất gia tu hành hoặc tu tại gia. Bên cạnh đó từ hàng thân vương, quý tộc, quan lại đến thứ đều một lòng kính Phật. Tư tưởng từ bi, hỉ xả, bác ái, vô ngã vị tha phổ khắp thiên hạ tạo lập được cuộc sống ấm no an bình thịnh trị, như Hoàng Xuân Hãn nhận xét : "Đây là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta" [25;429]. Giáo dục và thi cử Nho học ngày càng chính quy hơn, chặt chẽ hơn. Năm 1232, nhà Trần đặt ra học vị thái học sinh (1442, nhà Lê đổi thành Tiến sĩ). Nhờ giáo dục và thi cử , nhà Trần tuyển chọn được nhiều nhân tài xuất chúng như: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh,... Văn học Lý - Trần là thời kỳ văn học chính thức mở đầu có nhiệm vụ khai phá mở đường cho văn học viết Việt Nam từ sau những năm nước nhà bước sang kỷ nguyên độc lập tự chủ ở thế kỷ X. Nền văn học này kế thừa những gì đã phôi thai trong thời Bắc thuộc tạo mầm mông, tiền đề cho nó phát triển. Vì văn học Lý Trần hình thành trong sự ảnh hưởng nặng nề của nhiều yếu tố ngoai lai, đặc biệt là phải sử dụng Hán tự (chữ Hán).Nguyên nhân rất rõ là nước ta bị lệ thuộc hàng ngàn năm, văn hóa Hán xâm nhập vào đời sống sinh hoạt mọi ngóc ngách của đời sống xã hội Văn học Lý -Trần dùng chữ Hán để sáng tạo . Mãi đến thế kỷ XIII mới sử dụng chữ Nôm để viết tác phẩm văn học. Ngay cả chữ Nôm cũng hình thành từ sự vay mượn, lắp ghép Hán tự. Bên cạnh đó , các tác giả thời này chủ yếu vay mượn thi liệu, điển cố, điển tích trong các kinh điển, sử sách Trung Quốc. Sự vay mượn này lặp đi, lặp lại nhiều lần lắm khi tạo nên tính qui phạm, ước lộ, tượng trứng trong văn học .Điều này dễ thấy trong "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, tác giả dẫn lại không biết bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ trong sách sử Trung Quốc làm gương cho tướng sĩ ta, ngay cả trong "Phóng cuồng ngâm" của Tuệ Trung , ta bắt gặp nào là Qui Sơn, Tạ Tam, Thạch Đầu, Phổ Hóa, Bố Đại; nào là Tào Khê, Lư Thị, Thương Lương .... Nếu không biết những điển tích này thì khó lòng hiểu được giọng ngâm cuồng phóng này, vì quan niệm xưa cho rằng có như vậy mới là tao nhã , hào phóng, bác học . Văn học Lý - Trần kế thừa và hoàn thiện những thành tựu của các thể loại của văn học Hán bao gồm vận văn, biền văn và tản văn. Vận văn gồm các thể loai cổ phong, Đường luật (bát cú, tứ tuyệt), từ khúc, ca, ngâm; biền văn có các thể loai như hịch, phú, cáo ; tản văn thì mượn các thể như chiếu, chế, biểu, tấu, tự bạt. Nếu xét một cách tổng quát thì văn học Lý - Trần chưa có thể loại tự thân như văn học giai đoạn sau, nhìn chung thì vận văn được ưa chuộng hơn tản văn ; các thể loại thơ trữ tình đạt nhiều thành tựa hơn thể loại tự sự. Văn học Lý - Trần kế thừa và hoàn thiện những thành tựu của các thể loại của văn học Hán bao gồm vận văn, biền văn và tản văn. Vận văn gồm các thể loai cổ phong, Đường luật (bát cú, tứ tuyệt), từ khúc, ca, ngâm; biền văn có các thể loai như hịch, phú, cáo ; tản văn thì mượn các thể như chiếu, chế, biểu, tấu , tự bạt. Nếu xét một cách tổng quát thì văn học Lý - Trần chưa có thể loại tự thân như văn học giai đoạn sau, nhìn chung thì vận văn được ưa chuộng hơn tản văn ; các thể loại thơ trữ tình đạt nhiều thành tựa hơn thể loại tự sự. Thời Trung Đại , các nước trong khu vực Đông Á nói chung , Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng sâu đậm những tư tưởng , những học thuyết Nho- Phật - Lão. Tư tưởng tam giáo hằn sâu trong tâm lý, tư tưởng, đời sống của người Việt Nam lúc bấy giờ. Xét riêng thời Lý- Trần, tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất, cả trong tầng lớp bình dân lẫn quí tộc phong kiến. Một trong những nét đặc sắc của bản lĩnh Việt Nam được hầu hết các nhà nghiến cứu đồng tình là cho dù chúng ta tiếp thu , kế thừa hay ảnh hưởng khách quan bất kỳ tư tưởng học thuyết nào , chúng ta phải cố gắng vận động chúng theo hướng dân tộc hóa. Văn học Lý- Trần cũng không đi ngoài hướng này trên tiến trình hình thành và phát triển. Song song với việc tiếp thu, kế thừa những tinh hoa của văn hóa, văn học nước ngoài, văn học Lý - Trần cũng gạn lọc những yếu tố không thích hợp , đi ngược lại quyền lợi dân tộc. Quá trình vận động và phát triển theo hướng dân tộc hóa biểu hiện không chỉ ở hình thức mà còn ở nội dung văn học . về hình thức, ban đầu văn học Lý - Trần sử dụng chữ Hán thì đến khoảng thế kỷ XIU (thời Trần). Các tác giả còn sử dụng chữ Nôm để sáng tác, chữ Nôm ra đời là một thành tựu đáng kể khẳng định mong muốn độc lập tự chủ của dân tộc ta. Đó còn là cột mốc cho sự phát triển của văn học, tạo tiền đề cho các kiệt tác bất hủ ở giai đoan sau. về nội dung, văn học Lý - Trần đã tiếp thu có chọn lọc những tinh túy của văn học Hán, chuyển hóa thành những thứ phù hợp với dân tộc , phục vụ cho dân tộc. Nền văn học này thể hiện rõ nét tâm tư tình cảm nguyện vọng, ước mơ của con người Việt Nam. Chẳng hạn như thơ thiền Việt Nam bình dị, gần gũi thắm chất trữ tình, ít quan tâm đến những vấn đề thuộc bản thể luận. Nếu có cũng được diễn tả bằng những hình tượng hết sức gần gũi với cuộc sống đời thường. Không như thơ thiền Trung Quốc, mang đậm tính triết học. Ngay cả Nho giáo, Lão giáo từ Trung Quốc truyền sang cũng dần dần có những nét khác biệt với tư tưởng chính thống ở bản xứ. Như tư tưởng trung quân, ái quốc, tam cương, ngũ thường khi vào Việt Nam cũng được nhìn nhận thoáng hơn khổng khắc nghiệt như nơi phát sinh ra nó. Lý tưởng nhân nghĩa của Khổng - Mạnh thì được Nguyễn Trãi lý giải: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Hay các Đạo quán dần dần được dùng để thờ phụng những vị anh hùng nghĩa sĩ hi sinh vì sự hòa bình độc lập của dân tộc hơn là thờ các vị thần thánh của Đạo Lão. Xuất phát từ lý tưởng trung quân ái quốc, cảm hứng yêu nước, yêu hòa bình, mở ra một dòng văn học yêu nước trong văn chương Việt Nam. Khi đất nước bị ngoai xâm bức bách thì biểu hiện của lòng yêu nước là quyết hi sinh để bảo vệ độc lập tự chủ không khoan nhương với kẻ thù : Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời Lũ giặc cớ sao xâm phạm tới Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời) Khí phách hào hùng với niềm tin bất diệt vào vận nước vững bền nghìn thu tỏ rõ hào khí Đông A của Trần Quang Khải Đọ át sóc Chương Dương độ Cầm hồ Hàm Tử quan Thái bình tu trí lực Vạn cổ thử giang san (Chương Dương cướp giáo giặc Hàm Tử bắt quân thù Thái bình nên gắng sức Non nước ấy ngàn thu) Lúc đất nước hòa bình thì cảm hứng yêu nước được bộc lộ thành niềm khát vọng xây dựng đất nước yên bình, hạnh phúc, tình yêu thiên nhiên với cảnh trí tươi đẹp của non sông gấm vóc, tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc. Tư tưởng nhân đạo chính là cảm hứng chủ đạo của văn học thời kì này. Với cảm hứng thời Trung đại, con người chưa xem tự nhiên như là một khách thể. Con người tự xem mình là một phần tử của vũ trụ (tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ). Với quan niệm thiên nhân hợp nhất con người và vũ trụ tự có sự giao hòa gắn bó mật thiết, cộng thêm quan niệm vạn vật nhất thể của nhà Phật và tư tưởng hòa quang đồng trần của Lão giáo tạo nên hình tương con người đặc biệt khó gặp được ở thời đại khác .Hơn nữa, con người thời đại này hướng tới sự hoàn thiện, hướng những tới giá trị chân thiện mỹ tạo nên những nguyên tắc đạo đức tốt đẹp. Nhất là văn học Lý - Trần nói chung, văn học thiền nói riêng phản ánh được sự thiết tha vun đắp những giá trị nhân bản ngày một hoàn thiện hơn. Đặc biệt là mong muốn về sự tự do hoàn toàn và sự giải phóng con người với ý nghĩa cao nhất . Theo các nhà thơ thiền, con người chỉ đạt được sự tự do hoàn toàn , sự giải phóng triệt để khi và chỉ khi họ ngộ được con người thật không địa vị trong mỗi con người. 1.2.Khái lược về Phật giáo và Thiền tông thời Lý - Trần: Phật giáo do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập ra cách đây hơn 2500 năm tại một nước nhỏ thuộc nước Ấn Độ. Từ quê hương Ấn Độ cổ đại, Phật giáo truyền vào nước ta từ những năm đầu Cổng Nguyên . So với Nho giáo và Đạo giáo thì trong thời Bắc thuộc, Phật giáo được dân tộc ta tiếp nhận nhanh chóng và mạnh mẽ nhất . Ngay từ đầu nếp sống gần gũi hiền lành thân thiện của các vị tu hành tạo được thiện cảm ngày càng lớn trong lòng nhân dân. Những nét tương đồng giữa giáo lý và nghi thức của nhà Phật với đạo lý , tập tục cổ truyền cộng với quá ữình nhập thế giúp đời tích cực của nhà tu hành khiến cho Phật giáo nhanh chóng có vị trí quan trọng trong nhận thức cũng như tình cảm của người Việt ta. Như vậy lịch sử Phật giáo Việt Nam được mở đầu bằng những trang thuận lợi, tốt đẹp. Từ những năm đầu thế kỷ thứ X đến nửa sau thế kỷ XIV Phật giáo như là quốc giáo nước nhà, số người xuất gia tu Phật và tại gia tu Phật ngày càng đông. Trên từ Vua quan, hoàng tộc dưới đến thứ dân đều một lòng tu phật. về mặt tổ chức chính quyền, triều đình dành hẳn một hệ thống ngạch quan cho người tu hành. Hệ thống ngạch quan đó là Tăng ban. Các vị quan lại trong tăng ban không chỉ nắm quyền điều khiển đời sống tinh thần
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan