ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐINH THỊ TUYẾN
ĐẶC ĐIỂM THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
DÂN TỘC TÀY BẮC KẠN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
ĐINH THỊ TUYẾN
ĐẶC ĐIỂM THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ
DÂN TỘC TÀY BẮC KẠN
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Tôn Thảo Miên
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn khoa học: “Đặc điểm thành ngữ, tục
ngữ dân tộc Tày Bắc Kạn” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố ở bất cứ
công trình nào khác.
Bắc Kạn, ngày 08 tháng 7 năm 2018
Tác giả luận văn
Đinh Thị Tuyến
i
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên
cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý
Thầy Cô, sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học
tập nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Cô PGS.TS. Tôn Thảo Miên Người đã hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận
văn này. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong
khoa Văn học và khoa Sau đại học, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã
tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận
lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và cho đến khi thực
hiện đề tài luận văn. Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến các sở, ngành liên
quan, Thư viện tỉnh Bắc Kạn, các em học sinh trường Phổ thông Dân tộc Nội
trú tỉnh Bắc Kạn, các cô bác là người am hiểu tiếng Tày tại Bắc Kạn đã không
ngừng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian nghiên
cứu và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các
bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ.
Bắc Kạn, tháng 7 năm 2018
Học viên thực hiện
Đinh Thị Tuyến
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
MỤC LỤC............................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH ......................................................................... iv
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 3
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................. 6
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
5. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 8
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ............................................................... 9
1.1. Một số đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Kạn ....... 9
1.1.1. Về điều kiện tự nhiên................................................................................. 9
1.1.2. Về điều kiện kinh tế-xã hội ..................................................................... 11
1.2. Giới thiệu sơ lược về dân tộc Tày tại tỉnh Bắc Kạn ................................... 12
1.2.1. Đời sống kinh tế....................................................................................... 13
1.2.2. Phong tục, tập quán ................................................................................. 14
1.2.3. Tín ngưỡng, tôn giáo ............................................................................... 17
1.2.4. Một số đặc điểm ngôn ngữ dân tộc Tày tỉnh Bắc Kạn ............................ 18
1.3. Tiêu chí phân loại thành ngữ, tục ngữ qua các công trình nghiên cứu
trước đây .................................................................................................. 21
1.3.1. Khái niệm về thành ngữ, tục ngữ ............................................................ 21
1.3.2. Các công trình nghiên cứu về việc đưa ra các tiêu chí phân loại
thành ngữ và tục ngữ ............................................................................... 23
Chương 2: TRI THỨC, KINH NGHIỆM ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG
TỰ NHIÊN CỦA NGƯỜI TÀY Ở BẮC KẠN PHẢN ÁNH QUA KHO
TÀNG TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ ..................................................................... 28
iii
2.1. Tri thức, kinh nghiệm về thời tiết ............................................................... 28
2.1.1. Dựa vào thiên tượng để dự đoán thời tiết ................................................ 29
2.1.2. Dựa vào hiện tượng thiên nhiên .............................................................. 31
2.1.3. Dựa vào vật tượng trong cuộc sống......................................................... 34
2.2. Tri thức, kinh nghiệm về lao động sản xuất nông nghiệp .......................... 36
2.3. Tri thức, kinh nghiệm về thế giới động vật ................................................ 42
2.4. Tri thức, kinh nghiệm về thế giới thực vật ................................................. 49
Chương 3: TRI THỨC, KINH NGHIỆM ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG
XÃ HỘI CỦA NGƯỜI TÀY Ở BẮC KẠN PHẢN ÁNH QUA KHO TÀNG
TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ ................................................................................. 54
3.1. Lối ứng xử về ăn, mặc, ở, đi lại .................................................................. 55
3.1.1. Lối ứng xử về ăn ...................................................................................... 55
3.1.2. Lối ứng xử về mặc ................................................................................... 57
3.1.3. Lối ứng xử về ở ....................................................................................... 58
3.1.4. Đi lại, vận chuyển .................................................................................... 61
3.2. Lối ứng xử trong các mối quan hệ xã hội ................................................... 63
3.2.1. Lối ứng xử trong gia đình, dòng họ ......................................................... 64
3.2.2. Lối ứng xử với các dân tộc anh em ......................................................... 73
3.2.3. Lối ứng xử với làng xóm, quốc gia ......................................................... 75
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ .................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 82
PHỤ LỤC ...............................................................................................................
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH
Bảng
Bảng 2.1.
Bảng thống kê thành ngữ, tục ngữ về động vật............................. 42
Bảng 3.1.
Bảng thống kê thành ngữ, tục ngữ về tri thức, kinh nghiệm đối
với môi trường xã hội của dân tộc Tày Bắc Kạn .......................... 54
Hình
Hình 3.1.
Nhà sàn tại thôn Pác Ngòi, huyện Ba Bể ...................................... 61
iv
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Bắc Kạn là tỉnh miền núi, nội địa, nằm ở vùng Đông Bắc Việt Nam,
giáp với 4 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Tỉnh được
tái lập ngày 01 tháng 01 năm 1997, hiện có 8 đơn vị hành chính (7 huyện, 1
thành phố) với 122 xã, phường, thị trấn. Diện tích đất tự nhiên 4.859 km2, dân
số trên 312.000 người, gồm 7 dân tộc anh em (Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông,
Hoa và Sán Chay) sinh sống, trong đó dân tộc Tày chiếm trên 54% trên tổng
dân số tỉnh Bắc Kạn.
Là một trong những địa bàn cư trú của người Tày cổ, người dân nơi đây
đã sáng tạo, lưu truyền, lưu giữ một kho tàng văn hóa - văn nghệ dân gian vô
cùng phong phú, đa dạng. Ở lĩnh vực ngôn ngữ, đồng bào cũng có một kho tri
thức, kinh nghiệm vô cùng đặc sắc, được phản ánh một phần qua kho tàng tục
ngữ, thành ngữ dân gian của chính mình. Tuy nhiên, cho đến nay ở Bắc Kạn,
hiện vẫn chưa có ai tiếp cận nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ trong đời sống
của người Tày. Điều này ít nhiều đã tạo ra một khoảng trống trong hoạt động
khoa học, nhất là khi tiếp cận nghiên cứu về người Tày bản địa, vốn được nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng họ nằm trong khu vực Tày cổ “Cần Tày cốc đin mác
nhả” (Người Tày gốc đất hạt cỏ).
1.2. Trong các sáng tạo của tiền nhân, hệ thống tri thức, kinh nghiệm của
mỗi dân tộc thường được phản ánh rõ nét qua việc tổng hợp, cô đọng... một
cách hết sức ngắn gọn bằng những lời nói có vần điệu, gọn và dễ nhớ mà chúng
ta thường gọi là thành ngữ, tục ngữ. Do vậy, thành ngữ, tục ngữ không chỉ là
đối tượng nghiên cứu cho một ngành khoa học đơn lẻ mà còn là đối tượng
nghiên cứu của nhiều chuyên ngành như: văn học, ngôn ngữ học, văn hóa học,
dân tộc học, nhân học, xã hội học, lịch sử... Tuy nhiên, các tiếp cận nghiên cứu
thành ngữ, tục ngữ của dân tộc Tày từ góc góc độ văn hóa (nhấn mạnh vai trò
của môi trường diễn xướng) còn rất ít. Đối với tỉnh Bắc Kạn, kết quả khảo sát,
1
thống kê của cá nhân cho biết hiện chưa có tác giả nào đặt vấn đề nghiên cứu
về nội dung bản sắc dân tộc Tày Bắc Kạn thông qua thành ngữ, tục ngữ. Đây là
một khó khăn nhưng cũng là cơ hội để bản thân tôi có thể tìm ra được những
vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trong quá trình nghiên
cứu. Vần đề này sẽ càng trở nên ý nghĩa và thú vị hơn khi tác giả tiếp cận với
cách sử dụng ngôn ngữ cùng với lối so sánh, ví von... của người Tày xưa, ở một
thời điểm mà sự lai tạp giữa tiếng Tày và tiếng phổ thông dường như chưa diễn
ra. Ví dụ: từ “chăn bông” tiếng Tày tại khu vực thành phố Bắc Kạn ngày nay
gọi là “phà bông”, trong khi tiếng Tày cổ lại gọi là “phà mèng”.
1.3. Trong bối cảnh của xã hội hiện đại, chịu sự ảnh hưởng, chi phối của
quá trình toàn cầu hóa, rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang bị đặt trước
nguy cơ mai một. Tục ngữ, thành ngữ của dân tộc Tày, một bộ phận nhỏ của di
sản văn hóa phi vật thể cũng đang chịu tác động rất mạnh của quá trình phát
triển. Bởi di sản văn hóa phi vật thể luôn tồn tại trong con người, mà con người
thì vốn mong manh trước các giá trị của sự phát triển theo cả nghĩa đen và
nghĩa bóng. Sự biến mất dần thói quen sử dụng trang phục và ngôn ngữ truyền
thống của tộc người, thay vào đó là các sản phẩm, thói quen sử dụng ngôn ngữ,
trang phục theo xu hướng phổ thông luôn đem lại sự âu lo cho những người
làm công tác gìn giữ văn hóa, văn học và các di sản văn hóa tộc người mà tiền
nhân đã dày công hun đúc và mong được cháu con tiếp tục trao truyền. Điều
này sẽ càng trở nên ý nghĩa hơn tại một địa phương vốn được nhiều nhà khoa
học khẳng định là một trong những cái nôi, là địa bàn sinh tụ của người Tày cổ.
Bản thân tôi là người dân tộc Tày, sinh sống và làm việc tại tỉnh Bắc
Kạn, mong muốn tìm hiểu sâu hơn về bản sắc dân tộc Tày thông qua tục ngữ,
thành ngữ, qua đó góp phần nhỏ bé trong việc bảo tồn các thành ngữ, tục ngữ
quý báu của dân tộc. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài Đặc điểm thành ngữ, tục
ngữ dân tộc Tày Bắc Kạn.
2
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Việc sưu tầm, biên soạn thành ngữ, tục ngữ nói chung
Thừa hưởng kết quả luận văn nghiên cứu của Hà Huyền Nga, “Đặc điểm
cấu trúc hình thức và ngữ nghĩa của tục ngữ dân tộc Tày” (2009), có thể sơ
lược về việc sưu tầm thành ngữ, tục ngữ ở nước ta như sau: [33].
Ở nước ta, trước thế kỷ XIX, các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm đã có ít
nhiều dấu vết của các tư tưởng dân gian. Nguyễn Trãi là người đầu tiên sử dụng
các câu tục ngữ dân gian trong sáng tác của mình. Sau đó phải kể đến các sáng
tác chữ Nôm như: “Hồng Đức quốc âm thi tập” của Lê Thánh Tông (thế kỷ
XV), “Bạch vân quốc ngữ thi tập” của Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ XVI),
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình
Chiểu (thế kỷ XVIII, XIX)… Trong điều kiện lịch sử giai đoạn đó, chưa tìm
thấy một công trình nghiên cứu nào chuyên về tục ngữ, thành ngữ thì các tác
phẩm trên là đối tượng rất quan trọng của các nhà nghiên cứu.
Từ thế kỷ thứ XIX đến đầu thế kỷ XX, đã xuất hiện các công trình như:
“Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn”,(1897) của Huỳnh Tịnh Của; “Tục ngữ và cách
ngôn” (1920) của Hàn Thái Dương; “An Nam tục ngữ” (1933) của Vũ Như
Lâm và Nguyễn Đa Gia; “Phong ngữ, ca dao, phương ngôn, tục ngữ” (1936)
của Nguyễn Văn Chiểu; “Ngạn ngữ phong dao” của Nguyễn Can Mộc… Nhìn
chung các công trình trên chủ yếu tổng hợp, thống kê, bước đầu có sự phân
tích, bình luận. Cùng thời kì phải kể đến công trình Tục ngữ phong dao của
Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản năm 1928, đã giới thiệu 6.500 câu tục ngữ, thành
ngữ. Công trình đã có đóng góp lớn trong việc sưu tầm nhưng chưa đi vào
nghiên cứu sâu.
Sau cách mạng tháng Tám xuất hiện một số công trình nghiên cứu có
chiều sâu hơn. Trong đó phải kể đến tác giả Vũ Ngọc Phan với công trình “Tục
ngữ và dân ca”. Ở cuốn sách này, tác giả cố gắng hướng người đọc nhận biết
3
được những tiêu chí phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ. Tuy nhiên vẫn còn ở
mức khá khái quát. Cuốn “Tục ngữ Việt Nam” của nhóm tác giả Chu Xuân
Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri là công trình nghiên cứu công phu về tục
ngữ Việt Nam. Ở công trình này, tác giả nghiên cứu tục ngữ ở hai bình diện: xã
hội học và ngôn ngữ học.
Từ những năm 90 trở về đây, xuất hiện nhiều cuốn tục ngữ, thành ngữ
của các tác giả Mã Giang Lân, Châu Nhiên Khanh, nhóm tác giả Nguyễn Cừ,
Nguyễn Thị Huế, Trần Thị An… và nhiều các nghiên cứu khác về thành ngữ,
tục ngữ. Nhìn chung, giai đoạn này, tục ngữ, thành ngữ không đơn thuần là sưu
tập, thống kê mà đã được phân tích, nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau… và
luôn là mảnh đất màu mỡ cho các nhà nghiên cứu tiếp tục khám phá.
Gần đây, tác giả Ngô Thị Thanh Quý viết cuốn Tìm trong tục ngữ nét văn
hóa Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là một hướng nghiên cứu mới, tiếp
cận tục ngữ từ góc nhìn văn hóa, mở ra nhiều điều thú vị khi nghiên cứu về tục
ngữ Việt. Mỗi câu tục ngữ mở ra nhiều tầng nghĩa văn hóa Việt khác nhau.
2.2. Việc sưu tầm, nghiên cứu tục ngữ, thành ngữ dân tộc Tày
Thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày được người dân sáng tạo và sử dụng từ
ngàn xưa. Tuy nhiên, do trình độ dân trí chưa phát triển và số người biết chữ
Nôm Tày rất ít nên giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX trở về trước chưa tìm thấy
công trình sưu tập và nghiên cứu nào. Nó chỉ tồn tại trong lối nói hàng ngày
của người dân và rải rác trong các làn điệu dân ca như pụt, then, si lượn…
Đến cuối thế kỷ XX, xuất hiện cuốn “Tục ngữ Tày-Nùng” (1972), nhiều
tác giả, đã liệt kê được đáng kể các đơn vị tục ngữ. Đến năm 1984, các tác giả
Hà Văn Thư, Nguyễn Văn Lô viết cuốn “Văn hóa Tày Nùng”, giới thiệu 34 câu
tục ngữ ứng xử của người Tày đối với môi trường tự nhiên và xã hội.
Công trình công phu nhất phải kể đến cuốn Từ điển thành ngữ - tục ngữ
dân tộc Tày (1996) của Triều Ân-Hoàng Quyết, Nxb Dân tộc. Đây là cuốn tư
liệu vô cùng quý giá, sưu tập có chọn lọc, phân loại và giải nghĩa các thành
4
ngữ, tục ngữ tại các tỉnh miền núi phía Bắc, trong đó có rất nhiều các thành
ngữ, tục ngữ được người dân dân tộc Tày tại tỉnh Bắc Kạn sử dụng trong đời
sống hàng ngày. Một số cuốn từ điển đã được phát hành như cuốn Từ điển Tày Nùng - Việt, Nxb Từ điển bách khoa của Hoàng Văn Ma và Lục Văn Pảo (tái bản
năm 2006); Cuốn Từ điển Tày - Việt, Nxb Đại học Thái Nguyên (năm 2011)
Nguyễn Lương Bèn (Chủ biên) - Nông Viết Toại - Lương Kim Dung - Lê
Hương Giang.
Một số Luận văn thạc sĩ có các hướng nghiên cứu liên quan đến thành
ngữ, tục ngữ như: Luận văn của Hà Ngọc Tân “Văn hóa ứng xử của người Tày
qua tục ngữ về quan hệ gia đình, xã hội” (2007), Đại học Sư phạm Thái
Nguyên, Luận văn của Hà Huyền Nga, “Đặc điểm cấu trúc hình thức và ngữ
nghĩa của tục ngữ dân tộc Tày” (2009), Đại học Sư phạm Thái Nguyên… Mặc
dù các luận văn có liên quan nhưng hướng tiếp cận khác nhau. Vì vậy, bản thân
tác giả khẳng định đề tài chưa trùng với các công trình nghiên cứu, các luận
văn thạc sĩ, tiến sĩ đã thực hiện trước đó.
2.3. Việc sưu tập, nghiên cứu tục ngữ, thành ngữ dân tộc Tày tại tỉnh Bắc Kạn
Trong những năm gần đây, việc bảo tồn phát huy các giá trị truyền thống
các dân tộc thiểu số, đặc biệt dân tộc Tày được cả hệ thống chính trị của tỉnh
Bắc Kạn quan tâm. Nhiều chương trình, đề tài, dự án được tỉnh đầu tư để bảo
tồn các giá trị văn hóa của dân tộc. Trong đó có một số công trình liên quan đến
tục ngữ, thành ngữ như: Đề tài khoa học cấp tỉnh“Sưu tầm, nghiên cứu - bảo
tồn và phát huy văn hoá truyền thống các dân tộc huyện Na Rỳ, tỉnh Bắc Kạn”,
Triệu Thiêm Cao và các cộng sự, 1999. Nội dung của đề tài có đề cập đến
nhiều thành ngữ, tục ngữ của người Tày huyện Na Rỳ trong lao động sản xuất,
trong ứng xử, trong quan hệ gia đình.
Dự án khoa học cấp tỉnh “Xây dựng bộ từ điển điện tử song ngữ Tày
Việt”, Hoàng Thị Hỵ cùng các cộng sự, 2015. Dự án đã sưu tập được trên 7000
5
từ vựng, dịch song ngữ, lấy phát âm của dân tộc Tày tại huyện Ba Bể làm
chuẩn, trong phần chú giải đối với các từ vựng có nhiều thành ngữ, tục ngữ liên
quan kèm theo và ở mức độ liệt kê làm rõ thêm từ vựng.
Cuốn “Bản sắc và truyền thống văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Kạn” do
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch biên soạn có một phần viết về tục ngữ, thành
ngữ dân tộc Tày nhưng cơ bản chỉ dừng ở mức độ giới thiệu, chưa phải nghiên
cứu sâu…; Trong khuôn khổ dự án Pác Ngòi, Dương Thuấn - Nguyễn Thị Yên
đã có sưu tập về Then, tục ngữ, thành ngữ của dân tộc Tày nhưng ở mức phục
vụ dự án du lịch Pác Ngòi. Như vậy, qua khảo sát của bản thân, chưa có đề tài
nào tìm hiểu riêng về đặc điểm thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày Bắc Kạn.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Luận văn hướng tới mục đích sau:
Sưu tầm, nghiên cứu để tìm ra đặc điểm của tục ngữ, thành ngữ dân tộc
Tày Bắc Kạn ở phương diện: tri thức, kinh nghiệm của người Tày với tự nhiên
và xã hội thông qua thành ngữ, tục ngữ. Từ đó, có đánh giá thực trạng tục ngữ,
thành ngữ dân tộc Tày tại tỉnh Bắc Kạn trong giai đoạn hiện nay, đề xuất một
số giải pháp về lưu giữ, bảo tồn, phát huy văn học, ngôn ngữ dân tộc Tày nói
chung, thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày tại Bắc Kạn nói riêng.
Nhiệm vụ:
- Hệ thống được một số thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày sử dụng tại
Bắc Kạn.
- Chỉ ra được tri thức, kinh nghiệm của người Tày Bắc Kạn trong ứng xử
với môi trường tự nhiên, xã hội thông qua thành ngữ, tục ngữ.
- Đánh giá sơ bộ về thực trạng sử dụng thành ngữ, tục ngữ hiện nay và đề
ra một số giải pháp bảo tồn, phát huy thành ngữ, tục ngữ.
6
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tìm hiểu đặc điểm thành ngữ, tục ngữ của
người dân tộc Tày tại tỉnh Bắc Kạn, có sự liên hệ với thành ngữ, tục ngữ ở một
số dân tộc khác.
- Phạm vi nghiên cứu: khảo sát khoảng 300-400 thành ngữ, tục ngữ
người dân sử dụng tại tỉnh Bắc Kạn, có liên hệ với một số thành ngữ, tục ngữ
dân tộc Kinh và một số dân tộc thiểu số khác tại tỉnh Bắc Kạn.
3.3. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống được một số thành ngữ, tục ngữ người Tày ở tỉnh Bắc Kạn
sử dụng.
- Làm rõ hơn văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, xã hội của người
Tày thông qua thành ngữ, tục ngữ.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn áp dụng những phương pháp chính như:
- Phương pháp sưu tầm thành ngữ, tục ngữ trong vùng đồng bào dân tộc
Tày tỉnh Bắc Kạn:
Kết quả tổng hợp được khoảng 400 thành ngữ, tục ngữ, trong đó có 298
thành ngữ, tục ngữ liên quan đến vấn đề nghiên cứu và sử dụng các từ điển
thành ngữ, tục ngữ dân tộc Tày và các tài liệu liên quan về dân tộc Tày để giải
nghĩa. Sử dụng trích khoảng 160 thành ngữ, tục ngữ tại luận văn.
- Phương pháp thống kê, phân loại: Thống kê phân loại những thành ngữ,
tục ngữ sưu tầm được theo các tiêu chí như: về thời tiết, về sản xuất nông
nghiệp, động vật, thực vật, về ăn mặc, ở, đi lại, các mối quan hệ trong gia đình,
làng xóm…
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Một số câu thành ngữ, tục ngữ có sự
so sánh với thành ngữ, tục ngữ của người Kinh và người Tày một số địa
phương khác.
7
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phân tích nghĩa thành ngữ, tục ngữ,
tổng hợp theo từng nhóm, từng vấn đề để làm rõ hơn về dân tộc Tày tại tỉnh
Bắc Kạn.
- Phương pháp tiếp cận văn bản văn học từ góc nhìn văn hóa: luận văn
không đi sâu vào cấu trúc, nghệ thuật của thành ngữ, tục ngữ mà thông qua
thành ngữ tục ngữ để tìm hiểu về văn hóa dân tộc Tày và thông qua văn hóa để
tìm hiểu về tục ngữ.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Tri thức, kinh nghiệm ứng xử với môi trường tự nhiên của
người Tày ở Bắc Kạn phản ánh qua kho tàng tục ngữ, thành ngữ.
Chương 3: Tri thức, kinh nghiệm ứng xử với môi trường xã hội của
người Tày ở Bắc Kạn phản ánh qua kho tàng tục ngữ, thành ngữ.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Một số đặc điểm về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Kạn
1.1.1. Về điều kiện tự nhiên
- Về vị trí địa lý:
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi phía Đông Bắc của nước ta, nằm ở trung
tâm nội địa vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam. Nơi đây cũng nằm ở thềm cao giữa
trung tâm căn cứ địa Việt Bắc.
Bắc Kạn có diện tích 4.857,21 km2 . Phía Bắc giáp với các huyện Bảo
Lạc, Nguyên Bình, Thạch An, tỉnh Cao Bằng, Phía Đông giáp các huyện Tràng
Định, Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn; Phía Tây giáp các huyện Na Hang, Chiêm Hóa,
Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang; Phía Nam giáp các huyện Võ Nhai, Phú Lương,
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
Hiện nay, Bắc Kạn có 8 đơn vị hành chính bao gồm Thành phố Bắc Kạn
và 7 huyện. Giao thông, trao đổi hàng hóa từ Bắc Kạn đến các tỉnh lân cận là
khá thuận tiện. Quốc lộ 3 nối từ Hà Nội đến cửa khẩu Tà Lùng (Cao Bằng) hiện
đã được cải tạo, nâng cấp. Đặc biệt, tuyến đường mới Thái Nguyên - Chợ Mới
đã đưa vào sử dụng tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông và thông thương
hàng hóa.
- Về đặc điểm địa hình
Địa hình Bắc Kạn bị chi phối bởi những dãy núi cánh cung lồi về phía
Đông, bao gồm những “nếp lồi” và “nếp lõm” xen kẽ nhau. Bắc Kạn có địa
hình núi cao, cao hơn các tỉnh xung quanh và bị chi phối bởi các mạch núi cánh
cung kéo dài từ Bắc đến Nam ở hai phía Tây và Đông của tỉnh.
Trong đó, cánh cung Ngân Sơn là cánh cung đóng vai trò quan trọng
trong địa hình của tỉnh, đồng thời là ranh giới khí hậu quan trọng. Dãy núi
này có nhiều đỉnh núi cao… Cánh cung sông Gâm kéo dài dọc theo phía Tây
của tỉnh.
9
- Về khí hậu
Bắc Kạn nằm hoàn toàn trong vành đai nhiệt đới khu vực gió mùa Đông
Nam Á. Ở vị trí này, Bắc Kạn có sự phân hóa khí hậu theo mùa rõ rệt thời tiết lạnh
về mùa đông khi gió mùa đông bắc về mạnh, gây sương muối, sương giá, làm ảnh
hưởng đến cuộc sống của người dân nơi đây, cây trồng và gia súc bị chết do rét.
Mùa hạn xuất hiện mưa lớn kéo dài gây lũ lụt, sạt lở đất. Mùa xuân, mùa thu, là
hai mùa ngắn, chuyển tiếp thất thường nên xuất hiện những cơn giông, mưa đá do
gió mùa đông bắc gây nên. Bởi vậy,cuộc sống của người dân nơi đây vẫn còn gặp
nhiều khó khăn.
- Về sông ngòi
Mạng lưới sông ngòi Bắc Kạn tương đối phong phú nhưng đa số là các
nhánh thượng nguồn với đặc điểm chung là ngắn, dốc, thủy chế thất thường.
Bắc Kạn là đầu nguồn của 5 con sông lớn của vùng Đông Bắc là sông Lô, sông
Gâm, sông Kỳ Cùng, sông Bằng, sông Cầu. Sông ngòi có ý nghĩa quan trọng
đối với sản xuất và đời sống của nhân dân địa phương.
Ngoài hệ thống sông ngòi, Bắc Kạn còn nổi tiếng với hồ Ba Bể. Đây là
một trong những hồ kiến tạo đẹp và lớn nhất nước ta, được hình thành từ một
vùng đá vôi bị sụt xuống do nước chảy ngầm đã đục rỗng lòng khối núi. Hồ Ba
Bể đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia (năm 1996); xếp
hạng là di tích danh thắng Quốc gia đặc biệt (năm 2012).
- Về giao thông
Mạng lưới giao thông chủ yếu là đường bộ, không có tuyến đường sắt và
đường hàng không như nhiều tỉnh khác trong cả nước. Nhưng Bắc Kạn lại có
lợi thế là có quốc lộ 3 chạy dọc qua các tỉnh nối liền Bắc Kạn với các địa
phương khác trong khu vực. Ngoài ra còn có quốc lộ 279 là tuyến vành đai
quan trọng của đất nước. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để Bắc Kạn thuận lợi
trong phát triển kinh tế-xã hội.
10
1.1.2. Về điều kiện kinh tế-xã hội
Theo bài viết “Bắc Kạn giàu tiềm năng phát triển kinh tế” được đăng trên
trang website https://backan.gov.vn vào ngày 7/12/2012 chúng tôi thấy rằng,
tình hình kinh tế - xã hội của Bắc Kạn đã có chuyển biến tích cực, lạm phát
thấp, nền kinh tế phát triển ổn định trên tất cả các lĩnh vực, với sự quyết tâm
của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của nhân dân, đồng hành của các
doanh nghiệp, doanh nhân trên địa bàn tỉnh [62].
Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội của Bắc Kạn đã có
chuyển biến tích cực, lạm phát thấp, nền kinh tế phát triển ổn định trên tất cả
các lĩnh vực, với sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của
nhân dân, đồng hành của các doanh nghiệp, doanh nhân trên địa bàn tỉnh. Tổng
sản phẩm (GRDP) giai đoạn năm 2011 - 2015, toàn tỉnh tăng 13,5% năm; nhiều
Cụm công nghiệp đã và đang đầu tư, thiết kế mời gọi đầu tư xây dựng… bên
cạnh đó, các cơ sở sản xuất có quy mô vừa và nhỏ ngày một phát triển, nhất là
trong lĩnh vực chế biến nông-lâm sản, đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm trên địa bàn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách,
giải quyết việc làm, nâng cao đời sống của nhân dân. Khu vực thương mại,
dịch vụ tăng bình quân 18%/năm; Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn
mới, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển kinh tế - xã hội phục vụ cho sản
xuất và đời sống nhân dân, điện, nước, giao thông nông thôn, y tế, văn hóa,
giáo dục ngày một nâng cao; Chính sách xã hội, chính sách người có công, về
lao động việc làm được chú trọng và cải thiện. Để đạt được những thành tựu
trên, các cấp các ngành đã tích cực thực hiện các giải pháp đề ra. Nhờ vậy, tình
hình kinh tế - xã hội trong thời gian qua của tỉnh đạt kết quả tích cực, đúng
hướng. Tuy nhiên, trong thời gian tới do tình hình khó khăn, thách thức chung
của cả nước như kinh tế vĩ mô chưa thực sự vững chắc; ngoài những yếu tố mới
11
tạo đột phá trong tăng trưởng thì tình hình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, trên địa bàn tỉnh còn chậm. Cho nên, nhiệm vụ đặt ra cho kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2015-2020, rất nặng nề với nhiều thuận lợi, khó khăn,
thách thức đan xen nhau [63].
1.2. Giới thiệu sơ lược về dân tộc Tày tại tỉnh Bắc Kạn
Tại tỉnh Bắc Kạn dân tộc Tày chiếm 54% dân số, chiếm số lượng đông nhất
so với các dân tộc Dao, Mông, Sán Chí, người Kinh…. Dòng họ người Tày ở Bắc
Kạn có nhiều nguồn gốc khác nhau. Phần đông là các họ gốc Tày. Bên cạnh đó
còn có thêm các họ gốc từ dân tộc Nùng và Kinh. Người Tày ở Bắc Kạn chiếm số
đông là các họ: Nông, Hà, Ma, Hoàng. Ít có dòng họ nào cư trú riêng biệt tại một
vùng, Họ sống gắn bó, đoàn kết với nhau, hầu như không có sự xung đột về dòng
họ, ngay trong một bản cũng thường có ít nhất 2 - 3 họ cùng cư trú.
Theo bài viết Các dân tộc tỉnh Bắc Kạn đăng tại trang
http://bandantoc.backan.gov.vn thì người Tày tỉnh Bắc Kạn trong một họ
thường được cố kết theo nhánh, chi. Không có tục làm giỗ tổ, thờ mộ tổ, cũng
không có những quy định về thành viên cùng họ như người Thái. Mồ mả tổ tiên
đã phân về nhánh nào, chi nào thì nhánh đó, chi đó thờ cúng và gìn giữ. Ngày
kỵ từng người đã mất chỉ còn liên quan đến gia đình giữ mả.Thông thường
trong một chi, một nhánh chỉ cố kết đến đời thứ 3. Mỗi dịp gia đình có việc hệ
trọng thì đều tìm đến anh em từ đời thứ ba đổ lại. Từ đời thứ 4 trở đi sẽ phai
nhạt dần. Tuy nhiên, các gia đình vừa là anh em, vừa là hàng xóm thì sự cố kết
sẽ bền lâu, mặc dù huyết thống đã trải qua nhiều thế hệ và họ vẫn xưng hô như
anh em gần. Giống với người Kinh, tổ chức dòng họ của người Tày cũng theo
thứ bậc, còn người Nùng thì ai sinh trước thì là anh chị, ai sinh sau là em [66].
Hiện nay, cuộc sống của người Tày tại Bắc Kạn đã có những thay đổi
trong đời sống kinh tế, và họ vẫn giữ được những nét phong tục độc đáo, tín
ngưỡng tôn giáo của Tày.
12
1.2.1. Đời sống kinh tế
Cũng giống như người Tày ở các tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái
Nguyên… người Tày ở Bắc Kạn sống chủ yếu bằng nghề nông. Nền nông
nghiệp Tày đã phát triển tương đối cao. Ngoài lúa nước là cây lương thực
chính, đồng bào còn trồng thêm ngô, khoai, sắn và các loại cây thực phẩm khác
và thuốc lá trên những nương định canh. Đặc biệt, những năm gần đây cây ăn
quả phát triển mạnh như cam quýt, hồng không hạt…là nguồn thu nhập quan
trọng của đồng bào Tày.
Người Tày ở Bắc Kạn vẫn sống theo lối tự cung tự cấp. Họ trồng bông
dệt vải và nuôi tằm để đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống hằng ngày của từng gia
đình. Ngoài ra, họ cũng biết cách giao thương, buôn bán các sản phẩm, dụng cụ
mà tự tay họ làm ra bán tại các chợ của địa phương. Họ thường trao đổi hàng
hóa vào các dịp chợ phiên và ngày nay chợ phiên vẫn tồn tại ở tất cả các huyện
của tỉnh Bắc Kạn, trừ thành phố Bắc Kạn.
Ngoài ra, đồng bào còn chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, heo, gà,
dê trở thành nguồn thu nhập phụ có giá trị kinh tế cao...Hiện nay, trên địa bàn
tỉnh có rất nhiều huyện phát triển thành mô hình trang trại với quy mô rộng như
huyện Ngân Sơn, huyện Chợ Đồn, huyện Bạch Thông
Các nghề thủ công gia đình như đan lát đồ dùng gia đình bằng mây, tre,
lá; rèn công cụ, đã đáp ứng nhu cầu của nhân dân địa phương... Đồng bào Tày
thường sống quần tụ thành từng bản. Một bản thường chia thành theo thung
lũng nhỏ hoặc ven một con suối, con sông. Mỗi bản có từ hai mươi đến một
trăm nóc nhà. Tên làng bản cũng rất đặc biệt, có khi là Nà Kéo, Nà Tha, Nà
Rầy… Họ dùng từ “Nà” (Ruộng) đặt luôn cho bản của mình. Họ thường gọi
bản bên một cách thương mến là Bản nưa, Bản tẩư. Nhiều bản hợp lại thành
một mường tương đương với một xã.
Bản của người Tày được xây dựng ở những chân núi hoặc những nơi đất
đai bằng phẳng ven sông, suối, trên các cánh đồng.. Tính cộng đồng của bản
13
- Xem thêm -