Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đặc điểm tiểu thuyết ma trường nguyên...

Tài liệu đặc điểm tiểu thuyết ma trường nguyên

.PDF
108
139
64

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM VŨ NGỌC KIM ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT MA TRƢỜNG NGUYÊN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đào Thủy Nguyên Thái Nguyên, năm 2013 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Vũ Ngọc Kim i Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Đào Thủy Nguyên, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Xin chân thành cảm ơn nhà văn Ma Trường Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành luận văn này. Xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu trường Trung học phổ thông Lộc Bình, đồng nghiệp, bạn bè, gia đình và những người thân đã động viên, quan tâm, chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành tốt khoá học. Thái Nguyên, tháng 4 năm 2013 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Vũ Ngọc Kim ii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang Lời cam đoan .......................................................................................................... i Lời cảm ơn .............................................................................................................. ii Mục lục .................................................................................................................... iii Phần mở đầu .......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................................... 7 5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 7 6. Bố cục của luận văn ............................................................................................ 7 Phần nội dung ........................................................................................................ 8 Chương 1: Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại và tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên.. .................................................................................................................... 8 1.1. Khái quát về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại ........................ 8 1.1.1. Sự phát triển lực lượng sáng tác văn xuôi dân tộc thiểu số .......................... 8 1.1.2. Sự phát triển trên các phương diện đề tài, chủ đề của văn xuôi các dân tộc thiểu số ..11 1.1.3. Đặc điểm cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ văn xuôi dân tộc thiểu số ..................... 15 1.1.3.1. Đặc điểm cốt truyện ................................................................................................. 15 1.1.3.2. Đặc điểm nhân vật ................................................................................................... 17 1.1.3.3. Đặc điểm ngôn ngữ .................................................................................... 20 1.2. Nhà văn Ma Trường Nguyên - cuộc đời, con người và sự nghiệp sáng tác .... 22 1.2.1. Vài nét về cuộc đời và con người nhà văn Ma Trường Nguyên ................... 22 1.2.2. Tiểu thuyết trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Ma Trường Nguyên ....... 23 Chương 2: Những cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên ... 28 2.1. Một số khái niệm liên quan ............................................................................... 28 2.1.1. Khái niệm tiểu thuyết .................................................................................... 28 2.1.2. Khái niệm cảm hứng chủ đạo ........................................................................ 29 iii Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.2. Cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên ......................... 30 2.2.1. Cảm hứng về hiện thực cuộc sống và văn hóa miền núi ............................... 30 2.2.1.1. Cuộc sống cũ nghèo khổ, nhiều đau thương .............................................. 30 2.2.1.2. Cuộc đấu tranh xây dựng cuộc sống mới, xóa bỏ lối sống lạc hậu ............ 32 2.2.1.3. Văn hóa miền núi với những phong tục, tập quán, lễ hội mang đậm bản sắc dân tộc ..................................................................................................................... 36 2.2.2. Cảm hứng nhân đạo hướng về con người miền núi ....................................... 43 2.2.2.1. Cảm thương với những số phận bi kịch của con người miền núi .............. 43 2.2.2.2. Ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người miền núi ...................... 48 2.2.2.3. Phê phán những cái xấu, cái ác trong đời sống .......................................... 53 2.2.2.4. Trân trọng những khát vọng tự do trong tình yêu của con người miền núi ....56 2.2.3. Cảm hứng trữ tình về thiên nhiên miền núi .................................................. 59 Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên ... 64 3.1. Cốt truyện và các yếu tố ngoài cốt truyện ………………………………………... .. 64 3.1.1. Cốt truyện ...................................................................................................... 64 3.1.2. Yếu tố ngoài cốt truyện ................................................................................ 70 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật ......................................................................... 74 3.2.1. Khái niệm nhân vật văn học .......................................................................... 74 3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên ... 75 3.2.2.1. Khắc họa nhân vật qua ngoại hình ............................................................. 76 3.2.2.2. Khắc họa nhân vật qua đời sống nội tâm ................................................... 79 3.2.2.3. Khắc họa nhân vật qua các tình huống thử thách ...................................... 83 3.3. Nghệ thuật ngôn từ ........................................................................................... 87 3.3.1. Sử dụng hệ thống từ ngữ gắn với cuộc sống của đồng bào dân tộc miền núi ....88 3.3.2. Câu văn ngắn gọn, giản dị, thể hiện lối tư duy của người miền núi .............. 91 3.3.3. Thủ pháp so sánh ví von giàu hình ảnh ......................................................... 93 Kết luận .................................................................................................................. 98 Thƣ mục tài liệu tham khảo .................................................................................. 101 iv Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học dân tộc thiểu số là một bộ phận quan trọng của nền văn học Việt Nam. Cùng với văn học dân tộc Kinh, “văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam đã góp phần xứng đáng vào công cuộc cách mạng, cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ và xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành một bộ phận không thể thiếu của nền văn học Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[32]. Trải qua hơn nửa thế kỉ hình thành và phát triển, văn học dân tộc thiểu số Việt Nam đã thực sự trở thành một bộ phận khăng khít, độc đáo, đặc sắc và có đóng góp lớn, tạo nên diện mạo chung của nền văn học dân tộc. Nhiều tác phẩm văn học dân tộc thiểu số đã giành được những giải thưởng cao, được dư luận xã hội quan tâm và đón nhận. 1.2. Ma Trường Nguyên là một nhà văn người dân tộc thiểu số. Miệt mài “trên cánh đồng chữ nghĩa”, viết như “con tằm trả nghĩa dâu tươi” cho dân tộc, quê hương đất nước, tính đến nay ông đã cho ra đời 20 đầu sách (8 tiểu thuyết, 6 tập thơ, 1 trường ca, 1 truyện thiếu nhi, 1 tự truyện, 1 tập ký, 2 tập tiểu luận và phê bình). Sáng tác của nhà văn dân tộc Tày Ma Trường Nguyên mang đậm hơi thở cuộc sống và con người miền núi với những yếu tố nghệ thuật mang đậm bản sắc dân tộc. Có lẽ đó cũng chính là lý do khiến ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học. Trong lĩnh vực tiểu thuyết, Ma Trường Nguyên đã gặt hái khá nhiều thành công. Ông được nhận giải thưởng của Ủy ban toàn quốc các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam với tiểu thuyết Rễ người dài, giải B Giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm (1992-1997) của tỉnh Thái Nguyên cho tiểu thuyết Mũi tên ám khói, giải B Giải thưởng Văn học nghệ thuật 5 năm (1997-2002) của tỉnh Thái Nguyên cho tiểu thuyết Mùa hoa hải đường. Những thành tựu đó phần nào cho thấy chiều sâu và bề dày sáng tạo của nhà văn ở lĩnh vực tiểu thuyết. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về thể loại tiểu thuyết trong sự nghiệp sáng tác của Ma Trường Nguyên. Vì thế nghiên cứu về đặc điểm tiểu thuyết Ma Trường Nguyên là một việc làm cần thiết. 1 1.3. Thể hiện sự quan tâm đối với văn hóa, văn học dân tộc thiểu số, ngày 20/10/2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra Chỉ thị số 194/CT-BVHTTDL về việc tổ chức triển khai thực hiện đề án “ Bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”. Nội dung Chỉ thị nêu rõ một công việc cần thực hiện trong giai đoạn 2016 - 2020 là: “Giới thiệu quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật và các di sản văn hóa tiêu biểu của các dân tộc thiểu số”. Với lòng yêu mến văn học dân tộc thiểu số, với mong muốn được giới thiệu, quảng bá về các tác phẩm văn học và các nhà văn dân tộc thiểu số mà Ma Trường Nguyên là một đại diện khá tiêu biểu, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Đặc điểm tiểu thuyết Ma Trường Nguyên”. 2. Lịch sử vấn đề Văn học dân tộc thiểu số là một bộ phận không thể thiếu của nền văn học dân tộc, song cho đến nay các nhà nghiên cứu, phê bình vẫn chưa quan tâm đúng mức tới bộ phận văn học này. Người ta dễ dàng nhận ra rằng mảng nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số vẫn còn thiếu cả bề rộng và bề sâu, hiện còn nhiều khoảng trống. Trong tình hình chung ấy, tiểu thuyết của nhà văn Ma Trường Nguyên chưa thực sự được nhiều người quan tâm cũng là điều dễ hiểu. Đến nay vẫn chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về tiểu thuyết của ông. Có thể kể đến một số bài viết, công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên được đăng trên sách báo, kỉ yếu hội thảo văn học, luận văn tốt nghiệp đại học, đề tài nghiên cứu khoa học của các tác giả Lâm Tiến, Trần Thị Nương, Bùi Như Lan, Trần Văn Tác, Vũ Đình Toàn, Trần Thị Hạnh, Nguyễn Thị Lan... Trong các tài liệu nghiên cứu ấy, các tác giả đã có những nghiên cứu, đánh giá khái quát về tiểu thuyết Ma Trường Nguyên trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Về phương diện nội dung: Cảm hứng về con người, thiên nhiên, cuộc sống văn hóa miền núi và tình yêu lứa đôi trong nội dung tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên đã được một số tác giả đề cập đến. Về vấn đề thân phận và phẩm chất của con người miền núi trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên, tác giả Trần Thị Nương viết: “Ta gặp trong các tác 2 phẩm của ông các thế hệ, những thân phận con người miền núi vừa chân thật, cần mẫn, vừa đằm thắm sâu nặng nghĩa tình” và “họ không bằng lòng với nghèo nàn, lạc hậu, ham học hỏi, quyết đoán vượt lên trên hoàn cảnh và số phận để gieo những hạt giống ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp” [27]. Tác giả Lâm Tiến đã nhận ra trong sáng tác của nhà văn Ma Trường Nguyên có nguồn cảm hứng “về những cuộc đời, những số phận con người với niềm khát khao mãnh liệt về tình yêu và hạnh phúc. Trong đó nổi bật là tình yêu đôi lứa” [34, tr.3]. Và, theo nhà nghiên cứu, những con người trong tiểu thuyết Ma Trường Nguyên“không những đẹp trong tình yêu mà ngay cả con người họ cũng rất đẹp, nhất là đối với nhân vật nữ, không những đẹp về mặt hình thức mà còn có sức sống mạnh mẽ về mặt nội tâm” [34, tr.4]. Thiên nhiên và cuộc sống văn hóa miền núi cũng được tác giả Lâm Tiến đề cập đến trong bài tham luận Ma Trường Nguyên - nhà văn, nhà thơ tình xứ mây. Trong tiểu thuyết Ma Trường Nguyên, những bức tranh thiên nhiên miền núi “ hiện ra đẹp đẽ, thấm đậm tình người” [34, tr.4]. Và đặc biệt là “những buổi lễ hội, lễ cưới, lễ kết tồng, lễ hội nàng trăng, hội giã cốm, những buổi hát lượn, những ngày chợ phiên ... đều diễn ra rất đẹp, rất thơ mộng” [34, tr.4], “những phong tục, tập quán, những lễ hội, lễ cưới, những câu chuyện cổ tích, huyền thoại... hòa quyện trong các trang viết làm tăng thêm sức sống, làm phong phú, sâu sắc thêm tâm hồn, tính cách con người miền núi” [34, tr.5]. Theo tác giả Lâm Tiến, những trang văn về con người, thiên nhiên, văn hóa miền núi trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên có khởi nguồn từ “một tình yêu sâu đậm với con người, cuộc sống, thiên nhiên miền núi” [34, tr.3]. Tác giả Vũ Đình Toàn cũng khẳng định nội dung tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên “không ngoài hai cảm hứng chính: tình yêu lứa đôi và vẻ đẹp của văn hóa các dân tộc miền núi - chủ yếu qua văn hóa Tày - dân tộc xuất thân của anh. Hai nguồn cảm hứng này luôn có mặt, đan xen, hòa quyện nhau trong từng cuốn truyện, tựa vào nhau mà thăng hoa, phát sáng” [37, tr.37]. Cảm hứng nhân văn cũng là một khía cạnh trong nội dung tiểu thuyết Ma Trường Nguyên được các nhà nghiên cứu quan tâm. Tác giả Trần Văn Tác khẳng 3 định: “Tiểu thuyết Gió hoang và Bến đời đã thành công trong việc khám phá thế giới tâm hồn con người miền núi phong phú bằng niềm cảm thông sâu sắc. Nhà văn đi vào đời tư, số phận của từng nhân vật. Nhà văn nâng niu từ hạnh phúc nhỏ nhoi, nhà văn đớn đau trước sự rạn nứt hay tan vỡ của tình yêu, nhà văn phẫn uất trước sự tráo trở hay phản trắc của con người. Ma Trường Nguyên nhìn đời tư bằng cái nhìn nhân hậu có tính nhân văn sâu sắc” [30, tr.36]. Trong luận văn tốt nghiệp đại học Hình tượng nhân vật phụ nữ trong một số tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên tác giả Trần Thị Hạnh cũng khẳng định: “Qua việc xây dựng hình tượng người phụ nữ, tác giả thể hiện tình thương, sự cảm thông sâu sắc với số phận của những người phụ nữ và dường như còn có chút gì đó là sự nể phục, trân trọng đối với những phẩm chất cao quý của họ: đảm đang, tháo vát, giàu lòng vị tha, đức hi sinh... Họ tuy nghèo nhưng không hèn, luôn giữ được lòng tự trọng và có ý thức bảo vệ nhân phẩm, càng khó khăn càng cố gắng vươn lên bằng ý chí và nghị lực, không chịu khuất phục trước sóng gió cuộc đời” [5, tr.64]. Như vậy, về phương diện nội dung của tiểu thuyết Ma Trường Nguyên, một số người nghiên cứu đã chú ý tới cảm hứng về cuộc sống, thiên nhiên, con người miền núi và cảm hứng nhân văn. Tuy nhiên, vấn đề cảm hứng trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên mới chỉ được đề cập ở mức độ khái quát chứ chưa được nghiên cứu, phân tích ở mức độ chuyên sâu. Chính vì thế, trong luận văn này, chúng tôi sẽ nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện hơn về những cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên. Về phương diện nghệ thuật: Cốt truyện và các yếu tố ngoài cốt truyện là một vấn đề được một số tác giả đề cập đến. Tác giả Lâm Tiến có nhận xét về nghệ thuật tiểu thuyết Ma Trường Nguyên, dù chỉ mới ở nhận xét hết sức khái quát: “Cấu trúc trong tiểu thuyết thường có sự đan xen giữa các nhân vật, các sự kiện, giữa không gian và thời gian làm cho câu chuyện khỏi đơn điệu. Những phong tục, tập quán, những lễ hội, lễ cưới, những câu chuyện cổ tích, huyền thoại,... hòa quyện trong các trang viết làm tăng thêm sức sống, làm phong phú, sâu sắc thêm tâm hồn, tính cách con người 4 miền núi” [34, tr.5]. Trong đề tài nghiên cứu khoa học Đặc điểm tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên qua tiểu thuyết Rễ người dài, tác giả Nguyễn Thị Lan đã khai thác và phân tích khá kĩ nghệ thuật xây dựng cốt truyện và các yếu tố ngoài cốt truyện trong tiểu thuyết Rễ người dài của nhà văn Ma Trường Nguyên. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này mới chỉ dừng ở việc khảo sát một trong tám cuốn tiểu thuyết của nhà văn Ma Trường Nguyên. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên được các tác giả Bùi Như Lan, Trần Thị Hạnh, Nguyễn Thị Lan quan tâm. Tác giả Bùi Như Lan đã nhấn mạnh sự thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Ma Trường Nguyên. Đó là“thủ pháp nghệ thuật đồng hiện, bút pháp hiện thực, với vài nét chấm phá ...” [9, tr.21], là sự “khéo léo miêu tả môi trường thiên nhiên, kết hợp nhuần nhuyễn với hoàn cảnh cộng hưởng trong thế giới nội tâm của nhân vật”, là “lối viết chân phương, giản dị nhưng sâu sắc trong cách nhìn nhận, thể hiện và khám phá đời sống nội tâm nhân vật” [9, tr.22]. Trong luận văn tốt nghiệp đại học tác giả Trần Thị Hạnh khai thác nghệ thuật xây dựng nhân vật người phụ nữ trong ba cuốn tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên là Gió hoang, Bến đời và Mùa hoa hải đường. Đề tài nghiên cứu khoa học của tác giả Nguyễn Thị Lan nghiên cứu nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Rễ người dài. Như vậy, có thể thấy: nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên cũng chưa được các tác giả nghiên cứu, khảo sát trên diện rộng trong toàn bộ hệ thống tiểu thuyết của nhà văn mà chỉ mới dừng ở việc tìm hiểu một vài cuốn tiểu thuyết. Nghệ thuật ngôn từ trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên được các tác giả Vũ Đình Toàn và Nguyễn Thị Lan phát hiện và khai thác. Theo tác giả Vũ Đình Toàn thì: “Nhà văn đã bộc lộ trực tiếp những phẩm chất tinh thần, những quan niệm về thiên nhiên, xã hội của người miền núi qua ngôn ngữ nhân vật” và “Nhà văn đã khai thác vẻ đẹp ngôn ngữ và kiểu tư duy độc đáo của người miền núi qua thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân ca” [37, tr.42]. Tác giả Nguyễn Thị Lan đã khai thác ngôn từ nghệ thuật trong tiểu thuyết Rễ người dài theo hệ thống từ ngữ gắn với cuộc sống và con người miền núi, ngôn từ giàu hình ảnh, giàu chất thơ. Tác giả khẳng 5 định: “Ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên mang đậm dấu ấn Tày. Ma Trường Nguyên chủ yếu sử dụng thứ ngôn ngữ tiếng Việt khá nhuần nhụy, uyển chuyển mà không làm mất đi cách cảm, cách nghĩ, điệu hồn của người miền núi. Đồng thời ngôn ngữ của Ma Trường Nguyên giản dị, trong sáng, giàu hình ảnh so sánh, đậm chất thơ...” [10, tr.86]. Như vậy, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy: Các công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Ma Trường Nguyên ít nhiều đã đề cập đến những đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của nhà văn này. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về đặc điểm tiểu thuyết Ma Trường Nguyên trên cơ sở khảo sát toàn bộ các sáng tác của ông. Do vậy việc nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu và toàn diện về Đặc điểm tiểu thuyết Ma Trường Nguyên là một việc làm cần thiết. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đặc điểm tiểu thuyết Ma Trường Nguyên trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. - Phạm vi tài liệu nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu toàn bộ các tác phẩm thuộc thể loại tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên. Mũi tên ám khói (1991) Gió hoang (1992) Tình xứ mây (1993) Trăng yêu (1993) Bến đời (1995) Rễ người dài (1996) Mùa hoa hải đường (1998) Phượng hoàng núi (2012) Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng đọc thêm tiểu thuyết của một số tác giả khác như: Vi Hồng, Cao Duy Sơn, Triều Ân... để so sánh đối chiếu. 6 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn chỉ ra và làm rõ những đặc điểm của tiểu thuyết Ma Trường Nguyên trên hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó góp phần khẳng định nét riêng trong phong cách và vị trí của nhà văn đối với văn học các dân tộc thiểu số nói riêng, với văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp thống kê, phân loại Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại Phương pháp khái quát, tổng hợp Phương pháp so sánh, đối chiếu 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm ba chương: Chương 1: Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam và tiểu thuyết Ma Trường Nguyên. Chương 2: Những cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật trong tiểu thuyết của Ma Trường Nguyên. 7 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 VĂN XUÔI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ TIỂU THUYẾT CỦA MA TRƢỜNG NGUYÊN 1.1. Khái quát về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam là một nền văn xuôi còn rất trẻ. Bắt đầu hình thành từ những năm 50 của thế kỉ XX, trải qua hơn 60 năm vận động và phát triển, văn xuôi các dân tộc thiểu số đã có được một đội ngũ người viết khá đông đảo, đạt được một số thành tựu nhất định, góp phần làm giàu cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Với tâm huyết và sự tìm tòi không mệt mỏi của các cây bút, văn xuôi dân tộc thiểu số đã có những đổi mới căn bản trên các phương diện đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ,… theo hướng đa dạng, chuyên nghiệp, từng bước bắt kịp với đời sống văn học chung của cả dân tộc. Không chỉ là làn gió mới được phả ra từ những cây bút trẻ mà ngay cả những cây bút gạo cội ở mảng văn học này cũng không ngừng cách tân, làm mới chính mình. Chúng tôi lựa chọn góc độ bao quát sự phát triển của mảng văn học này từ những tiêu điểm cơ bản sau đây: sự phát triển và đặc điểm của lực lượng sáng tác qua các giai đoạn; những đặc điểm lớn trên phương diện đề tài, chủ đề; những đặc điểm về nghệ thuật xây dựng cốt truyện, xây dựng nhân vật, ngôn ngữ. 1.1.1. Sự phát triển lực lượng sáng tác văn xuôi dân tộc thiểu số Về lực lượng sáng tác, có thể nhận thấy số lượng tác giả văn xuôi dân tộc thiểu số đã phát triển và ngày càng đông đảo. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, sự phát triển của mảng văn học này được khơi nguồn bởi những tác giả người Kinh. Các nhà văn Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Ngọc là những người có công trong việc khai phá mảng đề tài dân tộc thiểu số đầy hứa hẹn này, đồng thời cũng là những người đặt viên gạch đầu tiên cho một giai đoạn văn học mới, giai đoạn có sự đóng góp và vai trò quan trọng của chính các nhà văn người dân tộc thiểu số. Những sáng tác về đề tài miền núi của họ như những dấu ấn đầu tiên, thôi thúc nhu cầu cần phải có một mảng văn học viết về đồng bào các dân tộc thiểu số do chính những người 8 con của các dân tộc ấy sáng tác. Đúng như Tô Hoài thừa nhận: “Cho tới nay tôi viết một số tác phẩm đề tài miền núi. Các anh liệt sĩ (Hoàng Văn Thụ, Vừ A Dính), cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Bắc (Vợ chồng A Phủ, Họ Giàng ở Phiềng Sa). Tôi cho rằng dẫu tôi đã cố gắng, nhưng những tác phẩm ấy chỉ đạt tới đôi nét chấm phá của một bức kí họa thông qua cảm xúc mới mẻ của mình. Tôi không thể có được tâm hồn và những hiểu biết để thể hiện như Đinh Ân (Mường), Vi Hồng (Tày), Mã Thế Vinh (Nùng), Mã A Lềnh (Mông). Văn học các dân tộc thiểu số có thực sự phong phú, lớn mạnh phải do chính các nhà văn dân tộc ấy xây dựng, góp phần vào nền văn học đa dân tộc của chúng ta” [33, tr.19]. Sự khai phá, mở đường của các tác giả người Kinh đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện và ngày càng trưởng thành của hàng loạt các cây bút người dân tộc thiểu số. Bắt đầu là Nông Viết Toại với Boỏng tàng tập éo (1952), tiếp đó là Nông Minh Châu với Ché Mèn được đi họp (1959), Y Điêng với Em chờ bộ đội Awa Hồ (1960), Hoàng Hạc với Ké Nàm (1964), Triều Ân với Tiếng khèn A pá (1968), Vi Thị Kim Bình với Những bông huệ (1968),… Có thể nói, nhờ được đắm mình trong hiện thực lịch sử lớn lao, đầy say mê của dân tộc và cách mạng, lại hợp lưu cùng tinh thần lãng mạn của thời đại, các nhà văn đã sáng tạo nên những tác phẩm văn xuôi độc đáo, đầy chất thơ. Những con người miền núi mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực, giàu tình yêu quê hương, yêu đời, yêu người với một trái tim lãng mạn, hăng say đi từ khổ đau đến ánh sáng là mẫu nhân vật trung tâm trong các tác phẩm văn xuôi giai đoạn này. Nói như các tác giả Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo thì “đây là giai đoạn mà ý thức dân tộc được nâng cao trong từng cây bút dân tộc thiểu số” [38, tr.77]. Kể từ sau năm 1975, khi hòa bình, thống nhất đất nước, và đặc biệt là từ sau 1986, lực lượng sáng tác văn xuôi dân tộc thiểu số đã có bước phát triển mạnh mẽ về cả số lượng và chất lượng. Chính sự lao động miệt mài và tự đổi mới của các cây bút thế hệ thứ nhất và thứ hai, và sự xuất hiện của những cây bút trẻ đầy nhiệt tình và tâm huyết đã góp phần làm nên diện mạo mới cho mảng văn học quan trọng này. Ở các vùng Việt Bắc và Tây Bắc là sự tiếp nối không ngừng của các thế hệ nhà văn. Bắt đầu từ thời kì đổi mới, bên cạnh Triều Ân, Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Mã A 9 Lềnh, Sa Phong Ba... những cây bút đang rất sung sức trong sáng tạo đã có sự xuất hiện thêm nhiều gương mặt văn xuôi mới. Đó là các cây bút người Mường như Hà Trung Nghĩa với Hoàng hôn (tập truyện, 1995) và Lửa trong rừng sa mu (tiểu thuyết, 1996), Bùi Minh Chức với Sự tích một câu nói (tập truyện, 2001) và Hà Lý với Ngọt đắng vị Mường (tập truyện, 2002). Trong lực lượng viết, tác giả người Tày luôn chiếm số đông. Ngoài các nhà văn đã nêu như Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Hà Lâm Kỳ, Bùi Thị Như Lan, Hữu Tiến, còn có Đoàn Lư với Kỉ niệm về một dòng sông (tập truyện, 1997) và Ngựa hoang lột xác (tập truyện, 1998); Hoàng Hữu Sang với Người đánh gấu trên núi Suối Mây (tập truyện, 1997) và Cửa rừng (tiểu thuyết, 2000). Ngoài ra có thể kể đến các cây bút Tày khác như Hoàng Luận, Nguyễn Minh Sơn, Hoàng Tương Lai, Đoàn Ngọc Minh, Vi Thị Thu Đạm, A Sáng... Đóng góp cho văn xuôi còn có các cây bút người Nùng như Hoàng Quảng Uyên với Vọng tiếng non ngàn (kí, 2001), Địch Ngọc Lân với Ngôi đình bản Chang (tiểu thuyết, 1999) và Hoa mí rừng (tiểu thuyết, 2001). Như vậy, cho đến nay Việt Bắc và Tây Bắc vẫn là hai miền đất vàng của văn chương miền núi, nơi ngưng tụ nguồn mạch chính của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Tuy chưa có được những tài năng xuất sắc, những phong cách đích thực, nhưng những cây bút trên đã thực hiện được sứ mệnh nuôi giữ ngọn lửa văn chương của dân tộc mình. Là nhà văn dân tộc Tày, hiện sống ở Hà Nội nhưng Cao Duy Sơn vẫn chung thủy với đề tài miền núi. Với một hành trình từ Người lang thang (1992), Cực lạc (1995), Những chuyện ở lũng Cô Sầu (1996), Hoa mận đỏ (1999), Những đám mây hình người (2002), Đàn trời (2006) đến Ngôi nhà xưa bên suối (tập truyện ngắn đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2008, giải thưởng văn học ASEAN năm 2009), Chòm ba nhà (2009), Cao Duy Sơn đã khắc vào tâm khảm bạn đọc những dư vị sâu lắng về các mối quan hệ của con người với đủ đầy ân oán, thiện ác, từ đó thể hiện những quan niệm nhân sinh, phương cách ứng xử nhân ái và cao thượng. Ở khu vực miền Trung, một số cây bút đại diện cho dân tộc mình cũng xuất hiện. Đó là các cây bút dân tộc Thái ở Nghệ An như La Quán Miên với tập truyện 10 Hai người trở về bản (1996), Kha Thị Thường với tập truyện Lũ núi (2003) và Lang Quốc Khánh với tập kí Những miền thương nhớ (2005). Truyện của La Quán Miên đặt ra vấn đề nhân quả, báo ứng từ sự phá vỡ cân bằng trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, phát hiện cái bí ẩn thuộc về đời sống tâm linh ở miền núi. Tôn trọng cõi tự nhiên linh thiêng, bảo tồn động vật hoang dã, đó là thông điệp mà nhà văn đề xuất. Khu vực miền Trung còn có các cây bút dân tộc Mường ở Thanh Hóa là Hà Thị Cẩm Anh và Bùi Nhị Lê. Qua tập truyện Nước mắt của đá (2005), Hà Thị Cẩm Anh thể hiện sự cảm thông với những con người là nạn nhân của hủ tục, định kiến ở bản mường. Và cũng như La Quán Miên, nữ nhà văn đã cất lời kêu gọi bảo vệ môi trường sinh thái tự nhiên một cách đầy tâm huyết. Ở Tây Nguyên trước kia chỉ có Y Điêng, nay có Hlinh Niê (tức Linh Nga Niê Kđăm, người Êđê) với tập truyện Con rắn màu xanh da trời (1997) và tập kí Trăng Xí Thoại (1999), Kim Nhất (người Bana) với các tập truyện Động rừng (1999), Hồn ma núi (2002) và Niê Thanh Mai (người Êđê) với tập truyện Về bên kia núi (2007). Ở phía Nam, lần đầu tiên có sự xuất hiện tác phẩm văn xuôi của một số dân tộc như truyện kí Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh (1994) của Lý Lan (người Hoa), tiểu thuyết Chân dung cát (2006) của Inrasara (nhà thơ dân tộc Chăm), tập truyện ngắn Chăm Hri (2008) của Trà Vigia (người Chăm). Điểm qua lực lượng sáng tác và những thành tựu của các cây bút văn xuôi dân tộc thiểu số kể từ sau năm 1975, và đặc biệt là sau 1986, chúng ta nhận thấy tuy chưa có những tài năng lớn nhưng cũng có thể nhìn thấy từ đó những tín hiệu rất đáng mừng vì sự tiếp nối giữa các thế hệ người cầm bút, vì sự phân bố trên từng vùng miền, từng dân tộc để đặt niềm tin vào những bước bứt phá mạnh mẽ của mảng văn học này trong những năm đầu của thế kỷ mới này. 1.1.2. Sự phát triển trên các phương diện đề tài, chủ đề của văn xuôi các dân tộc thiểu số Trong hành trình phát triển của mình, văn xuôi các dân tộc thiểu số đã có sự mở rộng đề tài, chủ đề, tuy chưa thực phong phú. Giai đoạn trước năm 1975, khi 11 văn học dân tộc tập trung vào công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội thì văn xuôi dân tộc thiểu số cũng phản ánh cuộc đấu tranh cứu quốc vĩ đại với cảm hứng ngợi ca quê hương, con người miền núi trong chiến đấu, lao động. Tiêu biểu là tác phẩm Ché Mèn được đi họp (1959) của Nông Minh Châu. Truyện ngắn xoay quanh nhân vật Ché Mèn, một cô gái dân tộc thiểu số trẻ trung và sớm nhận thức được con đường tất yếu đưa quê hương cô đến với cuộc sống ấm no. Với nghị lực và tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đấu tranh với những trở lực, với khát vọng mang lại cuộc sống ấm no cho gia đình và quê hương, cô đã mạnh dạn áp dụng những tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất. Vấp phải những cản trở từ những hủ tục đã tồn tại từ ngàn đời nhưng Ché Mèn vẫn không chịu đầu hàng. Cô cùng với những thanh niên tiến bộ như Thoại, Nhạn vẫn kiên trì hành động để xây dựng cuộc sống mới cho quê hương. Truyện ngắn Ché Mèn được đi họp tiêu biểu cho đề tài thế hệ trẻ đầy nhiệt huyết xây dựng quê hương giàu đẹp. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, đề tài đã được mở rộng, trở nên phong phú, đa dạng hơn. Bên cạnh việc tập trung ngợi ca cái đẹp, cái thiện là sự cảnh tỉnh, đấu tranh chống lại cái ác, cái xấu. Văn xuôi dân tộc thiểu số đã có những giá trị thẩm mĩ mới mẻ trong quá trình khắc họa số phận cá nhân của đồng bào dân tộc miền núi. Một số tác phẩm trở lại khai thác hiện thực miền núi những năm đầu cách mạng với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân các dân tộc như Chuyện trên bờ sông Hinh (1994) của Y Điêng, Gió Mù Căng (1995) của Hà Lâm Kỳ,.... Nhìn chung các tác phẩm tìm cảm hứng ở quá khứ này đều xoay quanh những vấn đề phổ quát của chiến tranh, cách mạng: sức sống và bản lĩnh của dân tộc, tình đoàn kết và tinh thần cộng đồng, con đường thu phục lòng dân và cảm hoá tầng lớp lang đạo ở miền núi… Trong các tác phẩm ấy, chất sử thi đã nhạt hơn, nhưng vẫn chưa có dấu hiệu phản sử thi hay thể hiện nhu cầu nhận thức lại quá khứ một cách rõ rệt như trào lưu cách tân của văn xuôi Việt Nam nói chung. Bên cạnh đề tài chiến tranh cách mạng, nhiều tác phẩm hướng về công cuộc xây dựng đời sống, phát triển kinh tế xã hội ở miền núi như các tiểu thuyết: Mũi tên ám khói (1991), Gió hoang (1992) của Ma Trường Nguyên, tập bút kí Cao nguyên trắng (1992) của Mã A Lềnh và các tập 12 truyện ngắn Vùng đồi gió quẩn (1995), Chuyện ở chân núi Hồng Ngài (2005) của Sa Phong Ba. Ngoài hai mảng đề tài quen thuộc này, nhờ sự dân chủ hoá của văn học đổi mới, các phạm vi hiện thực được mở ra rộng rãi hơn. Những mặt trái, những mảng tối của hiện thực đời sống mà văn học trước đây từng né tránh nay được phơi bày. Dồn dập trong nửa đầu thập kỉ 90, các tiểu thuyết Người trong ống (1990), Gã ngược đời (1990), Vào hang (1990), Chồng thật vợ giả (1994)… của Vi Hồng được dư luận quan tâm bởi những vấn đề có tính thời sự. Các tác phẩm này đề cập tới sai lầm của mô hình hợp tác xã nông nghiệp, sự ấu trĩ của việc ngăn cấm làm giàu cá nhân và gióng hồi chuông cảnh báo về sự hoành hành ghê gớm của cái ác. Tái hiện chân thực một thời bao cấp, tiểu thuyết Xứ mưa (2000) của Hoàng Thế Sinh phơi bày tình trạng đói nghèo, nhem nhuốc, túng quẫn của công chức nhà nước, thân phận bọt bèo vô nghĩa của giáo viên cùng sự hoang mang, đổ vỡ niềm tin của giới trí thức trước sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Mạnh mẽ và táo bạo, tiểu thuyết Đàn trời (2006) của Cao Duy Sơn công khai hé mở thực trạng về sự nghèo đói truyền kiếp của người dân vùng cao, vạch trần thói mị dân, sự sa đọa cùng hành vi đen tối của quan tham cao cấp thời đại mới. Cùng sự hiện hữu của cái nghèo, cái ác, tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với vùng cao là vấn đề được nhiều tác phẩm quan tâm. Sự xâm thực của thương trường phá vỡ trật tự rừng xanh, lối sống thực dụng làm nứt rạn nếp nghĩ truyền thống, cái xấu xa phi pháp khuấy đảo sự thanh bình của làng bản... những dấu hiệu băn khoăn lo ngại trước sự biến chuyển của miền núi đương đại cũng là ám ảnh trên nhiều trang viết của các nhà văn dân tộc thiểu số. Đáng chú ý là ngoài những vấn đề mang tính xã hội, một số tác phẩm đã đi vào các khía cạnh của đời sống cá nhân. Có thể kể đến tập truyện Tiếng chim kỷ giàng (2004) của Bùi Thị Như Lan với những mảnh đời phụ nữ bị trói buộc bởi lương tâm và bổn phận, phải hi sinh hạnh phúc riêng vì người khác. Vốn nhạt nhoà trong văn xuôi cách mạng, chuyện tình yêu gặp luồng gió đổi mới đã bừng nở trong không ít truyện ngắn, tiểu thuyết của Cao Duy Sơn, Hà Lý, Hoàng Thế Sinh. Việc khai thác vấn đề số phận cá nhân đã làm giàu thêm chất văn xuôi, 13 chất tiểu thuyết cho các tác phẩm và nêu cao tinh thần nhân văn, nhân bản đang là xu thế chung của văn học đổi mới. Có một điều đặc biệt trong sự vận động tiến tới hiện đại của văn xuôi các dân tộc thiểu số là sự đan xen nhiều tuyến đề tài. Bên cạnh những tuyến đề tài chính trong từng tác phẩm như cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, đất nước trong các tác phẩm viết về chiến tranh, cuộc đấu tranh đầy cam go, thử thách trong các tác phẩm thế sự, phản ánh hiện thực miền núi trong những bước chuyển mình của lịch sử, trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, chống cái xấu, cái ác,… là những trang viết nên thơ về phong tục văn hóa độc đáo hay những khung cảnh thiên nhiên đầy lãng mạn. Các nhà văn đã đưa vào tác phẩm của mình những bức tranh đa sắc của văn hóa lễ hội, tập tục, trang phục, ngôn ngữ,… của dân tộc mình và cắt nghĩa chúng như là cội nguồn sức mạnh của núi rừng. Đây là một không gian thiêng của người Ê đê trong các trang văn của Hlinh Niê: “Khách muốn vào nhà Êđê phải leo cầu thang đằng trước, vịn tay lên bầu vú gỗ để đến với không gian mẫu hệ. Nhà Mnông lại có hai cửa hình vòng cung cùng mở về hướng đông thấp lè tè. Bước qua cửa nào cũng gặp bếp lửa cháy quanh năm. Giữ gìn lửa là việc sống còn của con người giữa rừng đại ngàn. Lửa soi sáng mọi việc làm trong nhà, lửa nấu chín thức ăn. Lửa xua cái lạnh giá những tháng mưa rừng. Lửa phừng phừng da thịt gái trai thương nhau.”. Đó còn là không gian của Lễ hội Lồng tồng, Lễ hội đâm trâu, Lễ hội bỏ mả,… Bên cạnh đó là những bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoang dại, thanh khiết của núi rừng, nơi ươm mầm những ước mơ, nơi nuôi dưỡng tình yêu và niềm tin của con người. Có thể nói, mặc dù chưa thực sự phong phú nhưng qua các chặng đường phát triển, văn xuôi dân tộc thiểu số đã có sự mở rộng về đề tài. Bên cạnh việc phản ánh công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, các nhà văn đã ngày càng chú ý hơn tới việc đi sâu khám phá những vấn đề phức tạp của cuộc sống miền núi, đặc biệt là vấn đề số phận cá nhân. Điều đó đã đem lại cho các sáng tác văn xuôi dân tộc thiểu số chất tiểu thuyết và tinh thần nhân văn, nhân bản ngày càng đậm nét. 14 1.1.3. Đặc điểm cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ văn xuôi dân tộc thiểu số 1.1.3.1. Đặc điểm cốt truyện Văn xuôi dân tộc thiểu số thời kì đầu thường có cốt truyện tuyến tính với mạch thời gian kể xuôi chiều. Cốt truyện tuyến tính theo dòng thời gian với việc tổ chức các tình huống truyện đơn giản giúp cho các độc giả là người dân tộc thiểu số miền núi dễ nắm bắt được nội dung ý nghĩa của truyện nhưng lại không đem lại hiệu quả thẩm mĩ cao. Vi Hồng là nhà văn sớm nhận ra hạn chế ấy của văn xuôi dân tộc thiểu số nên đã tạo ra những đảo lộn thời gian nhất định trong Vãi Đàng. Kiểu cốt truyện với thời gian gấp khúc ấy về sau xuất hiện nhiều hơn trong các tiểu thuyết của Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Cao Duy Sơn, Inrasara … Đặc biệt, với việc “chối bỏ sự gò bó, sắp đặt của cốt truyện tuyến tính, cố ý tạo ra sự xáo trộn, đứt gẫy của các yếu tố không gian, thời gian”, tiểu thuyết Inrasara đã “thể hiện quan niệm về một thế giới với đầy những vênh lệch, so le, biến ảo, không dễ nắm bắt và lý giải” [17]. Sự phá vỡ lôgic thời gian này, mặc dù có đi xa tầm đón nhận của người đọc dân tộc thiểu số nhưng phần nào đã thể hiện tinh thần tìm tòi của nhà văn Inrasara. Cốt truyện trong văn xuôi dân tộc thiểu số thường là cốt truyện đơn tuyến với dung lượng nhỏ hoặc vừa. Phần lớn các tác phẩm đều có ít nhân vật và nếu có phân tuyến cũng chỉ gồm hai tuyến cơ bản: chính - tà. Có thể kể đến các tác phẩm của Vi Hồng, Triều Ân, Nông Minh Châu, Hoàng Hạc, Vi Hồng, Sa Phong Ba, Bùi Nguyên Khiết, Đặng Quang Tình… Theo tác giả Phạm Duy Nghĩa thì trong văn xuôi dân tộc thiểu số những thập niên 50 - 80 của thế kỉ trước “có chung môtíp cốt truyện: cái mới (thường được đại diện bởi một cô gái hoặc một lớp thanh niên) đấu tranh với cái cũ (thường là ông bố, phía sau là thầy mo và những kẻ bảo thủ khác); cái mới đi tiên phong, năng động tìm tòi, dũng cảm vượt qua những cản trở, bài xích; cái cũ bị tác động, lay chuyển, dẫn đến thay đổi trong nhận thức hoặc buộc phải lùi bước trước cái mới” [15]. Nhiều cốt truyện đã ra đời từ lối mòn công thức này như Ké Nàm của Hoàng Hạc, Lòng rừng của Sa Phong Ba, Lửa rừng của Đặng Quang Tình, Gió hoang của Ma Trường Nguyên … 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan