Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đặc điểm tiểu thuyết đi tìm nhân vật của tạ duy anh....

Tài liệu đặc điểm tiểu thuyết đi tìm nhân vật của tạ duy anh.

.PDF
89
97
85

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BỘ MÔN NGỮ VĂN LÂM KIM THA MSSV: 6116150 ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT ĐI TÌM NHÂN VẬT CỦA TẠ DUY ANH Luận văn tốt nghiệp đại học Ngành Ngữ Văn Cán bộ hướng dẫn: NGUYỄN THỊ KIỀU OANH Cần Thơ, 2014 ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề 3. Mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Tiểu thuyết 1.1.1 Khái niệm chung về tiểu thuyết 1.1.2 Đặc điểm của tiểu thuyết 1.2 Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 1.2.1 Những tiền đề ảnh hưởng đến sự hình thành và vận động của tiểu thuyết Việt Nam Sau 1975 1.2.2 Những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 1.2.2.1 Tiểu thuyết tập trung phản ánh hiện thực 1.2.2.2 Sự thức tỉnh của ý thức cá nhân và đề cao số phận con người 1.2.2.3 Tiểu thuyết sau 1975 đa dạng về nhân vật, cốt truyện và ngôn ngữ thể hiện 1.3 Đôi nét về Tạ Duy Anh 1.3.1 Cuộc đời 1.3.2 Sự nghiệp sáng tác 1.3.3 Tóm tắt tác phẩm CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG TIỂU THUYẾT ĐI TÌM NHÂN VẬT 2.1 Cuộc sống và xã hội hiện đại qua tiểu thuyết Đi tìm nhân vật 2.1.1 Hiện thực về một xã hội xô bồ, hỗn tạp 2.1.2 Sự vô tâm hờ hững của cộng đồng người trong xã hội 2.2 Con người cá nhân trong đời sống hiện đại qua tiểu thuyết Đi tìm nhân vật 2.2.1 Con người trong sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác 2.2.2 Con người với những khát khao về tình yêu và tự do 2.2.3 Con người với những dục vọng ái tình 2.3 Hành trình tìm kiếm con người bản thể CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT ĐI TÌM NHÂN VẬT 3.1 Kết cấu tác phẩm 3.1.1 Kết cấu phân mảnh 3.1.2 Kết cấu theo dòng ý thức 3.1.3 Kết cấu mở 3.2 Giọng điệu trần thuật 3.2.1 Giọng điệu trào phúng, giễu nhại 3.2.2 Giọng điệu phê phán 3.2.3 Giọng điệu triết lí 3.3 Ngôn từ nghệ thuật 3.3.1 Sử dụng ngôn ngữ đời thường có phần thông tục 3.3.2 Sử dụng ngôn ngữ đối thoại như một trò chơi với những khoảng trống 3.3.3 Ngôn ngữ độc thoại 3.4. Thời gian và không gian nghệ thuật 3.4.1 Thời gian nghệ thuật 3.4.2 Không gian nghệ thuật PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1 Lý do chọn đề tài Từ sau 1975, đất nước trải qua một giai đoạn mới với nhiều biến động trên nhiều lĩnh vực khác nhau: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Chính những điều đó đòi hỏi văn học cũng phải có sự vận động và phát triển để bắt kịp nhu cầu thưởng thức của con người trong thời đại mới. Để có thể mang đến những tác phẩm phù hợp với xu thế của thời đại, các nhà văn đã không ngừng tìm tòi, đổi mới phong cách sáng tác, khai thác những đề tài và chủ đề cho phù hợp với con người trong cuộc sống đương đại. Với sự nỗ lực đó, các nhà văn Việt Nam hiện đại đã và đang tạo nên những đột phá với nhiều cách viết, lối viết mới mẻ nhằm bao quát được những vấn đề diễn ra trong đời sống. Vì vậy, văn học thời kì này đã có những chuyển biến mạnh mẽ và không ngừng khẳng định được vị thế của mình trong nền văn học mới. Và đã có không ít nhà văn đạt được thành tựu trên con đường đổi mới văn học: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Lựu, Dương Hướng, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo… Họ cùng nhiều nhà văn khác đã mang đến cho văn học Việt Nam thời kì này một diện mạo mới. Trong số các nhà văn vừa nêu trên phải kể đến nhà văn Tạ Duy Anh, ông đã có những đóng góp đáng kể trong trào lưu đổi mới văn học. Ông được xem là một hiện tượng nổi bật, một cây bút có được nhiều sự chú ý của độc giả cũng như giới nghiên cứu phê bình văn học thời kì hiện đại. Là một nhà văn luôn có sự tìm tòi, sáng tạo, Tạ Duy Anh đã khá thành công trong hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Trong đó, ông thành công ở thể loại tiểu thuyết hơn cả. Mỗi tiểu thuyết là một sự nỗ lực, cách tân táo bạo, mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Đối với Tạ Duy Anh, tiểu thuyết là nơi để ông thể hiện tài năng cũng như cá tính sáng tạo của mình trong hành trình tìm đến một hình thức nghệ thuật mới cho văn học. Và tiểu thuyết Đi tìm nhân vật là một minh chứng xác thực. Những vấn đề về cuộc sống xã hội, về nhân sinh, nhân bản cũng như số phận của con người trong cuộc sống và xã hội hiện đại đều được Tạ Duy Anh phản ánh một cách chân thực, sâu sắc và nhiều chiều. Đồng thời, tác phẩm còn thể hiện sự kì vọng, khát khao của nhà văn về việc hướng con người đến những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Có thể nói rằng, Đi tìm nhân vật là một tác phẩm tạo nhiều bất ngờ thậm chí gây “sốc” cho độc giả và giới phê bình văn học bởi lối viết mới mẻ, táo bạo, đôi khi có 1 phần khiêu khích hơn so với những tác phẩm truyền thống. Chính vì thế, từ khi ra đời, để được đón nhận, Đi tìm nhân vật đã phải trải qua khá nhiều khó khăn, thăng trầm. Tuy nhiên, đây là một tác phẩm hay, nhiều vấn đề trong xã hội đều được nhà văn đề cập đến, nhưng với lối viết mới mẻ, nhiều tầng ý nghĩa khiến cho tác phẩm trở nên khó đọc, khó tiếp cận, nếu không đi sâu tìm hiểu thì khó có thể hiểu được nội hàm ẩn sâu bên trong. Chính vì thế, chúng tôi chọn đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Đi tìm nhân vật để có thể thấy được những suy tư, trăn trở của nhà văn về con người và cuộc đời cũng như phong cách sáng tác của Tạ Duy Anh trong thời kì đổi mới văn học. 2 Lịch sử vấn đề Tạ Duy Anh là một nhà văn mới của văn học đương đại được sự quan tâm, chú ý của nhiều độc giả và giới phê bình văn học. Bởi tác phẩm của ông luôn ẩn chứa những giá trị nội dung và nghệ thuật tạo nhiều sự quan tâm và gây xôn xao dư luận. Vì thế, tác phẩm của ông tạo nên nhiều làn sóng tranh cãi khác nhau. Nhưng dù nhận được sự đồng tình hay bài bác đi nữa thì khi đi sâu vào tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy rằng tiểu thuyết của Tạ Duy Anh luôn đặt ra nhiều vấn đề nghiêm túc trong cuộc sống, chứa đựng sự tìm tòi, sáng tạo dồi dào và đầy tâm huyết của một cây bút trẻ đương đại. Cho đến nay, đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Đi tìm nhân vật, mỗi nhà nghiên cứu đưa ra nhận định, đánh giá riêng về tác phẩm trên nhiều phương diện khác nhau. Song nhìn chung, các bài viết đã thể hiện được nội dung chính cũng như ý đồ nghệ thuật mà nhà văn đã gởi gắm vào trong tác phẩm Đi tìm nhân vật. Dưới đây, chúng tôi xin đưa ra một số bài viết, công trình nghiên cứu tiêu biểu về tiểu thuyết Đi tìm nhân vật trên cả phương diện nội dung lẫn hình thức nghệ thuật của tác phẩm: Trước tiên, về mặt nội dung của tác phẩm, tác giả Uyên Thao trong bài viết Chân dung cuộc sống Việt Nam qua tác phẩm Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh đã cho rằng, trong tác phẩm Đi tìm nhân vật, Tạ Duy Anh đã hướng con người đến với những giá trị trân quý trong cuộc sống và điều đặc biệt hơn cả là nhà văn muốn con người thoát khỏi những nỗi cô đơn, hoài nghi trong cuộc sống để trở về với những niềm vui, hạnh phúc và tự do trong tâm hồn mình. Chính vì thế, Đi tìm nhân vật không chỉ mang đến những trang viết thấm đẫm chất hiện thực mà còn là một hành trình dài trong quá trình tìm đến hướng phục sinh cho cuộc sống con người. Nhưng vấn đề cốt lõi mà nhà văn muốn đặt ra vẫn là niềm vui được tự do trong cuộc sống này và trong chính tâm hồn mình, vì chỉ có tự do mới mang con người đến với bến đỗ của bình yên và tìm được 2 hạnh phúc thật sự: “Quá trình đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, cuối cùng, đã hiện hình là quá trình đi tìm hướng phục sinh cho cuộc sống. Và người đọc có thể bắt gặp cái ánh sáng mà Tạ Duy Anh muốn thắp lên: Ánh sáng Tự Do – thứ ánh sáng lung linh kì ảo chưa từng có đã soi tỏ cho thấy mọi thang bảng giá trị đều lộn ngược, theo đó kẻ đi cuối thì nay lên đầu” [33]. Khác với Uyên Thao, Đoàn Ánh Dương trong bài giới thiệu về tác phẩm Đi tìm nhân vật thì nhận định rằng, dù viết về vấn đề gì đi chăng nữa thì Đi tìm nhân vật vẫn đặt ra một vấn đề nhức nhói về sự tha hóa của con người, con người đang ngày càng bị biến dạng và đang đứng trước nguy cơ nhòe căn cước. Vì thế, tác phẩm như một tiếng chuông ngân vang cảnh tỉnh, khuyên răn con người, muốn con người tìm về với cuộc sống thực: “Đặt ra vấn đề về sự tha hóa của con người bằng việc đưa ra một xác thực về sự vong bản, về sự hòa tan cá tính trong một xã hội bầy đàn hóa, rô – bốt hóa bằng những lập trình có sẵn, Đi tìm nhân vật rung lên tiếng chuông cảnh báo về sự phi lý của cuộc sống khi cơ sở tồn tại của nó là con người cá nhân, cá tính bị đồng hóa” [24]. Và ngay cả báo Thể thao và Pháp luật số 47 – 2004 cũng có nói: “Mối quan tâm lớn nhất của Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất mình của con người dưới sự giằng co, xiêu dạt của lịch sử. Trên con đường truy tìm lại mặt mình, cũng như khả dĩ gương mặt thật của quá khứ, con người vấp phải và bị phong tỏa bởi thói gian trá, đớn hèn, vật dục, tàn ác, kể cả trong mỗi cá nhân. Phúc âm duy nhất là tình yêu, tình cảm trong sạch của bản thể và cái nhìn trung thực, nhân đạo đối với những vết thương, lỗi lầm của quá khứ” [34, tr. 17]. Qua đó chúng ta có thể thấy, Đi tìm nhân vật thực sự là một tiểu thuyết mang đến cho người đọc nhiều góc cạnh khác nhau của cuộc sống. Và tập trung nhất vẫn là tình trạng vong thân, vong bản và sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức của những con người cá nhân, cá thể trong tác phẩm. Dù vậy, vẫn thể hiện được cái nhìn nhân đạo của nhà văn về con người và cuộc sống trong tác phẩm, tuy đầy rẫy tai ương, hiểm họa nhưng vẫn chan chứa yêu thương. Về mặt nghệ thuật cũng đã có không ít công trình nghiên cứu đánh giá cao sự đóng góp của Tạ Duy Anh trong việc làm mới nghệ thuật tác phẩm. Trong đó phải kể đến bài viết Tạ Duy Anh – người đi tìm nhân vật của Thụy Khuê. Trong bài viết này, Thụy Khuê đánh giá cao những nỗ lực cách tân, tìm tòi, sáng tạo của Tạ Duy Anh trong việc tìm đến một hình thức nghệ thuật mới trong tiểu thuyết: “Tạ Duy Anh đã biến chuyển nhiều để tạo ra một thủ pháp hiện thực mới, mà kí ức, hồi ức không còn 3 thụ động, bất động trong mỗi lần trở về. Trong Đi tìm nhân vật, mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết đều đưa đến những nghi vấn… Những nghi vấn đầu tiên này đã là một bước ngoặc cho nhiều tiểu thuyết: đi từ xác định đến hoài nghi, đẩy người đọc vào tình trạng: không thể có một sự đọc mà có nhiều sự đọc”[30]. Và đến Tình thế những người trẻ hôm nay, một lần nữa Thụy Khuê khẳng định: “Đi tìm nhân vật, Tạ Duy Anh viết theo cấu trúc mở, đưa người đọc vào những mê lộ đầy bí ẩn, không lối thoát, tác phẩm bao trùm những khía cạnh tối tăm của những con người mặt nạ, sống trong một xã hội mật vụ luôn luôn bị theo dõi hoặc chính mình theo dõi người khác” [29]. Với Thụy Khuê, Đi tìm nhân vật là một cuốn tiểu thuyết có sự phá cách về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật thì với Dương Thuấn, Đi tìm nhân vật là một cuốn tiểu thuyết hay, nó làm cho người đọc say sưa bởi lối viết mới lạ: “Đã lâu rồi tôi mới lại đọc một cuốn tiểu thuyết thú vị như thế! Thật chẳng khác nào một người đang đi giữa cánh đồng còi cọc nắng hạn lâu ngày bỗng gặp được một dòng suối trong ngần ầm ào chảy, tha hồ múc uống và tắm mát thỏa thuê” [36]. Và chính lối viết mới lạ đó đã tạo cho câu chuyện “thoát khỏi hoàn toàn lối viết truyền thống quen thuộc là hiện thực bị che phủ bởi nhiều lớp mùng màn, miêu tả dầm dề, chậm chạp, ngôn ngữ sạch bóng trơn tru… Anh đã chọn phương pháp tiếp cận hiện thực đa diện, đa chiều và gần nhất. Mọi khía cạnh đặt ra đối với cuộc sống hiện lên trên trang viết đều rất chân thực, người đọc như thấy được cụ thể của những chuyện xảy ra” [36]. Trong Đi tìm nhân vật – một tuyệt phẩm của Tạ Duy Anh bị bỏ quên, Trần Phong Vũ cũng đã khẳng định, Tạ Duy Anh thật sự là một ngòi bút tự tin và đầy bản lĩnh, không những thế ta còn có thể bắt gặp Tạ Duy Anh mang nhiều phong cách sáng tạo của nhiều nhà văn khác nhau: “Với Đi tìm nhân vật, Tạ Duy Anh cũng tự chứng tỏ sự vững vàng của một ngòi bút tự tin và đầy bản lĩnh. Trong từng khoảnh khắc, người đọc có thể bắt gặp ở Tạ Duy Anh một nét mỉa mai, cay độc của Vũ Trọng Phụng, một sự ví von, bay bướm của Hoàng Hải Thủy, một cảnh ngộ u uất nào đó từng có với Bùi Ngọc Tuấn, với Dương Thu Hương hay những nhà văn Trung Hoa đang nổi tiếng như cồn” [38]. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Thụy Khuê cho rằng: “Đi tìm nhân vật thực sự là một tiểu thuyết gồm nhiều tiểu thuyết trong một tiểu thuyết, nhiều tác giả trong một tác giả, nhiều nhân vật trong một nhân vật” [30]. Ngoài các công trình nghiên cứu kể trên, trong các trường đại học còn có một số luận văn Thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp về các tác phẩm Tạ Duy Anh như: Võ Thị Thanh Hà (2006), Nhân vật tiểu thuyết Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐH Vinh; 4 Nguyễn Thị Kim Lan (2006), Nghệ thuật kết cấu trong một số tiểu thuyết huyền ảo, triết luận của Tạ Duy Anh, Châu Diên, Hồ Anh Thái, luận văn Thạc sĩ, ĐH sư phạm, Hà Nội; Nguyễn Tiến Hùng (2008), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐH sư phạm, Hà Nội; Lê Thị Huế (2011), Đặc điểm câu văn trong tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐH Vinh, Nghệ An; Nguyễn Thị Tuệ Như (2014), Thi pháp tiểu thuyết Tạ Duy Anh, luận văn Thạc sĩ, ĐH Vinh… Nhìn chung, các bài viết và công trình nghiên cứu trên đều ghi nhận những nỗ lực, cách tân trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh trên phương diện nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Và ngay cả tác giả của cuốn tiểu thuyết Đi tìm nhân vật cũng đã bộc bạch tâm trạng của mình là luôn hồi hộp, mong ngóng, chờ đợi “đứa con” của mình sau bốn năm thai nghén vật vã: “Tôi đã có hơn 50 lần hồi hợp chờ ra sách (cả in lần đầu và tái bản) nhưng chưa lần nào mà tâm trạng rạo rực, bồn chồn như khi chào đón Đi tìm nhân vật. Đã sáu năm trôi qua kể từ khi Đi tìm nhân vật có diễm phúc xuất hiện lần đầu, tôi vẫn giữ nguyên cái tâm trạng đó khi chào đón đứa con tinh thần đa cảm, đa đoan tái sinh trở lại. Niềm an ủi lớn và rõ ràng nhất với tôi là trong sáu năm qua, nhiều người vẫn đi tìm nó và Đi tìm nhân vật là cuốn sách tồn tại dưới nhiều dạng văn bản nhất của tôi. Điều đó cho phép tôi vui mừng thông báo, đây là văn bản mà tôi ưng ý hơn cả cho tới thời điểm này” [1, tr. 5]. Từ những công trình nghiên cứu trên, ta có thể thấy đã có nhiều nhà nghiên cứu và giới phê bình chú ý đến tiểu thuyết Đi tìm nhân vật. Nhưng nhìn chung, những bài nghiên cứu trên chỉ được phân tích ở một vài khía cạnh nhỏ và mang tính khái quát chung chung. Vì vậy, nhiều vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ. Chính điều đó đã thôi thúc chúng tôi chọn đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh để đi sâu tìm hiểu nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm, để từ đó thấy được những giá trị ẩn sâu bên trong tác phẩm mà nhà văn muốn gửi gắm đến người đọc. 3 Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, chúng tôi muốn làm nổi bật lên những giá trị nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó, thấy rõ những đóng góp của nhà văn Tạ Duy Anh trong nền văn học đương đại nói riêng và những cách tân trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới nói chung. Đồng thời, qua đó có thể nắm được những khuynh hướng sáng tác của các nhà văn trong buổi đầu đổi mới văn học. 5 4 Phạm vi nghiên cứu Trong đề tài này, chúng tôi tập trung nghiên cứu tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh để làm nổi bật nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Bên cạnh đó, chúng tôi còn tìm hiểu, nghiên cứu một số tác phẩm khác của Tạ Duy Anh và một số tác phẩm của các nhà văn cùng thời trên cơ sở so sánh, phân tích, đối chiếu để làm sáng tỏ đề tài nghiên cứu. 5 Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp hệ thống: để có thể khái quát đặc điểm tiểu thuyết Đi tìm nhân vật, chúng tôi khảo sát tác phẩm trên một số phương diện nội dung và nghệ thuật: kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ, không gian, thời gian… để từ đó rút ra những nhận định, đánh giá về tác phẩm một cách toàn diện nhất. Phương pháp phân tích: ở đề tài này, chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích để làm nổi bật những vấn đề cơ bản và ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm vào trong tác phẩm. Phương pháp so sánh: so sánh, đối chiếu để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt giữa tiểu thuyết Đi tìm nhân vật với một số tiểu thuyết khác để phát hiện và khẳng định những nét riêng của tiểu thuyết Đi tìm nhân vật một cách khách quan nhất. Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng một số thao tác bình giảng, đánh giá, chứng minh, để làm sáng tỏ đề tài Đặc điểm tiểu thuyết Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh. 6 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Tiểu thuyết 1.1.1 Khái niệm chung về tiểu thuyết Tiểu thuyết là một thuật ngữ văn học, một tên gọi chung được dùng để phân biệt với các thể loại khác. Từ khi hình thành cho đến nay, tiểu thuyết đã trải qua quá trình phát triển lâu dài ở cả phương Đông lẫn phương Tây. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn khá nhiều ý kiến khác nhau xung quanh thuật ngữ này. Vì thế, việc đi tìm một khái niệm hoàn chỉnh cho tiểu thuyết là một điều không dễ dàng. Nhưng qua quá trình nghiên cứu, các nhà nghiên cứu lý luận, phê bình văn học ở Việt Nam đã cố gắng đúc kết và đưa ra một số giới thuyết về tiểu thuyết như sau: Trước tiên, theo tác giả Từ điển thuật ngữ Văn học thì: “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, nhiều bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [6, tr. 328]. Còn theo Từ điển Văn học (bộ mới) thì: “Tiểu thuyết là thuật ngữ chỉ thể loại tác phẩm tự sự, trong đó trần thuật tập trung vào số phận một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cơ cấu” của nhân cách” [8, tr. 1716]. Trong Lí luận văn học, do Hà Minh Đức (chủ biên) thì cho rằng tiểu thuyết là: “hình thức tự sự cỡ lớn, tiểu thuyết có những khả năng riêng trong việc tái hiện với một quy mô lớn những bức tranh hiện thực đời sống, trong đó chứa đựng nhiều vấn đề sâu sắc của đời sống xã hội, của số phận con người, của lịch sử, của đạo đức, của phong tục…. Nghĩa là tiểu thuyết có năng lực phản ánh hiện thực một cách bao quát và sinh động theo hướng tiếp cận trên cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó” [4, tr. 184]. Theo Giáo trình Lí luận văn học do Trần Đình Sử (chủ biên) thì: “tiểu thuyết là thể loại tự sự có cội nguồn trong thể loại lịch sử, nhưng mang nội dung phi quan phương, ngoài lục kinh, kể về số phận của con người. Sang thời cận đại, tiểu thuyết là thể loại tự sự có quy mô lớn, đối lập với thể loại sử thi ở cách tiếp cận đời thường một cách gần gũi, không có khoảng cách. Tiểu thuyết là thể loại tự sự phong phú nhất: Nhân vật có thể nhiều nhất, cốt truyện phức tạp nhất, ngôn từ đa dạng nhất đáp ứng nhu cầu ý thức cuộc sống con người trong tất cả mọi chiều kích” [12, tr. 202]. 7 Trong quyển 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân cũng đã đưa ra một số giới thuyết về tiểu thuyết như sau: “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự, trong đó trần thuật tập trung vào số phận một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ truyền đạt “cơ cấu” của nhân cách” [2, tr. 325, 326]. Qua các công trình nghiên cứu kể trên, chúng tôi nhận thấy: “tiểu thuyết thật sự là một tác phẩm tự sự cỡ lớn, có những khả năng riêng trong việc tái hiện một quy mô lớn với những bức tranh hiện thực đời sống, trong đó tiểu thuyết chứa đựng nhiều vấn đề sâu sắc của đời sống xã hội, số phận con người, cũng như phong tục, lịch sử, đạo đức… Nghĩa là tiểu thuyết có năng lực phản ánh hiện thực một cách sâu sắc, bao quát và sinh động theo hướng tiếp cận trên cả bề rộng lẫn chiều sâu của nó” [4, tr.184]. Vì lẽ đó, để chọn một khái niệm chung nhất để phân biệt tiểu thuyết với các thể loại văn học khác, chúng tôi lựa chọn cách lí giải của các tác giả Từ điển thuật ngữ Văn học, đó là: “Tiểu thuyết là một tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, nhiều bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng” [6, tr 328]. 1.1.2 Đặc điểm của tiểu thuyết Trong quá trình phát triển và thay đổi diện mạo văn học, tiểu thuyết là một thể loại luôn có sự vận động và đổi mới không ngừng. Vì vậy, qua từng thời kì và giai đoạn phát triển khác nhau, đặc điểm tiểu thuyết sẽ được soi chiếu trong nhiều góc độ và phương diện khác nhau. Tuy nhiên, qua các công trình nghiên cứu trong các tài liệu: Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng Chủ biên); Giáo trình Lý luận văn học (tập 2) do Trần Đình Sử (Chủ biên), chúng tôi nhận thấy hầu hết các nhà nghiên cứu đều xác định tiểu thuyết trong một số đặc điểm cơ bản như sau: Thứ nhất, so với các thể loại tự sự như ngụ ngôn, anh hùng ca (sử thi), thì đặc điểm tiêu biểu nhất của tiểu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư. Đặc trưng này thoạt đầu được hình thành ngay trong tiểu thuyết cổ đại. Càng về sau đời tư càng trở thành tiêu điểm để miêu tả cuộc sống một cách tiểu thuyết. Tùy theo từng thời kì phát triển, cái nhìn đời tư có thể sâu sắc tới mức thể hiện được, hoặc kết hợp được với các chủ đề thế sự hoặc lịch sử dân tộc. Nhưng yếu tố đời tư càng phát triển thì tính 8 chất tiểu thyết càng tăng, ngược lại, yếu tố lịch sử dân tộc càng phát triển thì chất sử thi càng đậm đà. Thứ hai, khác với truyện thơ, trường ca, thơ trường thiên và anh hùng ca là chất văn xuôi, tức là một sự tái hiện cuộc sống, không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa. Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng thời, đang sinh thành, tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi ngổn ngang bề bộn của cuộc đời bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Thứ ba, cái làm cho nhân vật tiểu thuyết khác với các nhân vật sử thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện trung cổ là ở chỗ: nhân vật tiểu thuyết là “con người nếm trải”, tư duy, chịu khổ đau, dằn vặt của cuộc đời trong khi các nhân vật kia thường là nhân vật hành động. Tiểu thuyết miêu tả nhân vật như con người đang biến đổi trong hoàn cảnh, con người đang trưởng thành do cuộc đời dạy bảo. Thứ tư, thành phần chính yếu của tiểu thuyết không phải chỉ là cốt truyện và tính cách nhân vật như ở truyện vừa và truyện ngắn trung cổ. Ngoài hệ thống các sự kiện, biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu tả suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người và người, về đồ vật, môi trường, nội thất… Thứ năm, tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách về giá trị giữa người trần thuật và nội dung trần thuật của anh hùng ca, để miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời của người trần thuật. Chính đặc điểm này làm cho tiểu thuyết trở thành một thể loại dân chủ, cho phép người trần thuật có thái độ thân mật, thậm chí suồng sã đối với nhân vật của mình. Cuối cùng, với các đặc điểm đã nêu, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác. Tiểu thuyết thế kỉ XIX – XX đã cung cấp nhiều mẫu mực về sự tổng hợp đó. Chính hiện tượng tổng hợp trên đã làm cho thể loại tiểu thuyết cũng đang vận động, không đứng yên. Vì vậy mà Backtin cho rằng tiểu thuyết là “thể loại duy nhất đang hình thành và chưa xong xuôi” [6, tr. 331]. Xét trên phương diện nghệ thuật, so với các thể loại văn học khác, nhân vật tiểu thuyết được miêu tả nhiều mặt, tinh tế, chi tiết như con người sống. Từ tính cách, cá tính đến số phận, từ hành động đến tâm lí, từ các loại quan hệ đến ngôn ngữ đều được 9 các nhà tiểu thuyết quan tâm khám phá. Các thuộc tính của nhân vật được miêu tả trong quá trình, trong tổng hòa mọi bình diện, từ ý thức đến vô thức, từ tư tưởng đến bản năng, từ mặt xã hội đến mặt sinh vật… Sự miêu tả nhân vật ở đây đạt được tính lập thể, toàn vẹn. Vì thế, nhân vật tiểu thuyết là một chủ thể sống động. Tiểu thuyết là một tác phẩm có dung lượng lớn, không chỉ viết về một người, mà còn viết về cả gia tộc, cả thế hệ, thậm chí nhiều thế hệ. Số lượng trong tiểu thuyết không chỉ có vài người mà còn có thể lên đến vài trăm người và phản ánh đầy đủ mọi sự việc như: Chiến tranh và hòa bình của L. Tolstoi hay Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần. Cách tiếp cận nhân vật tiểu thuyết vì thế cũng hết sức đa dạng. Có thể là miêu tả nhân vật qua hành động, tâm lý và cũng có thể miêu tả qua kí ức hay dòng ý thức. Do đó, tiểu thuyết được cho là một thể loại tự sự dân chủ, năng động và giàu khả năng phản ánh đời sống bậc nhất trong các thể loại văn học. Không riêng gì nhân vật, so với các thể loại văn học khác, cốt truyện tiểu thuyết cũng vô cùng phức tạp. Cốt truyện tiểu thuyết có thể đơn tuyến hay đa tuyến, đan bện nhiều quãng thời gian. Cốt truyện có thể giàu kịch tính cũng có thể pha loãng để thể hiện chất triết lý hoặc chất trữ tình. Cách trần thuật tiểu thuyết cũng đa dạng: có thể kể theo ngôi thứ nhất, thứ hai, thứ ba. Có thể sử dụng nhiều loại điểm nhìn để khắc họa nhân vật từ nhiều góc độ. Nói tóm lại, cốt truyện tiểu thuyết hiện đại khá tự do, linh hoạt trong việc chọn điểm mở đầu, điểm kết thúc. Hoàn cảnh trong tiểu thuyết được khắc họa, phân tích rất chi tiết. Đó có thể là hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh tự nhiên, hoàn cảnh chiến tranh, môi trường, phong tục, văn hóa, thậm chí là hoàn cảnh tưởng tượng… Chức năng của hoàn cảnh tiểu thuyết rất đa dạng. Ngoài việc cung cấp không gian cho nhân vật hoạt động, hoàn cảnh còn có tác dụng thúc đẩy nhân vật hành động, làm phương tiện bộc lộ tính cách, tâm lí, phân tích xã hội, tạo không khí chung cho tác phẩm. Ngôn ngữ tiểu thuyết là một hiện tượng đa dạng và phong phú. Lời trần thuật mang tính chất đối thoại, đa giọng, đa thanh như lời văn nhại, lời mỉa mai, lời văn nửa trực tiếp. Trong tiểu thuyết, ngôn từ trở thành đối tượng miêu tả của nhà văn. Nhà văn miêu tả ngôn từ của nhân vật như những sản phẩm cá thể hóa cao độ, phù hợp với đặc điểm cá nhân của từng nhân vật, ứng với nhu cầu miêu tả cá tính của nhân vật. Tựu trung lại, tiểu thuyết là một thể loại tự sự năng động, có khả năng phản ánh đời sống cao nhất trong các thể loại văn học. 10 1.2 Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 1.2.1 Những tiền đề ảnh hưởng đến sự hình thành và vận động của tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 Sau 1975, đất nước chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, xã hội bước vào giai đoạn xây dựng và phát triển. Một thời kì mới được mở ra với bao ước mơ, khát vọng cháy bỏng nhưng cũng không kém phần khó khăn thử thách. Điều đó đòi hỏi con người phải có sự thay đổi sao cho phù hợp với xu thế vận động và phát triển của xã hội. Văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng, vì thế cũng phải có sự đổi mới. Bởi lẽ, “không có hình thái tư tưởng nào có thể thay thế được văn học và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc đến việc đổi mới nếp nghĩ và nếp sống của con người” (Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ VI) [3, tr. 15]. Do nhu cầu và sự chi phối của chiến tranh nên văn học giai đoạn 1945 – 1975 mang đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Vì thế, văn học thời kì này chủ yếu viết về những vấn đề lớn lao, những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của cộng đồng, của dân tộc. Chính những điều đó đã mang đến cho văn học thời kì này một cái nhìn rạch ròi, không thể nhòe lẫn giữa thiện – ác, chính – tà, bóng tối – ánh sáng. Nhưng văn học từ sau 1975 đã tồn tại và phát triển trong điều kiện lịch sử - xã hội hoàn toàn khác biệt với thời kì chiến tranh. Cùng với những biến động khác nhau trong đời sống xã hội và những nhu cầu mới của con người trong cuộc sống thời hậu chiến đã khiến cho các thể loại văn học có sự vận động và phát triển. Bởi hiện thực cuộc sống thời bình đòi hỏi một nền văn học hoàn thiện hơn, hướng nội hơn. Vì vậy, văn học phải trở về với vai trò đích thực của nó là phản ánh số phận con người với những ngổn ngang, bề bộn của cuộc sống đời thường. Thời kì đầu những năm 1975 đến những năm 80, văn học Việt Nam đã có những chuyển biến đáng kể nhưng nhìn chung văn học vẫn còn mang màu sắc sử thi. Bởi trong hai mươi năm kháng chiến chống Mĩ, dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao mất mát, hi sinh, bao niềm vui, nỗi buồn và những giây phút hào hùng, kiêu hãnh của dân tộc. Vì vậy khi hòa bình lập lại, những kí ức về chiến tranh vẫn còn tồn tại trong đời sống tinh thần của mỗi người dân là một điều hiển nhiên và tất yếu. Kí ức về những năm tháng chiến tranh là một trong những điều quan trọng không chỉ để nhà văn suy ngẫm về quá khứ theo những sự kiện, những dòng hồi tưởng mà còn là thước đo để các nhà văn có thể nhìn nhận về chiến tranh theo nhiều góc độ và phương diện khác nhau trong cuộc sống đời thường. Vì những lẽ trên, đã không ít những nhà văn 11 dùng sự trải nghiệm của mình trong quá khứ cùng với những suy ngẫm về cuộc sống hiện tại đã cho ra đời không ít tác phẩm đánh dấu một bước chuyển mới trong cách viết và cách nghĩ của con người về cuộc sống trước và sau năm 1975: Nắng đồng bằng của Chu Lai, Năm 75 họ sống như thế nào của Nguyễn Trí Huân, Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Đứng trước biển, Cù lao tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải… Đây là những tác phẩm ngõ hầu minh chứng cho sự chuyển đổi tư duy sáng tạo và quan niệm nghệ thuật của nhà văn, đưa tới sự đổi mới triệt để và quyết liệt hơn trong cách nhìn của nhà văn và con người về hiện thực cuộc sống thời bình. Đến năm 1986, đây là một bước ngoặc quan trọng trong cao trào đổi mới. Nhất là từ sau Đại hội lần thứ VI, Đảng ta khẳng định cần phải có sự đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực trong đó có văn học. Việc đổi mới văn học là một quá trình biện chứng lâu dài, đòi hỏi các nhà văn phải có sự tìm tòi đổi mới, phải đi sâu vào cuộc sống hiện tại của con người. Bên cạnh việc ca ngợi những cái tốt, cái mới nhà văn được phép đi sâu khai thác những cái xấu, những mặt trái của xã hội mà trước đây vì điều kiện lịch sử - xã hội không cho phép nên những tiêu cực trong đời sống bị che lấp đi, nay có điều kiện khai phá thì nhà văn phải có sự chuẩn bị cho mình đầy đủ mọi thứ vốn cần thiết trong quá trình sáng tạo. Có như vậy, văn học mới thật sự trở thành người phát ngôn cho xã hội, và đem lại cho nền văn học những tác gia và tác phẩm lớn, đồng thời đưa văn học dân tộc hòa nhập với đời sống văn học nhân loại để đồng hành cùng thời đại đang tồn tại và sinh thành. Phải nói rằng, Đại hội lần thứ VI là một bước ngoặc lớn trong tiến trình đổi mới văn học nước nhà. Sau Đại hội VI, vai trò, vị trí của văn học nghệ thuật được nhìn nhận và khẳng định lại trong sự chuyển biến mạnh mẽ của cuộc sống hôm nay. Chính vì thế, từ sau năm 1986 văn học Việt Nam đã chuyển từ giai đoạn văn học mang tính sử thi sang giai đoạn văn học mang cảm hứng thế sự đời tư. Với những nỗ lực sáng tạo trong khai thác đề tài và chủ đề cho phù hợp với con người và cuộc sống đương đại, các nhà văn đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo mang đến cho người đọc những tác phẩm mang hơi hướng của thời đại mới. Và tiểu thuyết như một thể loại xung kích, đã thực sự bộc lộ được ưu thế của mình trên con đường dân chủ hóa nội dung, nghệ thuật. “Với xu hướng nhìn thẳng vào sự thật, các nhà tiểu thuyết đã dấn thân vào hiện thực ở thời hiện tại, đang hình thành, chưa ổn định; ở chính “tiêu điểm” của đời sống nhằm hướng tới ý thức “lột trần mặt nhau, lột trần mặt mình, lột trần mặt đời và cao hơn là bốc trần thế giới”” [35]. Vì thế, văn học thời 12 kì này gây được nhiều sự chú ý của người đọc với những tác phẩm: Thời xa vắng (Lê Lựu), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Dấn thân (Xuân Cang), Góc tăm tối cuối cùng (Khuất Quang Thụy), Đám cưới không có giấy giá thú (Ma Văn Kháng), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai),… cùng nhiều tác phẩm khác đã mang đến cho tiểu thuyết thời kì này những thành công rực rỡ trong hành trình “lột xác” của mình. Tuy nhiên, trong suốt một thời gian dài từ năm 1986 đến nay, không phải lúc nào tiểu thuyết Việt Nam cũng có được những thành tựu rực rỡ, chiếm được vị thế cao trên văn đàn mà cũng có không ít những biến động, thăng trầm. Nhưng nhìn chung, với sự nỗ lực tìm tòi của chủ thể sáng tạo, văn học Việt Nam nói chung, tiểu thuyết nói riêng đã có sự vận động và chuyển biến trên nhiều phương thức biểu hiện trong những quan niệm mới về hiện thực và con người. Và từ đó ta cũng có thể thấy, tiểu thuyết là một loại hình tự sự tập trung nhiều nhất sự chú ý cũng như sự quan tâm tìm tòi, đổi mới sáng tạo của các nhà văn trong giai đoạn văn học này nói chung và độc giả nói riêng. Cũng vào thời điểm này, một số tác giả, tác phẩm trào lưu văn học trước đây bị đánh giá là sai lầm, các sáng tác mang đậm màu sắc cá nhân không phù hợp với khuynh hướng sử thi, cái tôi riêng tách ra khỏi cái tôi chung của văn học trong thời kì kháng chiến thì nay được nhìn nhận lại một cách toàn diện và khách quan hơn. Chính vì thế đã góp phần động viên và tạo thêm sức mạnh cho các nhà văn thỏa sức khai phá, tìm tòi, sáng tạo trong việc đổi mới văn học. Sự tìm tòi đổi mới không chỉ ở các nhà văn đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong lòng người đọc như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu, Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy… mà còn nhiều tác giả khác xuất hiện trong thời kì này: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Chu Lai,… Họ là những người đã mang đến cho văn học một quan niệm nghệ thuật mới, tư duy mới và tái hiện hiện thực cuộc sống bằng nhãn quan của chính mình. Vì thế, những tác phẩm mà họ tạo ra mang cái nhìn trực diện, phơi bày những mặt tốt, mặt xấu của con người trong đời sống hiện đại. Chính những điều đó đã mang đến cho tiểu thuyết thời kì này một sinh khí mới, với những thành tựu đáng được ghi nhận và trân trọng. 13 1.2.2 Những đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết Việt Nam từ sau 1975 1.2.2.1 Tiểu thuyết tập trung phản ánh hiện thực Đầu những năm 80, cuộc sống thời bình trở lại, con người phải đối mặt với biết bao khó khăn, thử thách, phải đối mặt với những vấn đề thực tiễn của đời sống xã hội. Vì vậy, văn học vẫn tiếp tục vai trò của nó đó là khám phá thực tại và ý thức về hiện thực. Hiện thực ở đây không chỉ là hiện thực về cách mạng, các biến cố lịch sử mà còn là hiện thực tâm hồn của mỗi cá nhân con người trong đời sống hằng ngày với những vấn đề riêng tư, với những khát vọng của mọi mặt, cùng với các quan hệ phức tạp, chằng chịt, đa diện, đa chiều của đời sống. Hiện thực đời sống trong tính toàn vẹn của nó đã mở ra những không gian vô tận cho văn học thỏa sức khai vỡ. Như nhà văn Nguyễn Khải đã viết: “tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là một mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ” [5, tr. 568]. Trên cơ sở đó, văn học trở thành một trong những phương tiện quan trọng để nhà văn bày tỏ cách nhìn, cách nghĩ của mình trước thực tại đời sống xã hội. Có thể nói, tiểu thuyết trong cao trào đổi mới viết về mọi đề tài nhưng cái mà nhà văn đi sâu khám phá vẫn là cái nhìn về hiện thực. Với xu hướng “bóc trần sự thật” các nhà tiểu thuyết thời kì hiện đại đã đi sâu khai thác vào thực tại đời sống đang sinh thành và phát triển. Những điều đó đã tạo nên một cái nhìn đa chiều về hiện thực. Theo đó, số phận cá nhân, những quan hệ phức tạp của con người, của hiện thực đời sống xã hội được nhà văn đặc biệt quan tâm chú ý đến. Để làm được như vậy, nhà văn phải nỗ lực vượt qua lối phản ánh hiện thực thông thường, vươn tới lối“viết sao cho chạm được các tầng sâu, vào tận đáy sâu những sự thật về quê hương đất nước, dân tộc mình để tác phẩm tiếp giáp lá cà đời sống, xông vào những chốn gai góc, thâm u của cuộc đời” [11, tr. 20]. Với những nỗ lực sáng tạo cho văn học thời kì đổi mới, các tác giả văn học thời kì này đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm thể hiện cái nhìn mới của nhà văn về hiện thực: Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Thời gian của người (Nguyễn Khải), Không phải trò đùa (Khuất Quang Thụy)… Trong đó, Thời xa vắng của Lê Lựu là một trong những tác phẩm được đông đảo độc giả đón nhận một cách nồng nhiệt. Bởi những vấn đề mà nhà văn nêu ra không chỉ mang một cái nhìn bao quát, mới mẻ về hiện thực đời sống chiến đấu mà còn xoáy sâu vào nỗi đau, bi kịch đầy cay đắng trong cuộc đời con người. Và điều làm 14 nên thành công cho tác phẩm là ở chỗ, nhà văn không ca ngợi chiến tích, cái hào sảng của người anh hùng mà nhà văn đi sâu nhìn nhận lại hiện thực cũng như nhận thức lại bi kịch, nỗi đau riêng tư của con người trong cuộc sống. Bên cạnh đó, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh cũng là một tác phẩm có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ về hiện thực chiến tranh và đời sống chiến đấu. Nếu trước đây, khi viết về chiến tranh, các nhà văn chủ yếu ca ngợi những chiến công hiển hách của dân tộc và sự kì diệu của con người thì Bảo Ninh đã nhìn nhận chiến tranh từ một góc độ khác, nghĩa là chiến tranh không chỉ có hào hùng, kiêu hãnh mà còn đầy rẫy chết chóc và tang thương. Phải nói rằng, hiện thực đời sống không chỉ thu gọn trong những biến cố lịch sử, đời sống cộng đồng mà tiểu thuyết còn chú tâm vào cái thường nhật, nhiều khi vặt vãnh, với bao quan hệ phức tạp, chồng chéo đang tìm ẩn trong cuộc sống quanh ta. Chính vì thế, việc tập trung phản ánh hiện thực trong tiểu thuyết cho phép nhà văn “khơi những điều chưa ai khơi”, tức đi sâu khai thác những góc khuất, những khía cạnh của đời sống thực tại một cách đa diện và đa chiều nhất. Nhưng để làm được điều đó không phải là một điều dễ dàng, nó đòi hỏi người nghệ sĩ phải có cái nhìn bao quát và phải có sự “tự cảm thấy” về những gì đang diễn ra trong đời sống thực tại. Có như vậy, văn học mới thật sự trở thành phát ngôn cho xã hội. 1.2.2.2 Sự thức tỉnh của ý thức cá nhân và đề cao số phận con người Xã hội Việt Nam từ sau năm 1975, bước vào một thời đại mới, giai đoạn mới, con người trở về với những tất bật của cuộc sống đời thường với biết bao ước mơ, khát vọng cháy bỏng về một cuộc sống mới đang mở ra trước mắt họ, nhưng đồng thời, họ cũng phải đối mặt với biết bao gian truân, thử thách mới trong cuộc sống đời thường. Chính những điều đó đã thúc đẩy sự trỗi dậy mạnh mẽ của ý thức cá nhân trong từng con người. Giờ đây, con người không chỉ là con người của cộng đồng, của lịch sử, của xã hội mà còn được hòa hợp trong mối quan hệ giữa con người cá nhân với con người của cộng đồng, cái tôi cá nhân được đề cao và nhìn nhận. Do vậy, vấn đề đời sống tinh thần và tâm lí của con người được thể hiện ở nhiều bình diện và khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Trong bối cảnh đó số phận con người là cái mà nhà văn phải quan tâm và đi sâu khai thác, là người cầm bút đòi hỏi nhà văn phải nghiền ngẫm và quan tâm sâu sắc hơn về mọi mặt của đời sống con người, từ những niềm vui, tình yêu cuộc sống đến những nỗi đau mà con người đã trải qua để từ đó cảm thông và sẻ chia với họ bằng cả trái tim của người nghệ sĩ. Đặc biệt, phải giúp con người có một cái nhìn đa diện, đa chiều hơn về hiện thực cuộc sống để rồi họ tự ý thức về những giá trị cũng 15 như thân phận của mình một cách toàn diện nhất. Cũng như nhà văn Nguyễn Minh Châu trong một lần trả lời phỏng vấn báo Văn nghệ đầu năm 1986, ông đã khẳng định: “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm của nó là con người. Người viết nào cũng có tính xấu nhưng tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của một người nghệ sĩ vừa là niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khoắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh mình. Cần giữ cái tình yêu lớn ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ vượt qua khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống” [9, tr. 54]. Ở mọi thời đại lịch sử, con người luôn là trung tâm văn học nhưng tùy vào từng thời kì mà con người được nhìn nhận và đánh giá ở từng góc độ khác nhau. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, hội nhập và giao lưu với các nước trong khu vực thì việc đổi mới quan niệm về con người và sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã làm đổi mới tư duy của nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Chính điều đó đã làm cho văn học thời kì này càng trở nên đa dạng và phong phú hơn về đề tài, chủ đề sáng tác bởi nó không chỉ đi sâu về thân phận của con người mà còn viết về hiện thực đời sống con người với những khát khao về quyền được sống, về tình yêu, về hạnh phúc lứa đôi trong mỗi con người cá nhân. Những điều vừa nêu trên được thể hiện trong hàng loạt tác phẩm của Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Chu Lai, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Bình Phương, Dương Hướng… Trong giai đoạn đổi mới, vấn đề con người cá nhân, cá thể được đặt ra một cách bức xúc và mạnh mẽ trong cảm hứng sáng tạo của nhà văn. Đằng sau mỗi cá thể là những vấn đề mang ý nghĩa nhân sinh của thời đại với trăm ngàn mảnh đời khác nhau “đầy những vết dập xóa trong tâm hồn” [5, tr. 582]. Vì thế, trong thời kì này đã xuất hiện không ít tác phẩm viết về con người luôn sống trong sự giằng xé nội tâm, họ khao khát được tự do, được sống vì tình yêu của mình nhưng lại bị gia đình và xã hội níu lại. Giang Minh Sài trong tác phẩm Thời xa vắng của Lê Lựu là một con người như thế. Cùng một lúc Sài phải sống trong cả hai cuộc đời thật và giả, Sài luôn khao khát có được một cuộc sống và một tình yêu cho riêng mình nhưng vì là một con người bị động nên Sài luôn tuân theo những ràng buộc, những quy tắc của gia đình, của đơn vị, chưa bao giờ Sài dám sống cho bản thân mình, nói lên tiếng lòng của mình để rồi Sài trở thành nạn nhân của chính mình, của xã hội vì không được thừa nhận bản thân con người. Từ đó, Lê Lựu đã đặt ra một vấn đề mang tính thời sự: con người phải biết tự 16 nhận thức và sống cho bản thân mình, thời kì sống cho người khác giờ đã qua đi. Phải biết sống và ước mơ, vươn lên theo những gì mình khao khát, phải nhận thức được những sai lầm của mình và phải biết đấu tranh phá vỡ những ràng buộc vô lí, góp phần làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn. Và đó cũng chính là sự thức tỉnh của ý thức cá nhân trong mỗi con người. Hay nhân vật Vạn trong Bến không chồng của Dương Hướng. Trở về sau những năm tháng chiến tranh, Vạn sống một cuộc đời hết sức trung thực, sẵn sàng hi sinh tất cả vì lợi ích chung nhưng lại nhúc nhát, luôn do dự, không dám đấu tranh vì tình yêu, hạnh phúc cá nhân của riêng mình, để rồi cuộc đời ông rơi vào bi kịch và phải chọn cho mình một cái chết đầy bi thương. Bên cạnh Thời xa vắng của Lê Lựu, Bến không chồng của Dương Hướng còn có hàng loạt tác phẩm: Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Lão khổ (Tạ Duy Anh), Cơ hội của chúa (Nguyễn Việt Hà), Một ngày và một đời (Lê Văn Thảo)… Các nhân vật trong tác phẩm, họ là những mẫu người đứng trước sự chọn lựa, thử thách, bị chi phối bởi biết bao thế lực giữa bóng tối và ánh sáng, giữa thấp hèn và cao cả của cuộc đời. Tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi mới không chỉ đi sâu vào thân phận con người mà còn đi sâu khai thác, khám phá con người tự nhiên. Việc các nhà tiểu thuyết thời kì đổi mới quan tâm đến con người tự nhiên như một sự quan tâm đến con người trong tính toàn vẹn của nó. Con người dù sống trong bất kì một thời đại, một giai đoạn nào đi chăng nữa vẫn luôn hướng về một khát vọng sống mãnh liệt, một tình yêu tươi đẹp, một hạnh phúc viên mãn. Vì thế, khi khai thác con người tự nhiên, các nhà tiểu thuyết đã không ngần ngại miêu tả chất sắc dục, tình yêu nhục thể như một nhu cầu rất riêng tư, rất “người” trong mỗi cá nhân. Bởi nó là một nhu cầu tất yếu trong cuộc sống của con người. Cho nên, việc đưa con người tự nhiên vào trong văn học không chỉ góp phần làm cho con người hiện lên đầy đặn và sống động hơn mà còn khám phá con người tự nhiên trong nhiều góc độ khác nhau. Vì thế, ở thời điểm này, các nhà văn đã cho ra đời không ít các tác phẩm miêu tả con người tự nhiên trong tinh thần nhân bản của văn học: Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), Người đi vắng (Nguyễn Bình Phương), Bến không chồng (Dương Hướng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)… Ngoài ra, con người tâm linh cũng là một trong những phương diện mà các nhà tiểu thuyết quan tâm, chú ý đến. Khai thác con người tâm linh tức là đi sâu khám phá thế giới tâm linh trong cõi vô thức, tiềm thức, giấc mơ để từ đó thấy được thế giới nội tâm cũng như những tầng sâu, vỉa quặng trong tâm hồn mỗi con người. Điều đó đòi 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan