Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đặc điểm của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học việt nam thế kỷ x...

Tài liệu đặc điểm của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học việt nam thế kỷ xx

.PDF
159
574
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN VĂN TỔNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HUẾ - 2019 ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN VĂN TỔNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 62.22.01.21 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TÔN THẤT DỤNG TS. HÀ NGỌC HÕA HUẾ, 2019 i LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn TS. Tôn Thất Dụng và TS. Hà Ngọc Hòa - những người Thầy đã tận tâm giúp đỡ, dẫn dắt tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Vô cùng biết ơn quý Thầy Cô khoa Ngữ văn trường Đại học Khoa học, Đại học Huế và Viện Văn học đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong học tập, nghiên cứu. Trân trọng cảm ơn Lãnh đạo trường Đại học Khoa học, Đại học Huế; Phòng Đào tạo Sau đại học trường Đại học Khoa học Huế; Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Phú Yên; Lãnh đạo Trường THPT Nguyễn Trường Tộ đã động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian qua. Xin cảm tạ cha mẹ, những người thân trong gia đình, đồng nghiệp, bạn bè… đã chia sẻ cùng tôi suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài. Nguyễn Văn Tổng ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Nguyễn Văn Tổng iii MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa ............................................................................................................... i Lời cảm ơn ..................................................................................................................ii Lời cam đoan ............................................................................................................ iii Mục lục ....................................................................................................................... iv MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................4 4. Phương pháp nghiên cứu .....................................................................................5 5. Đóng góp của luận án ..........................................................................................5 6. Cấu trúc luận án ...................................................................................................6 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................7 1.1. Những nghiên cứu về tự truyện trên thế giới được giới thiệu ở Việt Nam ......7 1.2. Những nghiên cứu về tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam ..........................................................................................................8 1.3. Nhận xét và đánh giá về các tác phẩm cụ thể .................................................16 1.3.1. Giai đoạn trước 1945 ................................................................................16 1.3.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 .....................................................................20 1.3.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX.......................................................24 1.4. Đánh giá về tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài .........................28 1.4.1. Đánh giá về tình hình nghiên cứu ............................................................28 1.4.2. Hướng triển khai đề tài .............................................................................29 CHƢƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ DIỆN MẠO TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX .................31 2.1. Giới thuyết về thể loại ....................................................................................31 2.1.1. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện ............................................................31 2.1.2. Quan niệm về tự truyện ............................................................................35 2.1.3. Quan niệm về tiểu thuyết tự truyện ..........................................................37 2.1.4. Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong mối quan hệ với các thể loại tương cận..................................................................................................39 2.1.5. Cơ sở hình thành tiểu thuyết có tính chất tự truyện .................................43 iv 2.2. Diện mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện thế kỷ XX ...........................48 2.2.1. Giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945 ......................................................48 2.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến 1975 .....................................................................52 2.2.3. Giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX.......................................................55 CHƢƠNG 3. TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN TỪ CẢM QUAN HIỆN THỰC VÀ CON NGƢỜI ...........................................................................................................58 3.1. Hiện thực cuộc đời qua chiêm cảm của người trong cuộc .............................58 3.1.1. Hiện thực được tái hiện theo dòng hoài niệm ..........................................59 3.1.2. Hiện thực qua cái nhìn hồi cố, chiêm nghiệm ..........................................64 3.1.3. Hiện thực qua góc nhìn phản tư ...............................................................69 3.2. Từ nguyên mẫu nhà văn đến nhân vật ............................................................75 3.2.1. Từ con người thực đến nhân vật tự trình bày ...........................................75 3.2.2. Từ con người thực đến nhân vật hồi cố, chiêm nghiệm ...........................79 3.2.3. Từ con người thực đến nhân vật phản tư..................................................87 CHƢƠNG 4. TIỂU THUYẾT CÓ TÍNH CHẤT TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX - NHÌN TỪ PHƢƠNG THỨC THỂ HIỆN ....96 4.1. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật.......................................................96 4.1.1. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong và sự thay đổi điểm nhìn .................................................................................................96 4.1.2. Người kể chuyện ở ngôi thứ ba với điểm nhìn bên trong ......................103 4.2. Ngôn ngữ của tiểu thuyết có tính chất tự truyện ..........................................111 4.2.1. Ngôn ngữ kể và sự hòa phối giữa kể - tả - bình luận .............................111 4.2.2. Ngôn ngữ gián tiếp tự do (lời nửa trực tiếp) ..........................................116 4.3. Giọng điệu trần thuật ....................................................................................119 4.3.1. Giọng trữ tình, hoài niệm .......................................................................120 4.3.2. Giọng triết lý, chiêm nghiệm..................................................................127 4.3.3. Giọng tự trào, giễu nhại ..........................................................................130 KẾT LUẬN ............................................................................................................137 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................141 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ PHỤ LỤC v MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Thuật ngữ tiểu thuyết tự truyện (tiếng Pháp gọi là autofiction, tiếng Anh/ Mỹ gọi là autobiographical novel), đến nay không còn quá xa lạ trong đời sống văn học. Thuật ngữ này được biết đến lần đầu tiên vào năm 1977, khi Serge Doubrovsky “đã sáng chế thuật ngữ ghép hai từ auto (chính mình) và fiction (hư cấu) dính liền với nhau” [20, tr.34]. Trên thế giới, tiểu thuyết tự truyện bắt đầu nở rộ từ thế kỷ XX, gắn liền với những tên tuổi lớn như: Ch. Dickens (với David Copperfil), M. Gorki (Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi), L. Tolstoy (Thời thơ ấu, Thời niên thiếu, Thời thanh niên), Aragon (Gã dân quê), Claude Simon (Điền viên, Cây keo), M. Duas (Người tình)... Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là nó đã trở nên quen thuộc với mọi đối tượng độc giả cũng như được mọi người trong giới nghiên cứu, phê bình văn học thừa nhận. Vì, ngay trong cách định nghĩa về thể loại, giới nghiên cứu, phê bình cũng không đồng nhất: có tài liệu thì định nghĩa tiểu thuyết tự truyện là tự truyện viết dưới dạng trần thuật qua bút pháp hư cấu; có tài liệu thì định nghĩa tiểu thuyết tự truyện là Truyện trong đó tác giả vừa là người kể vừa là nhân vật, họ cùng chia sẻ chung một danh hiệu với nhau, còn tên gọi thì chứng tỏ đó là tiểu thuyết …[20, tr. 34 - 35]. Ở Việt Nam, đến nay, tiểu thuyết tự truyện vẫn chưa có được một danh xưng thể loại cụ thể. Tuy nhiên, trong hành trình sáng tạo nghệ thuật, rất nhiều nhà văn đã sử dụng yếu tố tự truyện làm chất liệu trong tiểu thuyết. Từ những thử bút ban đầu của các nhà văn ở chặng đường nửa đầu thế kỷ XX như Tản Đà, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Lan Khai... cho đến những cây bút sáng tác ở đô thị miền Nam: Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Duyên Anh, Võ Hồng, Túy Hồng… Đặc biệt, từ sau thời kỳ đổi mới, con số những tiểu thuyết có tính chất tự truyện xuất hiện khá đầy đặn trên văn đàn, tạo thành một dòng chảy mạnh mẽ. Rất nhiều những cây bút đã sử dụng yếu tố tự truyện như một thủ pháp nghệ thuật để cách tân, làm mới tiểu thuyết. Như vậy, có thể nói, dù chưa thực sự trở thành “thương hiệu” cụ thể của một nhà văn nào, và trong sự nghiệp sáng tác của từng nhà văn, tiểu thuyết có tính 1 chất tự truyện cũng xuất hiện khá khiêm tốn, con số những tác phẩm được xếp vào hàng kết tinh nghệ thuật cũng chưa thể sánh bằng với sự lớn mạnh của tiểu thuyết. Song, tiểu thuyết có tính chất tự truyện thực sự là một thực thể đang hiện hữu trong đời sống văn học Việt Nam. Sự hiện diện của nó với tư cách là một tiểu loại tiểu thuyết là điều hoàn toàn không thể phủ nhận. Mặc dù đã hiện diện từ lâu trong đời sống văn học và nó vắt mình qua hai thế kỷ, nhưng vẫn còn đó tâm lý nghi ngại: liệu ở Việt Nam đã có tiểu loại tiểu thuyết có tính chất tự truyện? Đây cũng là vấn đề tạo không ít áp lực cho người nghiên cứu, nhưng đồng thời cũng kích thích sự hứng khởi khi đến với tiểu loại tiểu thuyết này. Bởi, chúng tôi đang khảo sát và nghiên cứu một tiểu loại “rồi đây sẽ phát triển thế nào, biến hóa ra sao? Chỉ có thời gian mới trả lời được câu hỏi này” [20, tr. 40]. 1.2. Những thập niên gần đây, tiểu thuyết có tính chất tự truyện ra đời ngày một nhiều. Cùng với đó là những nghiên cứu về tiểu thuyết có tính chất tự truyện cũng nhiều hơn. Song, dù có thu hút được sự chú ý của giới nghiên cứu, phê bình nhưng xung quanh nó vẫn còn ngổn ngang nhiều vấn đề: từ cách định danh, tiêu chí nhận diện đến đặc điểm tiểu loại... vẫn còn là vấn đề chưa được giới nghiên cứu đi đến sự thống nhất. Ra đời vào những thập niên đầu thế kỷ XX, nhưng rõ ràng trong hệ thống thể loại tiểu thuyết Việt Nam, nó vẫn là “đứa con sinh sau”, và nhịp lưu chuyển của nó vẫn còn trong quá trình vận động không ngừng, huống hồ nó cũng chỉ mới được lưu tâm nhiều ở những năm gần đây. Những bài báo, tham luận, những nghiên cứu trực tiếp về tiểu loại, cùng với một số luận văn, luận án đi vào nghiên cứu một giai đoạn cụ thể nào đó vẫn chưa thể khái quát được toàn diện về tiểu loại này. Đây cũng là trở ngại lớn cho những người yêu thích tiểu thuyết có tính chất tự truyện. Đọc một tác phẩm mà trong công trình nghiên cứu này thì xếp vào hàng tự truyện, hoặc tiểu thuyết, còn ở công trình kia thì lại cho là “tự truyện bất thành”, hoặc một hồi ký, giả tự truyện... khiến người đọc không khỏi phân vân. Nhìn trên phương diện lý thuyết về tiểu loại cũng như thực tế sáng tác, tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đang bỏ ngỏ, đòi hỏi cần phải có một sự tiếp tục. Đây cũng chính là lý do để chúng tôi chọn “Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX” làm 2 đề tài nghiên cứu nhằm tìm ra sự vận động, quá trình phát triển cũng như những thành tựu đạt được cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật, góp phần làm rõ hơn diện mạo của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, một tiểu loại khá giàu tiềm năng đang trong quá trình vận động. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu Với đề tài Đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, tác giả luận án đặt mục tiêu nhận diện, lý giải những đặc điểm của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam suốt chiều dài của thế kỷ XX. Mục tiêu cụ thể - Thông qua khảo sát tư liệu, nhận diện quá trình vận động và phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, bước đầu xác lập cơ sở lý thuyết về tiểu loại tiểu thuyết này. - Phân tích, lý giải đặc điểm tiểu thuyết có tính chất tự truyện dựa trên những nét đặc trưng cơ bản: từ nguyên mẫu nhà văn - đề tài - nhân vật, mối quan hệ giữa sự thật và hư cấu trong tác phẩm. - Phân tích, lý giải những đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết có tính chất tự truyện dựa trên những phương thức thể hiện: người kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu. Trên cơ sở đó, làm rõ hơn gương mặt tiểu loại cũng như những đóng góp của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong việc làm mới nghệ thuật tiểu thuyết. 2.2. Nhiệm vụ - Hệ thống hóa các hướng nghiên cứu, tiếp cận tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã có, phân tích, lý giải nhằm làm rõ hơn những chỗ còn bỏ ngỏ và xác định hướng nghiên cứu cụ thể. - Xác định rõ tiền đề cơ sở cho sự phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. - Khái quát một cách thật ngắn gọn về đối tượng nghiên cứu trong mối tương quan tổng thể đời sống văn học Việt Nam và các lý thuyết vận dụng trong quá trình nghiên cứu. 3 - Phân tích quá trình hình thành, phát triển của tiểu thuyết có tính chất tự truyện dựa trên mối quan hệ giữa hiện thực cuộc đời tác giả và thế giới nghệ thuật trong tác phẩm qua các chặng đường khác nhau nhằm tìm ra quy luật vận động và những đặc điểm cơ bản trong nội dung phản ánh và nghệ thuật thể hiện của tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam thế kỷ XX. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng khảo sát của luận án là những tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Đặc biệt, luận án sẽ đi vào khảo sát những tiểu thuyết có tính chất tự truyện hiện lên khá rõ nét. Cụ thể là những tác phẩm tiêu biểu sau: Giấc mộng lớn (Tản Đà), Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Dã tràng (Thiết Can), Bốc đồng (Đỗ Đức Thu), Chiếc cáng xanh (Lưu Trọng Lư), Ngậm miệng, Hai người điên giữa kinh thành Hà Nội (Nguyễn Bính), Mực mài nước mắt (Lan Khai), Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Sống mòn (Nam Cao), Hoa bươm bướm và Người về đầu non (Võ Hồng), Trường cũ (Duyên Anh), Bếp lửa (Thanh Tâm Tuyền), Tôi nhìn tôi trên vách (Túy Hồng), Vòng tay học trò (Nguyễn Thị Hoàng), Thời xa vắng (Lê Lựu), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung khảo sát và nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện Việt Nam trong thế kỷ XX, bao gồm những tác phẩm ra đời từ đầu cho đến hết thế kỷ XX. Chọn mốc thời gian từ đầu cho đến hết thế kỷ XX, bởi chúng tôi nhận thấy rằng đây là một giai đoạn mà tiểu thuyết có tính chất tự truyện đã góp phần rất lớn vào quá trình phát triển của tiểu thuyết Việt Nam theo hướng hiện đại. Luận án tập trung nghiên cứu tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX trên các phương diện cơ bản: Cách định danh tiểu loại; tiền đề cơ sở hình thành; sự vận động của tiểu thuyết có tính chất tự truyện qua các chặng đường khác nhau; các phương thức thể hiện của tiểu loại tiểu thuyết này. Trên cơ sở đó, chúng tôi tổng hợp, đánh giá một cách khách quan những vấn đề chung, liên quan đến lý thuyết về tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học 4 Việt Nam. Đồng thời, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi chú trọng đến đặc điểm nổi bật nhất của tiểu loại tiểu thuyết này trong mối quan hệ với các thể loại văn học khác. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp tiểu sử Chúng tôi vận dụng phương pháp tiểu sử nhằm tìm hiểu tác phẩm thông qua mối quan hệ giữa tác giả và văn bản nghệ thuật do nhà văn sáng tạo nên. Đây là một trong những phương pháp quan trọng giúp cho luận án có thêm cơ sở để tìm hiểu dấu ấn tự truyện cũng như mối quan hệ giữa sự thật và hư cấu trong tiểu thuyết. 4.2. Phương pháp thống kê, phân loại Chúng tôi chọn lựa phương pháp này để tiếp cận đối tượng nghiên cứu nhằm thống kê, phân loại, hệ thống hóa và chọn lựa tài liệu. 4.3. Phương pháp liên ngành Nhằm để có một góc nhìn sâu hơn về tính chất tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX, chúng tôi sẽ vận dụng một số lí thuyết về văn hóa học, thi pháp học và tự sự học. 4.4. Phương pháp so sánh, đối chiếu Với phương pháp này, luận án hướng đến “giải mã” những đặc trưng của tính chất tự truyện trong tiểu thuyết và khu biệt giữa tự truyện trong tiểu thuyết với các loại hình tiểu thuyết khác. Qua đó, luận án chỉ ra những nét đặc sắc của đặc điểm tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX. 5. Đóng góp của luận án - Từ việc hệ thống hóa lý luận về tiểu thuyết có tính chất tự truyện, luận án đưa ra những kiến giải có tính thực tiễn nghiên cứu để khái quát một số khái niệm mang tính đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. - Định rõ những đặc trưng về mặt lý luận của tiểu thuyết có tính chất tự truyện, lấy đó làm nền tảng cơ sở để soi rọi vào tác phẩm nhằm thấy được những nét đặc trưng của tiểu thuyết có tính chất tự truyện. - Là một công trình nghiên cứu chuyên biệt, hệ thống về tiểu loại tiểu thuyết có tính chất tự truyện nhằm hướng đến tái hiện toàn bộ gương mặt của tiểu loại này trong cả hành trình một thế kỷ (thế kỷ XX). 5 - Khẳng định rõ vai trò, vị trí của tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong quá trình vận động và phát triển của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. 6. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của Luận án sẽ được triển khai thành các chương cụ thể sau: - Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu - Chương 2: Cơ sở lý luận và diện mạo tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX - Chương 3: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX - Nhìn từ cảm quan hiện thực và con người - Chương 4: Tiểu thuyết có tính chất tự truyện trong văn học Việt Nam thế kỷ XX - Nhìn từ phương thức thể hiện 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Những nghiên cứu về tự truyện trên thế giới đƣợc giới thiệu ở Việt Nam Tự truyện trong nguyên ngữ Hy Lạp là autos (chính mình), bios (cuộc đời), và graphein (viết), nghĩa là “viết về chính cuộc đời mình”. Cách kết hợp ba thành tố này tạo thành autobiography trong tiếng Anh và sau đó được sử dụng trong tiếng Pháp autobiographie, nhưng cách viết này trở thành một thuật ngữ thông dụng ở Châu Âu từ giữa thế kỷ XIX. Những tác phẩm tự truyện đầu tiên trên thế giới bắt đầu xuất hiện từ thời cận đại ở Tây Âu. Tuy nhiên, danh từ tự truyện chính thức được sử dụng phải đợi đến cuối thế kỷ XVIII, khi mà thể loại này bắt đầu nở rộ ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Những tài liệu nghiên cứu đầu tiên về thể loại tự truyện xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ XX với những chuyên khảo của Anna Robson Burr (1909), Wayne Shumaker (1926), A.M.Clark (1935). Dần về sau này, mặc dù tự truyện chưa tạo được sự lưu tâm của giới phê bình nhưng nó vẫn tồn tại với tư cách một thể loại độc lập và nhiều nhà nghiên cứu cũng đã phác thảo được những nét cơ bản, xem nó như một thể loại riêng biệt. Trong số đó, phải kể đến Những điều kiện và giới hạn của Tự truyện (1956) của Georges Gurdorf, Tự thú và Tự truyện (1955) của Stephen Spendes. Ở hai công trình này, nhà phê bình đã chú ý đến sự tồn tại độc lập của tự truyện với vai trò là một thể tài đứng bên cạnh những thể loại văn học khác. Nhưng phải đợi đến năm 1960, khi chuyên luận Phác thảo và Sự thật trong Tự truyện (Design and Truth in Auubiography) của Roy Pascal ra đời thì tự truyện mới bắt đầu được nghiên cứu như “một hoạt động sáng tạo”. Trong chuyên luận này, Pascal đã đặt ra vấn đề: khởi điểm một tự truyện, tác giả tự truyện liệu có đi theo đúng sự thật mà mình đã trải qua? Có hay không cái gọi là phác thảo trong trải nghiệm của con người nếu đây không phải là một sự áp đặt vô lí cho sự thật [164]. Đến thập niên 70, nhà phê bình văn học người Mỹ James Olney trong một công trình nghiên cứu về tự truyện của mình đã viết: “Chính sự chuyển hướng sang cái “tôi” khi đã có 7 được nhận thức về sự tồn tại của nó sẽ định hình và quyết định bản chất của tự truyện và trong quá trình ấy sẽ vừa khám phá vừa sáng tạo lại mình - đã khởi đầu cho chủ đề tự truyện trong những cuộc tranh luận” [163]. Từ những nghiên cứu về cái tôi trong tự truyện ấy, những năm về sau, đặc biệt là khoảng ba thập niên cuối của thế kỷ XX, thể loại tự truyện được giới phê bình chú ý nhiều và thể loại này gần như trở thành một trong những thể loại trung tâm, được soi chiếu dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong ba thập niên cuối của thế kỷ XX, cùng với sự nở rộ của thể loại tự truyện, các nhà nghiên cứu, phê bình văn học không còn xem tự truyện thuộc hàng “ngoại biên” nữa mà soi ngắm nó qua nhiều chiều kích khác nhau trong vai trò của một thể loại văn học. Chính nhờ thế mà cả một hệ thống lí luận thể loại cũng được định hình một cách rõ nét. Và một trong số đó phải kể đến Hiệp ước Tự thuật (Le Pacte Autobiographique) (1975) của Philippe Lejeune. Hiệp ước này ra đời mang theo một định nghĩa về thể loại, kèm theo đó là những ranh giới và bảng biểu, sơ đồ cụ thể để phân biệt tự truyện với những thể loại khác. Tuy nhiên, cũng trong những năm cuối của thập niên 70, cùng với “sự tuyên xưng cái chết của tiểu thuyết”, và khi Michael Sprinker tuyên bố “sự chấm dứt của tự truyện” thì các nhà hậu cấu trúc luận khẳng định “văn bản của tự truyện có đời sống riêng của nó, thoát ly khỏi tính quy chiếu và khi đó cái tôi chỉ còn là vấn đề của văn bản” [64, tr. 23]. Nhưng trong khoảng hai thập niên cuối thế kỷ XX, khi thể tự truyện ngày một thêm phong phú, vấn đề nghiên cứu về tự truyện lại được xuất hiện trở lại khá đầy đặn mà xem chừng như những lí thuyết về tự truyện từ trước đó và cả Hiệp ước tự thuật của Philippe Lejeune gần như không thể theo kịp đà phát triển đa dạng của thể tự truyện. Nhiều nhà nghiên cứu tập trung đi vào khám phá thế giới tự truyện từ lĩnh vực tâm lí sáng tạo và dân tộc học, từ văn hóa và tâm lí học nghệ thuật… 1.2. Những nghiên cứu về tự truyện và tiểu thuyết có tính chất tự truyện ở Việt Nam Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu, khi trang tiểu thuyết mang bóng dáng tự truyện xuất hiện với gương mặt đầy lạ lẫm, thì giới học thuật của Việt Nam đã bắt đầu chú ý đến bước đi của nó. Trong số các công trình nghiên cứu, Nhà văn hiện 8 đại của Vũ Ngọc Phan có lẽ là công trình đầu tiên nghiên cứu về tự truyện dưới góc nhìn thể loại. Từ hướng tiếp cận này, Vũ Ngọc Phan đã có những phát hiện khá ấn tượng: “Tự truyện là một loại văn tuy không mới ở nước người, nhưng rất mới ở nước ta. Gần đây có mấy nhà văn đem những việc của mình ra viết, nhưng họ chưa có can đảm đề là tự truyện, họ “tiểu thuyết hóa” ít nhiều cuộc đời của họ và đề là tiểu thuyết” [103, tr. 95]. Dần về sau, đặc biệt là chặng đường sau năm 1986, khi mà quan niệm và tư duy nghệ thuật thay đổi, tạo điều kiện cho sự xuất hiện của khuynh hướng tự truyện ngày một nhiều đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Có lẽ vì thế nên những công trình nghiên cứu về khuynh hướng này cũng ngày một nở rộ. Theo Phong Lê, “Để nhớ về một quá khứ chưa xa, về một vùng hiện thực khuất nẻo, khó có ai biết, nhưng đã được viết với tư cách người trong cuộc, nên khó có ai viết thay, là Chuyện kể năm 2000, 2 tập (2000) của Bùi Ngọc Tấn, trong nối dài về trước với Tuổi thơ im lặng (1987) của Duy Khán, Cát bụi chân ai (1992) và Chiều chiều (1999) của Tô Hoài… Cũng có thể xếp vào đây Thượng đế thì cười (2003) của Nguyễn Khải - một tiểu thuyết gần như tự truyện. Với Tô Hoài, Nguyễn Khải - những tên tuổi quan trọng của văn học hiện đại, thì điều quan trọng không chỉ là chuyện được kể, mà còn là giọng kể, cách kể” [66, tr. 52]. Cùng chung quan điểm với Phong Lê, Nguyễn Văn Long trong Đổi mới của văn học Việt Nam từ sau 1975 cho rằng, xuất phát từ tinh thần đổi mới tư duy và nhìn thẳng vào sự thật của văn học những năm cuối 80, đầu những năm 90 trong văn học Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ khuynh hướng nhận thức lại hiện thực. Đây chính là lúc văn học trở về với đời sống thường nhật và vĩnh hằng, vì thế, “Trong văn xuôi những năm 90 và vài năm lại đây… Hồi kí - tự truyện lên ngôi…” [73]. Nghiên cứu về truyện và tự truyện của Phan Bội Châu, khi luận bàn về sự phát triển của thể tự truyện, Hoàng Đức Khoa nhận thấy trong bối cảnh văn hóa trung đại vốn nặng quan phương, khép kín nên khả năng con người tự ý thức về mình và hướng tới khám phá, thể hiện từng số phận thực sự không dễ. Chính những thay đổi trong đời sống xã hội Việt Nam thời kỳ thực dân nửa phong kiến, cùng với quá trình tư sản hóa những năm nửa đầu thế kỷ XX đã tác động mạnh mẽ đến đời 9 sống văn học. Đây chính là bối cảnh ra đời tự truyện của Phan Bội Châu. Theo tác giả, tự truyện là truyện do các nhà văn viết về cuộc đời mình nhằm những mục đích khác nhau… Cũng chính trong thể loại này, tất cả những biến cố, sự việc, nhân vật … đều được lấy từ cuộc đời thực của tác giả, không có sự hư cấu thêm, hoặc nói cách khác là không có sự hư cấu tự do [61, tr. 119 - tr. 128]. Sự lưu tâm một cách nồng nhiệt cho thể tự truyện ngày một đậm đặc hơn trong những năm về sau, đặc biệt là khi thể tự truyện ngày một lấn sâu vào đời sống văn học từ sau 1986. Tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, nhà nghiên cứu Bích Thu đã trình bày ý kiến của mình về tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện. Với Bích Thu thì người đọc hôm nay muốn “được tiếp xúc với những tiểu thuyết tâm lý mà ở đó, nhân vật tự bộc lộ tư tưởng, chính kiến qua dòng chảy của nhận thức, mọi hành vi, ứng xử và lời thoại ẩn sâu trong tâm trạng nhân vật và các tầng nghĩa. Hoặc các tiểu thuyết mang tính tự truyện, vừa thể hiện cái “tôi” lại vừa hư cấu, vừa mang tính tiểu sử lại vừa được nghệ thuật hóa, tiểu thuyết hóa, một đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại, có khả năng khai thác tiềm thức qua kỹ thuật dòng ý thức” [134, tr. 6]. Ở bài viết này, Bích Thu thực sự chú ý đến nét đặc trưng mang tính khu biệt của tiểu thuyết mang tính tự truyện, đó là người đọc dễ dàng nhận thấy ở tiểu thuyết mang tính tự truyện vừa thể hiện cái “tôi” lại vừa hư cấu. Có thể nói, chính cuộc sống thực tại của con người Việt Nam sau 1986 đã mang lại cho nhà nghệ sĩ những quan niệm nghệ thuật về hiện thực với những khám phá mới. Và ở đây, Bích Thu rất có lí khi cho rằng một trong những nguyên nhân làm cho tiểu thuyết có tính tự truyện ngày một xuất hiện nhiều trong văn học những năm trở lại đây là bởi xã hội hiện đại đề cao vai trò của cá nhân và thúc đẩy sự thức tỉnh của ý thức cá nhân. Cái tôi trỗi dậy đòi hỏi được quan tâm đúng mức. Tiểu thuyết trở về với con người, thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, bảo tồn giá trị của con người trước sự lãng quên của xã hội. Khi nghiên cứu về văn xuôi Việt Nam từ 1975 đến 1995, Nguyễn Thị Bình cũng nhận ra “những tác phẩm mang dáng dấp tự truyện như Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Cát bụi chân ai (Tô Hoài)… Với những tác phẩm này, cái tôi của người viết hiện diện rất 10 sắc nét qua cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì đã trải nghiệm bằng điểm nhìn hiện tại”. Từ những phát hiện ấy, Nguyễn Thị Bình đã lần tìm được dấu vết để làm nên phần cốt lõi của các tác phẩm mang bóng dáng tự truyện đó chính là “cái tôi” của người viết luôn gắn liền với cảm hứng nhận thức, đánh giá lại những gì mà chính người viết đã từng trải nghiệm trong thực tiễn cuộc sống của mình [10]. Trong một công trình nghiên cứu khác, khi khảo sát một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới cho đến nay, căn cứ vào cách thức xử lí chất liệu hiện thực trong tác phẩm, Nguyễn Thị Bình cũng nhận ra được bên cạnh những tiểu thuyết theo phong cách lịch sử hóa, tiểu thuyết tư liệu - báo chí, tiểu thuyết hiện thực kiểu truyền thống, tiểu thuyết theo phong cách hiện thực còn có khuynh hướng tiểu thuyết theo phong cách tự thuật. Đây có thể được xem là một trong những khuynh hướng tiểu thuyết chính trong dòng văn học đương đại Việt Nam. Có thể nói, chính thời kì đổi mới của đất nước từ sau năm 1986 đã làm cho văn học Việt Nam thực sự có được sức sống mới. Gần như cảm hứng ngợi ca của những trang văn mang đậm khuynh hướng sử thi không còn là mảnh đất lí tưởng để các nhà văn hướng đến. Vì vậy, khi nhìn vào hiện thực của văn học chặng đường sau năm 1986, nhà nghiên cứu Lã Nguyên xem đây là cả một bước “chuyển mình” thật sự của văn học để tiến tới “phá cái khoanh vùng hết sức hình thức của đề tài văn học trước kia”. Và văn học hôm nay đang hướng tới những gì đang hiện hữu giữa cuộc sống đời thường. “Nhà văn hôm nay đang nêu tấm gương về sự dám nghĩ, dám nói, dám thẳng thắn bày tỏ lập trường công dân của mình. Ta hiểu vì sao văn học trong những năm gần đây dám bất chấp cả những điều cấm kỵ xưa nay và phạm vi những vấn đề xã hội mà nó quan tâm lại rộng lớn đến như thế” [87]. Nếu như trước năm 1975, vận mệnh sống còn của Tổ quốc luôn là lựa chọn đầu tiên của người cầm bút, thì chặng đường sau 1975, sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã chiếm thế thượng phong trên bàn cân bút lực người viết: “Việc nhận thức đúng đắn vị trí của nhân dân trong đời sống xã hội, buộc nhà văn tìm đến chỗ đứng phát ngôn bình đẳng với công chúng bạn đọc của mình. Đó là cơ sở nảy sinh hình thức văn học của ý thức đối thoại thấm nhuần tinh thần dân chủ” [87]. Nhà văn, nhân vật trần thuật của văn học hôm nay không mấy khi xuất hiện trong tác 11 phẩm ở ngôi thứ ba như con người tuy vô hình nhưng đầy quyền uy, biết hết, thấy tất, mà thường giấu mình sau hình thức tự thú, hình thức người kể chuyện ở ngôi thứ nhất - đó là một biểu hiện của ý thức đối thoại. Nhìn thẳng vào thực tại, tỉnh táo nhận ra mình, nói hết sự thật với người đọc, dù sự thật đó có xót xa, đau lòng đến bao nhiêu cũng không bưng bít, giấu giếm - đó cũng là một biểu hiện của ý thức đối thoại… Con người với tư cách là cá nhân thường bị bỏ rơi trong thế giới của sử thi là vì thế. Sau 1975, nền văn học của chúng ta đã nhanh chóng chuyển từ thế giới vĩ mô sang thế giới vi mô, từ thế giới của cộng đồng, dân tộc và lịch sử đến những câu chuyện về thế sự và đời tư con người. Cho nên, cá nhân con người “đang từng bước, từng bước tiến vào vị trí trung tâm của văn học hôm nay. Cá nhân con người vừa là đối tượng nhận thức trung tâm, vừa là điểm xuất phát để văn học hôm nay nhìn ra thế giới. Nó soi ngắm thế giới và định giá lịch sử qua lăng kính và mực thước của cá nhân con người” [87]. Quan sát văn học và nền kinh tế thị trường trong mười năm cuối thế kỷ XX, Nguyễn Phượng nhận thấy các giá trị từng một thời là niềm tin mãnh liệt của con người Việt Nam giờ đây đứng trước thời kì đổi mới, nó đang thực sự bị lung lay dữ dội - Điều này thể hiện rất rõ ở sự thay đổi về nhận thức về các giá trị… “cái thiêng liêng cao cả, cái lí tưởng mặc dù nó vẫn còn sức hấp dẫn nhưng nó không phải là đối tượng duy nhất mà người cầm bút hôm nay hướng tới”. Từ hướng tiếp cận khái quát văn học Việt Nam khoảng 10 năm cuối thế kỷ XX, trong xu hướng “giải ảo”, “giải thiêng” - nảy sinh từ cái nhìn “tỉnh táo”, “duy thực” đầy can đảm của các nhà văn trong hoàn cảnh đất nước trở lại nhịp sống đời thường, con người trở về với cuộc sống thường nhật hằng ngày, Nguyễn Phượng đã thấy được “thể loại hồi ký, tự truyện và tiểu thuyết tự truyện lại gần như chiếm thế thượng phong trong giai đoạn này. Công chúng dành một sự quan tâm khá đặc biệt với một số tiểu thuyết tự truyện và hồi ký xuất hiện trong giai đoạn này như Cát bụi chân ai (1992 ) và Chiều chiều (1999 ) của Tô Hoài, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn…” [110]. Đánh giá về tiểu thuyết trong văn học thời kì đổi mới, Mai Hải Oanh đã không ngần ngại khi đưa ra nhận định: “Ra đời trong không khí dân chủ, tiểu thuyết tự thuật thời kì đổi mới khá đa dạng. Có loại đậm chất giễu nhại như Thượng đế thì 12 cười, Ba người khác; có loại nói về những chua chát đời người (Chuyện kể năm 2000), có loại nói đến những cảm nhận cá nhân về điều đã trải nghiệm trong đó có những đoạn gần với nhật kí (Chuyện của thiên tài)‟‟ [100, tr. 112]. Cách định dạng, gọi tên tiểu thuyết tự thuật thời kì đổi mới của Mai Hải Oanh cần phải bàn luận thêm, nhưng trong nhận định này người viết đã có một cái nhìn khá chuẩn xác khi cho rằng chính thời kì đổi mới đã mang đến cho thể tiểu thuyết những diện mạo mới, đầy sức hấp dẫn. Trong cuộc Hội thảo Đổi mới tư duy tiểu thuyết (2002), Ma Văn Kháng đã từng nói: “Cùng với tiểu thuyết tư liệu, tiểu thuyết tự thuật sẽ là một thể loại được phát triển”. Đây phải chăng là sự tiên liệu thể hiện góc nhìn đầy lạc quan của một “người trong cuộc”? Người mà gần như hành trình viết của ông ở chặng đường từ sau thời kì đổi mới, từ Mùa lá rụng trong vườn, đến Ngược dòng nước lũ hay Một mình một ngựa… người đọc đều có thể nhận thấy đâu đó chất liệu đời tư của ông gần như ngồn ngộn trên trang tiểu thuyết [57, tr. 67]. Nghiên cứu về sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học thời kì đổi mới, Lý Hoài Thu cũng có quan điểm tương đồng với nhà văn Ma Văn Kháng khi cho rằng: “Nhìn vào sự vận động và phát triển của hệ thống thể loại trong văn học thời kì đổi mới… sự thâm nhập của thể ký vào “lãnh địa” của tiểu thuyết đã tạo nên một dòng tiểu thuyết tự truyện có sức hút lớn trong đời sống văn học đương đại. Chính từ những vùng này, các thể loại cũ đã có thêm nhiều tố chất mới” [136]. Trong Thế kỷ tiểu thuyết, khi bàn về hiện tượng tự truyện, Nguyễn Vy Khanh đã viết: “Ngay từ đầu thế kỷ XX đã có tự truyện với cuốn đầu tiên là Chồn cáo tự sự của Michel Tính xuất bản năm 1910 tại Sài Gòn. Sau đó là Nguyên Hồng với Những ngày thơ ấu (1938) và Thiết Can với Dã Tràng (1939)…”. Trong bài viết này, Nguyễn Vy Khanh viết: “Thế kỷ XX, ít tác giả đưa cái Tôi thật vào văn chương, có chăng cũng phải văn chương hóa, tiểu thuyết hóa… Vào giai đoạn cuối thế kỷ mới thật sự bành trướng thể loại tự truyện nhưng vẫn tương đối ít tác phẩm lớn vì đa phần chỉ là những hồi ký nhẹ tính văn chương” [56]. Sự đầy đặn của tiểu thuyết có tính tự truyện ngày thêm bồi đắp trong văn học Việt Nam đương đại đã tạo thành một khuynh hướng. Nhờ thế nên tiểu thuyết 13 Việt Nam mang nhiều hương sắc mới. Trong bài viết Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Đỗ Hải Ninh cho rằng nền văn học Việt Nam bắt đầu từ sau thời kì đổi mới đã thực sự có những bước tiến đáng kể, đặc biệt là sự thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người, quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ với tác phẩm, với công chúng và với chính mình. Đây chính là tiền đề cơ sở để khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại trở nên khá phổ biến so với văn học giai đoạn 1945 - 1975. Theo Đỗ Hải Ninh, “Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết giúp người đọc không chỉ giải mã con người tác giả và thời đại qua những chi tiết gắn với tiểu sử, cuộc đời thật mà qua những trải nghiệm sống và sự tự thú chân thành” [97]. Với Đỗ Hải Ninh thì mỗi nhà văn khi cầm bút đều xuất phát từ nhu cầu giải phóng tư tưởng và bộc lộ cái tôi cá nhân. Vì vậy, có thể tìm thấy ở mỗi trang viết những trải nghiệm, suy ngẫm và cái tôi rất riêng. Và mục đích của tự truyện là tìm hiểu một con người có thật với lịch sử hình thành nhân cách, còn tiểu thuyết, mặc dù cũng sử dụng nhân vật, cốt truyện đó nhưng được hư cấu hóa, hoặc được cấp cho một lớp vỏ hư cấu. Căn cứ từ thực tiễn ấy, Đỗ Hải Ninh khẳng định: “Văn học Việt Nam từ sau đổi mới đã có những thay đổi đáng kể trong quan niệm về hiện thực và con người, quan niệm về nhà văn trong mối quan hệ với tác phẩm, với công chúng và với chính mình. Đó chính là cơ sở để khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại trở nên khá phổ biến” [97]. Trong một bài viết khác, khi đi sâu vào khai thác mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại, dù biết rằng quy luật giao thoa thể loại và những nỗ lực cách tân nghệ thuật khiến cho việc phân biệt tự truyện và tiểu thuyết tự thuật ngày càng trở nên khó khăn hơn, nhưng Đỗ Hải Ninh cũng đã cố gắng luận giải vấn đề này một cách rành mạch: “Trong tự truyện, cuộc đời tác giả và bức chân dung tinh thần của ông ta trở thành đối tượng chính, tham gia trực tiếp vào tác phẩm như một bộ phận hữu cơ. Còn ở tiểu thuyết tự truyện, những chi tiết tiểu sử được nhào nặn lại, câu chuyện cuộc đời được cấu trúc và sắp xếp lại, tức là tác giả tách khỏi những yếu tố đời tư để thể hiện với một độ gián cách nhất định” [99]. Vì nếu như tự truyện là dạng văn bản có tính quy chiếu, thì những tiểu thuyết 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan