Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Công tác dân vận chính quyền từ thực tiễn quận bình thạnh, thành phố hồ chí minh...

Tài liệu Công tác dân vận chính quyền từ thực tiễn quận bình thạnh, thành phố hồ chí minh

.PDF
84
301
85

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ THỊ HỒNG THU CÔNG TÁC DÂN VẬN CHÍNH QUYỀN TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VÕ THỊ HỒNG THU CÔNG TÁC DÂN VẬN CHÍNH QUYỀN TỪ THỰC TIỄN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8380102 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC GS.TS. HOÀNG THẾ LIÊN HÀ NỘI, năm 2019 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN VẬN CHÍNH QUYỀN ...........6 1.1. Khái niệm dân vận chính quyền .......................................................................6 1.2. Đặc điểm của dân vận chính quyền .................................................................8 1.3. Vai trò của dân vận chính quyền ....................................................................11 1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về dân vận chính quyền .........................13 1.5. Cơ sở pháp lý của dân vận chính quyền.........................................................21 1.6. Những yếu tố tác động đến dân vận chính quyền ..........................................25 Chương 2: THỰC TIỄN TRONG THỰC HIỆN DÂN VẬN CHÍNH QUYỀN Ở QUẬN BÌNH THẠNH, TP.HCM ..........................................................................28 2.1. Vị trí địa lý, đặc điểm kinh tế - xã hội của quận Bình Thạnh ........................28 2.2.Tình hình tổ chức công tác dân vận chính quyền trên địa bàn quận Bình Thạnh ...............................................................................................................................35 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC DÂN VẬN CHÍNH QUYỀN ......................................................................................................60 3.1. Định hướng đổi mới công tác dân vận chính chính quyền ............................60 3.2. Giải pháp đổi mới công tác dân vận chính quyền ..........................................64 KẾT LUẬN ..............................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về dân vận - một bộ phận hết sức quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và Nhân dân các dân tộc ở nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Có thể nói, tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh không những chứa đựng tinh thần trọng dân, thương dân, hết lòng chăm lo lợi ích của Nhân dân, nhận rõ sức mạnh của Nhân dân, mà còn chỉ ra nội dung và phương thức vận động, tập hợp Nhân dân. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay từ khi mới thành lập Đảng ta đã đặt lên hàng đầu và luôn luôn xác định rõ vai trò, vị trí quan trọng của công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng. Bước vào thời đại mới, đất nước đứng trước nhiều thời cơ và thách thức lớn; trong đó thách thức nổi bật là âm mưu của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam. Do đó, công tác dân vận lúc này cần phải được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa với những nội dung phù hợp với tình hình mới của đất nước và thế giới nhằm phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong những năm vừa qua, công tác dân vận do Đảng tổ chức, lãnh đạo đã tạo ra động lực lớn cho các phong trào thi đua yêu nước, góp phần không nhỏ làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chống lại có hiệu quả âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, tạo thế và lực cho đất nước; đồng thời góp phần mở rộng quyền dân chủ, cải thiện đời sống Nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Dân vận là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Trong đó, dân vận chính quyền là một bộ phận cấu thành không thể thiếu và phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, vô cùng quan trọng của hệ thống hành chính Nhà nước. Hình dung một cách khái quát có thể nói, dân vận chính quyền là dân chủ hóa nền hành chính, thể hiện bản chất nền hành chính trong nhà nước của dân, do dân, vì 1 dân, được coi trọng và đẩy mạnh dân vận chính quyền là phương thức tốt nhất để khắc phục tình trạng coi công tác dân vận là nhiệm vụ của hệ thống cơ quan dân vận của Đảng, đoàn thể còn hệ thống hành chính chỉ thực hiện quản lý nhà nước theo pháp luật, bằng công cụ hành chính mệnh lệnh. Thực tiễn đã chứng minh rằng dù chủ trương, pháp luật hay quyết định hành chính có đúng đến mấy mà thiếu tuyên truyền, giải thích, vận động tốt thì vẫn không thể thực hiện thuận lợi, hiệu quả. Công tác dân vận thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác dân vận chính quyền trong thời gian gần đây, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật nhằm đẩy mạnh công tác dân vận chính quyền, chẳng hạn như: Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg ngày 21/9/2000 về tăng cường công tác dân vận; Chỉ thị số 16/2016/CT-TTg ngày 16/5/2016 về tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới; Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/4/2007 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Ngoài ra, trong Hội nghị tổng kết công tác dân vận toàn quốc năm 2017 và triển khai nhiệm vụ năm 2018, Ban Dân vận Trung ương cũng đã chọn chủ đề công tác là "Năm dân vận chính quyền"… phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa – khoa học công nghệ của cả nước có quy mô phát triển và tốc độ xây dựng rất nhanh, thu hút một lực lượng lớn người lao động từ các tỉnh, thành trong cả nước về làm việc, sinh sống và các nguồn đầu tư của các tổ chức trong và ngoài nước. Nhằm giúp người dân, tổ chức doanh nghiệp hiểu rõ hơn nhiệm vụ của các cơ quan, giúp người dân tiếp cận và hiểu rõ được công việc của chính quyền các cấp thì Dân vận là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy đảng, các đoàn thể, chính quyền, trong đó, công tác dân vận chính quyền có vai trò quan trọng. Nhằm tăng cường công tác dân vận chính quyền, góp phần xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ nhân dân. Hệ thống dân vận của chính quyền các cấp cùng tham gia tuyên truyền, vận động, giám 2 sát và các sở, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp nâng cao trình độ nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức khi tiếp xúc với công dân. Đồng thời, thực hiện công khai, minh bạch những quy định về các thủ tục hành chính để thuận lợi cho người dân; kịp thời giải quyết dứt điểm việc khiếu nại tố cáo, những vấn đề bức xúc của công dân liên quan đến dân sinh ngay từ cơ sở để hạn chế điểm nóng. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác dân vận vẫn còn một số yếu kém cần được khắc phục. Việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhiều nơi còn làm hình thức, chiếu lệ. Các cấp ủy đảng, cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi vẫn chưa nhận thức đúng vị trí và tầm quan trọng của công tác dân vận chính quyền, thậm chí còn xem nhẹ công tác này. Thực tiễn đòi hỏi cần phải tăng cường và đổi mới công tác dân vận chính quyền, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với dân cũng như khối đại đoàn kết toàn dân; phát huy vai trò dân chủ, phục vụ nhân dân của nền hành chính quốc gia. Việc quyết định lựa chọn năm 2018 là “Năm dân vận chính quyền” nhằm thúc đẩy, tăng cường hơn nữa công tác dân vận của chính quyền, góp phần xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo, phục vụ nhân dân và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Trung ương về công tác dân vận; góp phần thúc đẩy công tác dân vận chính quyền các cấp, nêu cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với nhân dân. Đó không chỉ là chính sách liên quan đến cuộc sống của nhân dân; tổ chức thực thi có hiệu quả mà còn là thực lòng lắng nghe, thực tâm giải quyết kiến nghị, bức xúc của người dân, xây dựng hình ảnh chính quyền của dân, do dân, vì dân. Từ việc thực hiện năm Dân vận chính quyền 2018 và tiếp tục thực hiện năm Dân vận chính quyền 2019, học viên chọn đề tài “Công tác dân vận chính quyền từ thực tiễn quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh”. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dân vận chính quyền là vấn đề lớn lý luận và thực tiễn lớn, đã được khá nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Do đó cũng đã có nhiều công trình khoa 3 học về dân vận nói chung và dân vận chính quyền nói riêng được công bố. Trong đó có thể kể đến là: - Cuốn sách Tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân (1990), tác giả Vũ Oanh, Nhà xuất bản Sự thật. - Tác phẩm Đổi mới công tác quần chúng (1991), tác giả Nguyễn Văn Linh. - Tác phẩm Sơ thảo lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), do Ban Dân vận Trung ương phát hành. Đây là Công trình nghiên cứu lớn nhất, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, đã dựng lại quá trình thực hiện công tác dân vận của Đảng qua các thời kỳ cách mạng. - Tác phẩm 75 năm công tác dân vận của Đảng – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Trung tâm nghiên cứu Khoa học Dân vận thuộc Ban Dân vận Trung ương xuất bản; đã phác họa bức tranh toàn cảnh về công tác dân vận, làm rõ những quan điểm của Đảng về công tác dân vận, trao đổi những kinh nghiệm và phương pháp vận động các giai cấp, tầng lớp nhân dân qua mỗi thời kỳ cách mạng và giới thiệu thực tiễn công tác dân vận ở một số địa phương tiêu biểu. Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu về công tác dân vận như: Luận văn Tiến sĩ của Lê Kim Việt về Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Luận văn Tiến sĩ của Hoàng Mạnh Đoàn về Công tác vận động giáo dân của tổ chức cơ sở đảng (cấp xã) ở đồng bằng Bắc Bộ nước ta hiện nay; Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Ngọc Mai về Công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới 1986-1996; Luận văn Thạc sĩ của Lê Quang Hòa về Kinh nghiệm công tác quần chúng của Đảng ta ở căn cứ địa Tân Trào trong Cách mạng Tháng Tám; Luận văn Thạc sĩ của Vũ Dũng về Nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới; Luận văn Thạc sĩ của Tạ Thị Minh Phú về Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ xã ở tỉnh Hà Tây hiện nay – thực trạng và giải pháp; Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Hương về Công tác dân vận của Đảng bộ xã, thị trấn ở huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay; các bài viết của Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Dân vận, Tạp chí Tổ chức Nhà nước… các công trình 4 này đã góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác dân vận của Đảng trong các thời kỳ cách mạng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1: Mục đích nghiên cứu Để làm sâu sắc hơn những vấn đề lý luận về dân vận chính quyền, góp phần nâng cao nhận thức của xã hội, nhất là của đội ngũ công chức về dân vận chính quyền. Nghiên cứu thực tiễn trong thực hiện dân vận chính quyền ở thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá kết quả tích cực, mặt còn hạn chế, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác dân vận chính quyền. 3.2: Nhiệm vụ của nghiên cứu Phân tích, lý giải một số vấn đề lý luận về dân vận chính quyền. Đánh giá tình hình thực tế trong công tác triển khai thực hiện công tác dân vận chính quyền trên địa bàn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Đề xuất những giải pháp, hướng khắc phục những hạn chế trong thực hiện công tác dân vận chính quyền tại quận Bình Thạnh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1: Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận và thực tiễn từ việc thực hiện công tác dân vận chính quyền trên địa bàn quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2: Phạm vi nghiên cứu Không gian: những giải pháp, kết quả thực hiện công tác dân vận chính quyền trên địa bàn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian: từ năm 2000 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1: Cơ sở lý luận Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng trong công tác dân vận nói chung và công tác dân vận chính quyền nói riêng. 5.2: Phương pháp nghiên cứu 5 Luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp hệ thống hóa, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp để nghiên cứu, giải quyết những vấn đề khoa học đặt ra. Các phương pháp được sử dụng linh hoạt để đảm bảo hiệu quả và tính thuyết phục của việc nghiên cứu. Đặc biệt là phương pháp lập phiếu khảo sát trong cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1: Ý nghĩa lý luận Làm rõ các khái niệm, nội dung về công tác dân vận và dân vận chính quyền. Từ đó, liên hệ thực tế trong việc thực hiện công tác dân vận chính quyền trên địa bàn quận Bình Thạnh. 6.2: Ý nghĩa thực tiễn Đánh giá có căn cứ khoa học thực trạng và đề xuất một số giải pháp từng bước nâng cao công tác dân vận chính quyền tại quận Bình Thạnh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương sau: Chương 1. Cơ sở lý luận chung về dân vận chính quyền Chương 2. Thực tiễn trong thực hiện dân vận chính quyền ở quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3. Định hướng và giải pháp đổi mới công tác dân vận chính quyền. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN VẬN CHÍNH QUYỀN 1.1. Khái niệm dân vận chính quyền Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân vận” là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho. 6 Công tác dân vận là một trong những công tác rất cơ bản và liên quan chặt chẽ đến mọi hoạt động lãnh đạo của Đảng. Công tác đó có từ khi Đảng ta ra đời và gắn liền với từng bước trưởng thành của Đảng. Một trong những truyền thống tốt đẹp và nguồn gốc sức mạnh của Đảng là mối quan hệ với dân. Nhân dân là lực lượng to lớn nhất, là người trực tiếp thực hiện mục đích, mục tiêu của Đảng, là người bảo vệ Đảng, bổ sung lực lượng cho Đảng; góp phần định ra đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Vì vậy có làm tốt công tác vận động Nhân dân thì đường lối chính sách của Đảng mới thể hiện được ý chí nguyện vọng của Nhân dân, gắn bó máu thịt với Nhân dân. Điều này xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận. Dân vận chính quyền là mỗi cán bộ, công chức đều phải có trách nhiệm nghe dân nói, nói dân hiểu và làm để dân tin. Có thể hiểu đó việc cán bộ, chính quyền các cấp với nhiều hình thức hoạt động vận động Nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ủng hộ, bảo vệ, xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng vững mạnh, tạo sự đồng thuận của Nhân dân; từ đó, nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền các cấp, việc đề ra chính sách và thực thi mới sát với đời sống Nhân dân, bớt phiền hà và xa rời Nhân dân, bảo đảm lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, để được dân tin và dân theo. Dân vận chính quyền hiểu giản dị là vận động nhân dân – vào những việc làm thiết thực và hiệu quả. Dân vận không phải là nói suông, là việc làm hình thức mà phải được hiểu là sự chuyển biến của bộ máy hành chính, là công việc trực tiếp của chính quyền, đặc biệt ở cấp cơ sở, liên quan mật thiết tới đời sống hàng ngày của nhân dân. Đây là một bước chuyển biến về nhận thức trong công tác dân vận khi mà nhiều năm qua, đối với không ít cấp chính quyền, không ít “công bộc”, dân vận vẫn được hiểu và quan niệm là việc đi vận động nhân dân có tính chất phong trào. Trong khi thực tế, để có được sự đồng thuận của nhân dân, niềm tin của nhân dân lại được quyết định bằng những chỉ số cụ thể, thước đo cụ thể mà các cơ quan chính quyền là nơi thực hiện. 7 Năm dân vận chính quyền là xây dựng bộ máy hành chính Nhà nước thật sự gần dân, của dân, do dân, vì dân. Trong đó, mỗi cán bộ phải nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin, nói ít làm nhiều, nhất là phải khắc phục được bệnh nói không đi đôi với làm. 1.2. Đặc điểm của dân vận chính quyền Trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn quan tâm công tác dân vận. Dân vận là nhiệm vụ thường xuyên của Đảng, các đoàn thể, chính quyền, trong đó công tác dân vận chính quyền có vai trò rất quan trọng. Xét về bản chất dân vận chính quyền là phương thức bảo đảm nguyên tắc dân là chủ và dân làm chủ trong hoạt động hành chính. Hay nói một cách cụ thể hơn là trong hoạt động hành chính dân phải được hưởng các quyền dân chủ. Đó là các quyền như: quyền tham gia công việc của nhà nước, quyền được thông tin; quyền được khiếu nại, tố cáo; quyền được hưởng các dịch vụ công; quyền được phục vụ; quyền được giám sát hoạt động của chính quyền…ở cơ sở dân có quyền biết, bàn, quyết định, kiểm tra. Đối diện với các quyền đó là trách nhiệm tương ứng của chính quyền: trách nhiệm tôn trọng ý kiến của Nhân dân, bảo đảm cho Nhân dân được tham gia ý kiến vào việc hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, ban hành quyết định hành chính. Trách nhiệm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của Nhân dân, công khai, minh bạch theo hướng xây dựng một chính quyền mở, trách nhiệm tiếp dân; giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo. Trách nhiệm thực hiện cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ để tiếp cận và có ý thức phục vụ nhân dân. Theo nghĩa đó, dân vận chính quyền là nhiệm vụ pháp lý, chứ không phải là một phong trào, một hình thức vận động để lấy lòng dân. Do đó, dân vận chính quyền có một số đặc điểm như sau: Thứ nhất, chủ thể của dân vận chính quyền là các cơ quan hành chính các cấp, các ngành, bộ, cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt. 8 Thứ hai, đối tượng dân vận chính quyền là củng cố vững chắc lòng tin của Nhân dân đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ ba, dân vận chính quyền được thực hiện bằng các phương thức sau đây: - Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của nhân dân; làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ máu thịt của nhân dân với Đảng và Nhà nước. - Nghiên cứu cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân trên cơ sở tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. - Tập trung giải quyết những bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội. Trong xây dựng thể chế, chính sách, cần quán triệt và thực hiện nghiêm nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Chú trọng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là điều kiện sống, lao động, học tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe. - Quan tâm điều chỉnh hài hòa lợi ích giữa các giai tầng xã hội, các vùng miền, các lĩnh vực; gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng, xã hội. - Xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu kiện đông người phức tạp, kéo dài. - Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững, nhất trí với mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân 9 vận; quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Công tác dân vận trong tình hình mới phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo động lực để nhân dân đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Làm tốt công tác dân tộc, tôn giáo, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. - Tăng cường lãnh đạo công tác thông tin, tuyên truyền, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan thông tin đại chúng; mở rộng các kênh thông tin truyền thông, đối thoại trực tiếp với nhân dân, góp phần giải tỏa bức xúc, hoài nghi trong xã hội. Chú trọng việc định hướng và quản lý các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là các mạng xã hội; phát huy sức mạnh của dư luận xã hội lành mạnh hỗ trợ cho các biện pháp quản lý của Nhà nước và các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, vận động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Chủ động đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. - Phát triển các tổ chức quần chúng theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và tự trang trải, tạo môi trường và điều kiện để nhân dân phát huy sức lực, trí tuệ sáng tạo theo nguyện vọng trên cơ sở pháp luật. Nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức đoàn thể, đoàn viên, hội viên; phát hiện, lựa chọn những đoàn viên, hội viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để giới thiệu kết nạp vào Đảng, giới thiệu quy hoạch, đào tạo cán bộ. Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của tuổi trẻ; tạo môi trường, cơ chế, chính sách thuận lợi cho tuổi trẻ rèn đức, luyện tài, lao động, học tập, phấn đấu, cống hiến cho đất nước. Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng cho thanh, thiếu niên trở thành những người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng. - Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội với các hội quần chúng, với chính quyền, lực lượng vũ trang trong công tác dân vận. Phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng. Phát huy vai trò công tác đối ngoại nhân dân và vận động người Việt Nam ở nước ngoài giữ gìn bản sắc dân 10 tộc, hình ảnh con người, đất nước Việt Nam và hướng về xây dựng quê hương, đất nước; tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè và các tổ chức quốc tế. 1.3. Sự cần thiết của công tác dân vận chính quyền Dân vận chính quyền có vai trò rất quan trọng như sau: Thứ nhất, hoạt động của dân vận là của nhiều tổ chức nhưng trong đó hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức là trực tiếp nhất, hiệu quả nhất. Các tổ chức đoàn thể làm công tác dân vận chủ yếu thông qua hình thức tuyên truyền vận động. Nhưng Nhân dân với tâm lý “trăm nghe không bằng một thấy” nên công tác tuyên truyền cũng có những hạn chế. Do công việc bận rộn, đa số người dân không có thời gian hoặc không có điều kiện để tiếp xúc, theo dõi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Một số hoạt động khác của các đoàn thể lại mang tính hình thức nên tác động đối với Nhân dân chưa cao. Nhưng chỉ cần một biểu hiện nhỏ của cán bộ, công chức đối với Nhân dân trong quá trình tiếp xúc cũng để lại cho người dân những suy nghĩ tốt đẹp hoặc ngược lại. Dù ít hay nhiều, bất cứ người dân nào cũng có việc liên quan tới chính quyền. Một thái độ ân cần, niềm nở, giải thích cặn kẽ mọi điều khi người dân đến làm việc thì dù không giải quyết được việc, người dân vẫn cảm thấy vui lòng vì thấy mình được tôn trọng. Ngược lại, sự quan liêu, cửa quyền, hách dịch, thờ ơ, lãnh đạm đối với những nhu cầu chính đáng của Nhân dân đã làm cho người dân bực bội dẫn đến bất đồng với những tổ chức mà cán bộ, công chức đó là người đại diện. Như vậy, chỉ cần một thái độ, một hành động nhỏ của cán bộ chính quyền trong quá trình làm việc với dân có thể góp phần làm cho công tác dân vận có hiệu quả hay không Nhiệm vụ của chính quyền là phải cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng ở các cấp thành các chính sách để thực hiện. Nếu các chính sách đó phù hợp với nguyện vọng của quần chúng nhân dân, mang lại lợi ích cho Nhân dân và việc triển khai thực hiện có hiệu quả thì Nhân dân càng phấn khởi, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành quản lý của chính quyền. Thứ hai, thông qua công tác dân vận chính quyền, Nhân dân hiểu rõ bản chất tốt đẹp của Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tạo niềm tin trong Nhân dân đối với 11 Đảng, chính quyền. Bản chất của một nhà nước không phải là cái chung chung, trừu tượng mà nó phải được thể hiện qua những cán bộ, công chức đại diện cho Nhà nước để thực thi quyền lực chính trị. Nếu những cán bộ đó thực sự là công bộc của dân như Hồ Chí Minh hằng mong muốn, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, tận tâm phục vụ Nhân dân thì Nhân dân càng thấy rõ bản chất tốt đẹp của chính quyền nhân dân. Chúng ta có tuyên truyền bao nhiêu đi chăng nữa những điều tốt đẹp về chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng những cán bộ, công chức đó lại sách nhiễu dân, gây khó khăn cho dân thì việc tuyên truyền đó sẽ thiếu tính thuyết phục. Một số chính sách do chính quyền các cấp ban hành và thực hiện đã mang lại cho Nhân dân một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, càng làm cho Nhân dân cảm nhận sâu sắc những giá trị đích thực mà chế độ này đã mang lại cho họ. Đó là chính sách xóa đói giảm nghèo, thực hiện pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, phát triển y tế, giáo dục… Thứ ba, cán bộ, công chức chính là cầu nối thắt chặt quan hệ giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước, làm cho quan hệ đó ngày càng gắn bó, mật thiết. Cán bộ chính quyền trực tiếp tiếp xúc với Nhân dân nên nắm bắt và thấu hiểu những nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, từ đó có những phương án tham mưu cho cấp trên để đưa ra những quyết sách đúng đắn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của Nhân dân. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cán bộ công chức của bộ máy chính quyền sẽ phát hiện những bất cập trong chính sách, chế độ và đề xuất để kịp thời điều chỉnh. Những điều đó càng làm thắt chặt quan hệ giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước tạo nên nền tảng chính trị - xã hội vững chắc cho sự tồn tại, phát triển của chế độ. Có thể nói, mối quan hệ đó được thắt chặt gần gũi hay lỏng lẻo, xa cách phần lớn là do hoạt động có hiệu quả, tận tâm hay không của cán bộ, công chức nhà nước. Ở địa phương nào, cán bộ chính quyền có năng lực công tác hạn chế, không tận tâm với dân thì không thể thiết lập được mối quan hệ gắn bó, mật thiết với dân. Chính điều đó phần nào làm suy giảm niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước. Thứ tư, công tác dân vận chính quyền thực hiện tốt sẽ tạo sự đồng thuận của Nhân dân đối với Đảng, chính quyền. Nếu đường lối, chính sách đưa ra phù hợp với nguyện vọng lợi ích của Nhân dân được cán bộ, công chức thực thi có hiệu quả thì 12 Nhân dân càng đồng tình ủng hộ. Có thể nói, dân vận tốt sẽ tạo sự đồng thuận của Nhân dân và suy cho cùng, thước do hiệu quả công tác dân vận chính là mức độ đồng thuận của Nhân dân với chính quyền các cấp và với cả hệ thống chính trị. Để đạt được điều đó, chính quyền giữ vai trò rất quan trọng. Các đoàn thể tích cực hoạt động để cùng chính quyền xây dựng sự đồng thuận xã hội. 1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về dân vận chính quyền Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh công tác dân vận là vận động nhân dân làm cách mạng. Toàn Đảng phải làm công tác dân vận, phụ trách công tác dân vận và chịu trách nhiệm cao nhất đối với công tác này, bởi Đảng có trọng trách lãnh đạo và cầm quyền. Người nhấn mạnh, công tác dân vận không phải là nhiệm vụ của riêng một cá nhân cán bộ, đảng viên hay tổ chức nào. Nghĩa là, mọi cấp chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đều phải có trách nhiệm, thường xuyên làm công tác dân vận. Dân vận và công tác dân vận là tư tưởng lớn, nét đặc sắc có ý nghĩa quan trọng trên con đường hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người luôn đề cao công tác dân vận trong hoạt động của Đảng ta. Người đặt vấn đề dân vận, công tác dân vận ở tầm chiến lược, quốc sách, đồng thời chú trọng tới phương pháp, cách thức thực hiện hết sức thiết thực cụ thể, chu đáo, tỉ mỉ. Tư tưởng về công tác dân vận xuyên suốt trong quá trình hoạt động cách mạng của Người, tư tưởng đó được khẳng định và thể hiện rõ nét qua bài báo “Dân vận” (đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15-10-1949), bài báo đã trả lời được các câu hỏi: Dân vận là gì? ai làm công tác dân vận?. Có thể thấy, đối tượng công tác dân vận không phải là một cá nhân hay một nhóm xã hội nào mà là toàn thể nhân dân; hoạt động dân vận chính là nhằm thực hiện mục tiêu chung của cách mạng; nội dung cơ bản của công tác dân vận là tổ chức lực lượng nhân dân, đại đoàn kết toàn dân để thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy, mọi cấp chính quyền, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, viên chức của hệ thống chính trị đều phải phụ trách công tác dân vận. Tùy theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình mà có nội dung cụ thể về công tác dân vận. Trong quá trình thực hiện, phải luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tích cực chủ động, sáng tạo để có biện pháp vận động nhân dân cho phù hợp, thiết 13 thực, hiệu quả. Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng vai trò, vị trí và khẳng định tầm quan trọng của công tác dân vận. Quan điểm của Đảng về công tác dân vận được thể hiện xuyên suốt và thống nhất từ Cương lĩnh chính trị, văn kiện đại hội, các nghị quyết chuyên đề của Trung ương, quy chế, quy định… cùng sự vận dụng phù hợp theo từng thời kỳ cách mạng. Công tác dân vận không phải chỉ chú ý đến việc an dân mà quan trọng hơn phải có giải pháp để phát huy sức mạnh của Nhân dân. Không những phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, xây dựng đoàn kết và sự đồng thuận trong Nhân dân mà còn phải chăm lo tìm các giải pháp động viên, bảo đảm quyền làm chủ, phát huy các tiềm năng, sức mạnh trí tuệ sáng tạo, sức mạnh của Nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng, chính quyền vững mạnh, dựa vào dân để thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị. Tập hợp, vận động Nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Dân là người thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ của Chính phủ, đoàn thể, nên dân phải được hiểu biết, bàn bạc và giám sát, do đó không chỉ có mặt trận, các đoàn thể chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương cũng phải làm công tác dân vận. Trong bài báo “Dân vận” ngày 15 tháng 10 năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt, Việt Minh...) đều phải phụ trách dân vận”. Ở tầm khái quát có thể thấy tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân vận chính quyền thể hiện rõ trong các luận điểm sau đây: Một là phục vụ nhân dân là nhiệm vụ vẻ vang của Nhà nước, của chính quyền. 14 Xuất phát từ quan điểm: “trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân” và “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm”,…trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của Nhân dân”, Hồ Chí Minh xem việc được phục vụ Nhân dân là một vinh dự cao quý. Mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước và Nhân dân như vậy trở thành quan hệ giữa người phục vụ và người được phục vụ, nhưng đây không phải là mối quan hệ “chủ - tớ” theo nghĩa thông thường và càng không nên hiểu Nhân dân trở thành một loại ông chủ chỉ biết sai khiến, “chỉ tay năm ngón”. Như trên đã nói, trong quan hệ giữa cơ quan nhà nước và nhân dân, không chấp nhận việc cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước bao biện, làm thay Nhân dân, và thật ra không ai có thể làm thay nhân dân vì “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, nếu Nhân dân không ra tay và “không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy” “là cũng không xong…” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Thứ hai là Nhà nước phải nêu cao tinh thần phụ trách trước dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc đề cao tinh thần trách nhiệm, tinh thần phụ trách của cán bộ, nhân viên nhà nước trước dân; Nhân dân là người chủ xã hội, nhưng quyền làm chủ đó Nhân dân trao và thực hiện chủ yếu thông qua bộ máy nhà nước. Vấn đề lớn đặt ra là làm sao người được trao quyền, sử dụng quyền cho đúng quyền hành được trao, sử dụng có hiệu quả và có hiệu lực, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Mặt khác, luôn luôn đề phòng khả năng là người được trao quyền sẽ lạm dụng hoặc sử dụng tắc trách quyền đó và điều rất tệ hại là biến Nhân dân thành người chủ trên danh nghĩa và trên thực tế là người bị o ép, bó tay bó chân, chỉ để bị sai khiến và phục vụ các “ông quan cách mạng”. Thứ ba, Nhà nước, chính quyền không được hao phí sức dân. Năm 1950, trong bài nói chuyện tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong II, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chỉ thị mà xét theo nội dung có ý nghĩa chỉ đạo không chỉ đối với quân đội mà cả đối với bộ máy nhà nước nói chung: “không được phung phí nhân lực, vật lực của Dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô ích. Phải khôn khéo tránh điều gì có hại cho đời sống Nhân 15 dân”. Trong bức điện gửi các cán bộ và chính quyền và đoàn thể miền Nam Trung Bộ, Người cũng chỉ ra những “khuyết điểm nặng” cần được sớm khắc phục như: động viên vét đến tài sản gốc sinh kế của dân như ruộng đất, trâu bò, vốn liếng”. Một căn bệnh của các nhà nước thường mắc phải là huy động và sử dụng phung phí sức dân, dùng sức dân vào những công việc không mang lại lợi ích thiết thực, huy động và sử dụng sức dân vô tội vạ hoặc sai mục đích. Người phân phán mạnh mẽ hiện tượng “Không tiết kiệm đồng tiền, bát gạo là mồ hôi, nước mắt của Nhân dân”. Trong mỗi dịp về thăm một địa phương, Người đã lưu ý lãnh đạo địa phương: “Ngay trên tỉnh cũng còn hiện tượng hình thức, tốn kém tiền bạc Nhà nước, lãng phí công sức của Nhân dân, như việc làm cổng của nhà triển lãm, việc phá đi xây lại nền nhà của Tỉnh ủy…Trung ương và Bác rất phiền lòng về những khuyết điểm ấy”. Người cũng phê phán hiện tượng: “…tập lễ nhạc để đi chữa cháy”… Thứ tư, Nhà nước, cán bộ, công chức phải yêu dân, kính dân để được dân yêu, dân kính. Nhận ra tầm quan trọng của mối quan hệ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục, rèn luyên nhân viên nhà nước tinh thần phục vụ nhân dân vô điều kiện, ý thức xây dựng mối quan hệ với dân trên cơ sở của sự tin cậy nhau, hiểu biết nhau. Mặt khác, Người đòi hỏi một thái độ chủ động, đi bước trước từ phía các cơ quan, nhân viên nhà nước: “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu. Trong bao nhiêu năm, nhất là dưới chế độ cũ, quần chúng nhân dân là đối tượng của quyền lực, chịu mọi bất công, áp bức hà khắc, thái nđộ vô trách nhiệm, tắc trách của nhân viên nhà nước. Vì vậy, họ vẫn có thái độ nghi ngại, ngờ vực đối với các nhân viên nhà nước nói chung, dù trong xã hội nào họ vẫn là người nắm quyền lực, sức mạnh của quyền lực thuộc về những kẻ nhân danh Nhà nước. Mặc cảm đó không dễ gì xóa bỏ. Vì vậy, nhân viên nhà nước phải có thái độ, ý thức chủ động, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân”. Người kịch liệt phê phán những người: “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nó “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của 16 quần chúng”. Người chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng đó: “Nguyên nhân bệnh ấy là: Xa Nhân dân… Khinh Nhân dân…Sợ Nhân dân…Không tin cậy Nhân dân… Không hiểu biết Nhân dân… Không yêu thương Nhân dân…” Thứ năm, Nhà nướ, chính quyền phải dựa trên ý thức làm chủ Nhà nước của dân. Năm 1961, tại Hội nghị bàn về cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một bài phát biểu quan trọng, trực tiếp đề cập đến một vấn đề cơ bản trong tư tưởng của Người về Nhà nước: ý thức làm chủ Nhà nước của công dân. Ở đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh không nói đến ý thức làm chủ nói chung mà nói đến ý thức làm chủ Nhà nước và quyền làm chủ Nhà nước. Về mặt này, phải nói rằng, quan niệm của Người có ý nghĩa phương pháp luận và ý nghĩa chỉ đạo cực kỳ sâu sắc. Người nói: “Nhà nước ta ngày nay là của tất cả nghững người lao động…nhân dân lao động ta là những người làm chủ nước ta… Đã là người chủ Nhà nước thì phải chăm lo việc nước như chăm lo việc nhà… Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ. Mỗi người phải ra sức góp công, góp của để xây dựng nước nhà. Chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau”. Thứ sáu, Nhà nước và Nhân dân có quan hệ phải công bằng. Quan hệ giữa Nhà nước, nói cụ thể hơn, giữa cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước với công dân là mối quan hệ đa dạng và không đơn tuyến, được triển khai trên nhiều lĩnh vực, phương diện. Một loại quan hệ mang tính quyền lực nhà nước, khi cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước là người thừa hành, có quyền ra lệnh và công dân, nói chung là đối tượng thi hành và có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành. Ngay đối với loại quan hệ này, như trên đã đề cập đến, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên lưu ý các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước không được làm bất kỳ một điều gì gây khó dễ, thiệt hại cho dân. Người phê phán nghiêm khắc những “ông quan cách mạng”. những ông “quan chủ” cùng bao nhiêu tệ hại họ có thể đưa lại cho người dân. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan