Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đặc điểm văn xuôi nghệ thuật võ thị hảo...

Tài liệu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật võ thị hảo

.PDF
124
308
124

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Tuyết Nga LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trần Thị Tuyết Nga Chuyên ngành Mã số : Văn học Việt Nam : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN THÀNH THI Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này người viết đã nhận được sự giúp đỡ chân thành từ rất nhiều người. Xin tri ân nhà văn Võ Thị Hảo, người đã tạo ra những đứa con tinh thần đầy tâm huyết gợi cảm hứng cho tôi thực hiện đề tài, cảm ơn tác giả đã có những lời trao đổi chân thành, thẳng thắn giúp tôi hiểu sâu hơn về con người và tư tưởng của nhà văn cũng như làm rõ hơn các giá trị mà nhà văn ký gửi trong tác phẩm. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Thành Thi, người thầy hướng dẫn đã bỏ nhiều tâm sức chỉ bảo tận tình, định hướng và giúp đỡ tôi từ những bước đi đầu tiên cho đến khi hoàn thiện luận văn. Xin cảm ơn các thầy cô trong Khoa và Phòng KHCN&SĐH trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã giúp tôi trang bị những kiến thức cần thiết, làm nền tảng để thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học. Xin cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp cũng như lãnh đạo của trường THPT Phú Quốc, nơi tôi đang công tác, đã chia sẻ những khó khăn trong công việc để tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập và thực hiện luận văn đúng tiến độ. Xin cảm ơn những người thân trong gia đình đã ủng hộ và luôn ở bên tôi những lúc khó khăn để tôi có đủ niềm tin và nghị lực vượt qua những gian nan trong quá trình học tập và nghiên cứu. Xin cảm ơn tất cả những nhà nghiên cứu đi trước đã khai mở những con đường, để luận văn có dịp góp thêm chút tiếng nói vào cuộc hành trình của khoa học nghiên cứu những vấn đề về Văn học Việt Nam. Xin trân trọng tất cả những tấm lòng đã đến bên tôi! TP. Hồ Chí Minh, Ngày 20 tháng 10 năm 2011 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN ............................................................................................. 3 MỤC LỤC ................................................................................................... 4 MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu ................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................... 2 3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................ 4 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 4 5. Đóng góp của luận văn .............................................................................................. 5 6. Cấu trúc của luận văn ................................................................................................ 5 CHƯƠNG 1 : VĂN CHƯƠNG VÕ THỊ HẢO – TỪ QUAN NIỆM ĐẾN SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT ........................................................... 6 1.1. Sự nghiệp văn chương của Võ Thị Hảo ................................................................. 6 1.1.1. Vài nét về tiểu sử ................................................................................................................... 6 1.1.2. Sự nghiệp văn chương ........................................................................................................... 6 1.2. Quan niệm nghệ thuật của Võ Thị Hảo .................................................................. 8 1.2.1. Văn chương và sứ mệnh của nhà văn .................................................................................... 8 1.2.2. Quan niệm về con người và “thiên tính nữ” hay là “ý thức nữ quyền” .............................. 11 1.3. Võ Thị Hảo – chủ thể sáng tạo giàu cá tính ......................................................... 22 CHƯƠNG 2 : CON NGƯỜI VÀ NHỮNG BI KỊCH CÁ NHÂN ....... 24 2.1. Cái nhìn nhiều phía về con người và những nội dung tự sự chủ yếu trong VXNT Võ Thị Hảo .................................................................................................................. 24 2.2. Con người đối diện với nỗi đau chiến tranh ......................................................... 24 2.2.1. Con người bị tổn thương cả thể xác lẫn tinh thần ............................................................... 25 2.2.2. Con người không thể hòa nhập với cuộc sống đời thường sau cuộc chiến và sự méo mó về mặt nhân cách. ............................................................................................................................... 30 2.2.4. Hình ảnh những người phụ nữ góa bụa, cô đơn – sự ám ảnh khôn nguôi về nỗi đau chiến tranh ............................................................................................................................................... 33 2.3. Con người tham vọng và tha hoá ......................................................................... 35 2.3.1. Con người tham vọng .......................................................................................................... 35 2.3.2. Sự tha hóa của con người .................................................................................................... 44 2.4. Con người bé nhỏ ................................................................................................. 48 2.5. Người phụ nữ cô đơn ............................................................................................ 58 CHƯƠNG 3 : TỰ SỰ ĐẦY MA LỰC VÀ ÁM ẢNH ........................... 67 3.1. Khung cảnh “Liêu Trai” và lối dựng truyện huyền ảo, giàu kịch tính................. 67 3.2. Một thế giới nghệ thuật được chạm khắc chủ yếu bằng biểu tượng .................... 90 3.3. Những triết luận u trầm, riết róng......................................................................... 97 KẾT LUẬN ............................................................................................. 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... 112 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Từ sau năm 1986, thành tựu của quá trình cải cách xã hội cộng với nhiệt tình đổi mới, khát vọng dân chủ và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật của đội ngũ nhà văn đã tạo đà cho văn xuôi nghệ thuật bùng nổ thành những cao trào sôi nổi. Trải qua hơn hai thập niên, nhiều cây bút văn xuôi đã từng bước khẳng định tên tuổi của mình trong lòng độc giả. Thành tựu của cả giai đoạn văn học này đã được đề cập khá nhiều trong các giáo trình văn học sử cũng như các chuyên đề phê bình và lý luận. Chúng tôi xét thấy, việc đi sâu đánh giá những đóng góp riêng của từng tác giả, nhân tố quan trọng làm nên diện mạo văn học của cả thời kỳ, là vô cùng cần thiết. Chọn đề tài này, chúng tôi mong muốn thông qua việc nghiên cứu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật của Võ Thị Hảo để thấy được đặc điểm và thành tựu của văn xuôi thời kỳ đổi mới, đồng thời bổ sung cái nhìn toàn diện hơn cho bức tranh văn học hai mươi năm trở lại đây. Võ Thị Hảo xuất hiện trên văn đàn vào những năm cuối của thập niên 80, với những truyện ngắn phản ánh cuộc sống đời thường, phản ánh số phận của những con người bé nhỏ, đặc biệt là người phụ nữ. Từ đó trở đi, đề tài này trở thành một dòng mạch khá xuyên suốt trong sáng tác của chị. Bên cạnh những cây bút cùng khai thác đề tài này, trong đó có không ít tác giả nữ mới xuất hiện những thập niên gần đây, Võ Thị Hảo đã tạo được dấu ấn riêng trên những trang viết của mình. Tìm hiểu một cách hệ thống đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo là một cách để lí giải nét riêng biệt và đóng góp của tác giả cho mảng đề tài này. Không dừng lại ở mảng truyện ngắn, năm 2003, tiểu thuyết “Giàn thiêu” của Võ Thị Hảo ra mắt độc giả, góp phần đánh dấu sự trở lại sôi nổi của thể loại tiểu thuyết lịch sử trên văn đàn. Tác phẩm này tạo được sức hấp dẫn không chỉ bởi cách lí giải các vấn đề lịch sử mà còn ở cách viết đậm chất huyền tích, kỳ ảo, phiêu diêu của tác giả. Lối văn này không chỉ có trong mỗi “Giàn thiêu”. Nó xuất hiện trong phần lớn sáng tác của Võ Thị Hảo, trở thành một thế mạnh riêng của tác giả. Do đó, nghiên cứu toàn diện văn xuôi nghệ thuật của Võ Thị Hảo sẽ góp phần làm bật lên nét độc đáo của lối viết này, lý giải được sức hấp dẫn trong những sáng tác của chị đối với độc giả đương thời. Ngoài ra, con người trong sáng tác của Võ Thị Hảo mang sức sống, hơi thở của thời đương đại. Người đọc hôm nay có thể tìm thấy những điều gần gũi với bản thân mình khi đọc các tác phẩm của chị. Nghiên cứu văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo là một cách giúp chúng ta khám phá thế giới hiện thực đang tồn tại xung quanh, để từ đó có thể hiểu rõ hơn về bản thân và thời đại. Đó cũng là một cách trải nghiệm bổ ích trong quá trình hoàn thiện bản thân của mỗi con người bằng văn học. Vì những lí do trên người viết chọn đề tài “Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo” để nghiên cứu trong luận văn của mình. 2. Lịch sử vấn đề Nhận định về văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào hoàn chỉnh và đầy đủ. Chủ yếu là những bài phỏng vấn, giới thiệu tác giả, tác phẩm đăng rải rác trên các báo, tạp chí, một số chuyên luận đề cập đến một vài tác phẩm hoặc một vài khía cạnh nghệ thuật… Có thể kể đến một vài nhận định xoay quanh các mặt sau: 2.1. Nhận định về nội dung, cảm hứng trong sáng tác của nhà văn này, Thụy Khê cho rằng Võ Thị Hảo là thế hệ nhà văn chối bỏ cổ tích, không tin “thần thoại chiến trường”, “cuộc sống trong văn của chị là một xã hội tan chiến nhưng không tàn chiến” [43]. Đoàn Cầm Thi đã phát hiện ra nét mới trong tác phẩm viết về chiến tranh của Võ Thị Hảo là khi đề cập đến sự phá hủy của chiến tranh đối với con người, đặc biệt là cơ thể người nữ, Võ Thị Hảo thường để cho các nhân vật nữ của mình diễn đạt trực tiếp nhu cầu nhục thể, thể hiện khát vọng sống một cách mãnh liệt [73]. Phạm Xuân Nguyên và rất nhiều nhà phê bình khác đều chú ý đến chất nữ tính đằm sâu trong sáng tác của Võ Thị Hảo; họ cho rằng “chính niềm dự cảm mong manh về hạnh phúc của nữ giới” khiến sáng tác của các nhà văn nữ đương đại (trong đó có Võ Thị Hảo) “gợi lên được những cảm xúc về lòng tha thiết sống, tha thiết yêu, dù quá khứ có nặng nề, dù hiện tại còn đau khổ vẫn mong mỏi cuộc sống ngày mai tốt đẹp hơn cho người và cho mình” [56], [72]. 2.2. Nhân vật và tính khuynh hướng trong sáng tác của Võ Thị Hảo được đề cập đến nhiều. Trong đó, nhân vật trong sáng tác của chị thường được giới nghiên cứu chú ý là những người phụ nữ, đặc biệt là “những con người bé mọn” và những người phụ nữ thành đạt nhưng cô đơn [1], [76]. Một số ý kiến cho rằng Võ Thị Hảo là một nhà văn nữ quyền khi khảo sát một số hình tượng nữ tiêu biểu trong sáng tác của chị [6], [19], [77]. Các tác giả thường đi sâu mô tả thân phận của người phụ nữ qua sáng tác của Võ Thị Hảo và phần lớn đều thừa nhận rằng, người phụ nữ trong sáng tác của chị phần lớn đều đáng thương và bất hạnh. Ở một khía cạnh khác, Bùi Việt Thắng đã chỉ ra rằng nhân vật trong văn xuôi Võ Thị Hảo thường có nét “dị dạng, khác người nhưng tâm hồn họ thánh thiện, giàu lòng vị tha và đức hy sinh” [72]. Nhiều người lại tỏ ra lý thú với các nhân vật lịch sử mà Võ Thị Hảo xây dựng trong tiểu thuyết Giàn thiêu và cho rằng đấy là những sáng tạo độc đáo, thể hiện một cái nhìn mới của tác giả đối với lịch sử [6], [52], [54], [69], [81]. 2.3. Về mặt nghệ thuật, âm hưởng chung trong sáng tác của Võ Thị Hảo cũng có nhiều ý kiến nhận định đáng lưu ý. Thụy Khê cho rằng “có thể tìm thấy trong văn phong Võ Thị Hảo cái tàn nhẫn, chất huyền thoại phảng phất cơn mưa Nguyễn Huy Thiệp, bóng mây Phạm Thị Hoài” [43]. Bùi Việt Thắng nhận xét rằng “truyện ngắn Võ Thị Hảo dẫn dắt người đọc vào cõi tình yêu vừa “mê cung”, vừa kỳ lạ, với các tình huống đặc sắc” (…) văn Võ Thị Hảo có cái dập dìu của những “chàng” và “nàng”, không khí truyện lúc tỏ lúc mờ, câu chuyện được kể lắm khi phiêu diêu” [72]. Đọc Võ Thị Hảo nhiều ý kiến đều nhận xét văn của chị có nhiều tầng hình tượng với những lớp ngữ nghĩa khác nhau ẩn mình sau những câu chữ; đó là lối văn được thổi linh hồn, với những câu văn huyền ảo, mê hoặc, thậm chí ma quái [31], [36], [43], [49], [62], [73]. Đọc Võ Thị Hảo, người đọc được hòa nhập vào không gian vừa huyền ảo, vừa kỳ bí, được sống với nội tâm nhân vật qua rất nhiều biến cố, qua rất nhiều trải nghiệm về cõi đời, về nhân tình thế thái. Một số nhà nghiên cứu khi đề cập đến các yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại thường nhắc đến nhiều sáng tác của Võ Thị Hảo như một trong những tác phẩm “liêu trai hiện đại” tiêu biểu nhất. Tác giả Cao Thị Thu Hoài với luận văn Thạc sỹ “Yếu tố kì ảo trong sáng tác của Võ Thị Hảo qua tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện ngắn Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm”, bảo vệ năm 2009 tại Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã đi sâu nghiên cứu các yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Giàn thiêu và một số truyện ngắn của Võ Thị Hảo như một chất liệu quan trọng tạo nên sức hấp dẫn trong sáng tác của nhà văn này [31]. Tác giả luận văn đã phân loại và mô tả các loại nhân vật kì ảo cũng như các thủ pháp nghệ thuật thể hiện cái kì ảo trong các sáng tác của Võ Thị Hảo. Tuy nhiên việc khảo sát của tác giả Cao Thị Thu Hoài chỉ dừng lại ở một vài tác phẩm, chưa bao quát hết các sáng tác của Võ Thị Hảo. Bên cạnh việc nghiên cứu chuyên sâu về yếu tố kì ảo, một số nhà phê bình còn quan tâm đến khuynh hướng tiểu thuyết hóa lịch sử trong tác phẩm của Võ Thị Hảo, xem đây như một cách xử lý có hiệu quả các chất liệu lịch sử, một hướng tìm tòi và đóng góp riêng của tác giả trong khuynh hướng chung của thể loại này [7], [13], [70]. Nhà phê bình Lại Nguyên Ân đã chỉ ra rằng trong Giàn thiêu, nhà văn Võ Thị Hảo đã hình dung lịch sử như những giả định, sử dụng các chất liệu có sẵn để dày công hư cấu, thiết kế lại quá khứ, tạo ra một thế giới của riêng mình. Điều đó cho thấy sự tiếp cận của Võ Thị Hảo đối với các vấn đề lịch sử là sự tiếp cận với tinh thần của thời đại mới, tư duy mới và thực sự có đóng góp cho mảng đề tài này. Chính những ý kiến quý báu trên đã gợi mở những lối đi nhất định để luận văn tiếp tục khám khá đặc điểm của văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo một cách toàn diện hơn. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những đặc điểm của văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo. Phạm vi khảo sát là toàn bộ các sáng tác văn học đã in của Võ Thị Hảo gồm 4 tập truyện ngắn: Người sót lại của rừng cười, Hồn trinh nữ, Góa phụ đen, Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm và 1 tiểu thuyết: Giàn thiêu. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp loại hình để xem xét và tìm ra những đặc điểm cơ bản của văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo; sử dụng phương pháp cấu trúc – hệ thống, luận văn khảo sát toàn bộ các tác phẩm đã in của nhà văn, phân tích một cách hệ thống các đặc trưng cơ bản về nội dung và phương thức tự sự của các tác phẩm, để khái quát thành những đặc điểm chính; đồng thời sử dụng thêm phương pháp so sánh – miêu tả và một số phương pháp bổ trợ để thấy được những nét riêng và đóng góp của tác giả cho nền văn học Việt Nam đương đại. 5. Đóng góp của luận văn Nghiên cứu một cách bao quát, có hệ thống đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo, khẳng định vị trí và những đóng góp của nhà văn cho nền văn học dân tộc. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn gồm có 148 trang, ngoài phần Mở đầu (6 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (10 trang), Phần nội dung (128 trang) được trình bày thành 3 chương: Chương 1: Văn chương Võ Thị Hảo – từ quan niệm đến sáng tạo nghệ thuật (22 trang). Trong phần này luận văn trình bày khái quát quá trình sáng tác của Võ Thị Hảo cũng như những quan niệm của nhà văn về văn chương, về sứ mệnh của người cầm bút và quan niệm nghệ thuật về con người. Đó là những yếu tố chi phối đến việc lựa chọn nội dung cũng như phương thức tự sự trong các sáng tác của Võ Thị Hảo. Chương 2: Con người và những bi kịch cá nhân (53 trang). Phần này luận văn mô tả những nội dung tự sự chủ yếu trong sáng tác của Võ Thị Hảo tập trung vào các hình tượng con người với những bi kịch cá nhân. Trong đó nổi bật là con người với nỗi đau chiến tranh, con người tham vọng – tha hóa, con người bé nhỏ và chân dung những người phụ nữ cô đơn. Chương 3: Tự sự đầy ma lực và ám ảnh (53 trang). Ở chương 3, luận văn đi sâu tìm hiểu những phương thức tự sự tạo nên sức hấp dẫn trong sáng tác của Võ Thị Hảo. Tập trung trong ba vấn đề: lối dựng truyện huyền ảo, kịch tính; xây dựng hệ thống biểu tượng đầy ám ảnh và chất triết luận qua nghệ thuật xây dựng chân dung cũng như giọng văn giễu nhại và tâm tình thương cảm xót xa. CHƯƠNG 1 : VĂN CHƯƠNG VÕ THỊ HẢO – TỪ QUAN NIỆM ĐẾN SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT 1.1. Sự nghiệp văn chương của Võ Thị Hảo 1.1.1. Vài nét về tiểu sử Võ Thị Hảo sinh năm 1956 tại Diễn Châu, Nghệ An trong gia đình giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, song thân của chị đều là những đảng viên lão thành của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh nổi tiếng. Học đại học Văn khoa trường Đại học tổng hợp Hà Nội, ra trường chị ở lại đất Hà thành lập nghiệp. Từng công tác tại Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, có thời gian chị cũng phải làm nhiều việc khác nhau để kiếm sống. Võ Thị Hảo vừa viết văn vừa làm báo. Chị là hội viên của Hội nhà văn Việt Nam với nhiều đóng góp đáng kể cho mảng văn xuôi Việt Nam hai thập niên cuối thế kỷ XX; và cũng là cộng tác viên uy tín của nhiều tờ báo khác nhau, trong đó chủ yếu nhất là báo Phụ nữ. Chị từng là trưởng ban đại diện Báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh tại Hà Nội, rồi trưởng ban Thư ký tòa soạn của báo Giáo Dục và Xã Hội. Có thời gian chị cũng về công tác cho Tạp chí Vì trẻ thơ. Đi nhiều, thấy nhiều, chính nghề báo đã hỗ trợ cho chị rất lớn trong sáng tác văn chương. Sau cuộc nhân đỗ vỡ, chị sống cùng hai con tại ngoại thành Hà Nội, rồi xin về hưu trước tuổi, chuyên tâm vào hoạt động sáng tác. Năm 2005, chị sáng lập công ty Văn hóa truyền thông Võ Thị, cho in lại phần lớn những tác phẩm của mình. Kinh doanh được một thời gian, chị giao lại cho người khác quản lý, bắt tay vào việc hoàn tất những sáng tác mới của mình. 1.1.2. Sự nghiệp văn chương 1.1.2.1. Quá trình sáng tác của Võ Thị Hảo Võ Thị Hảo có một niềm đam mê sâu sắc đối với văn chương. Từ nhỏ chị đã thích đọc sách, rồi tập làm thơ từ rất sớm và cũng có suy nghĩ sẽ trở thành nhà thơ. Nhưng duyên số lại đưa chị đến với nghề báo, để không biết tự bao giờ cái nghiệp văn chương bén rễ và trở thành một nỗi ám ảnh không dứt đối với chị, cho dù cuộc sống gia đình riêng nhiều khó khăn vất vả và ngay cả người bạn đời cũng không ủng hộ chị theo đuổi nó. Xuất hiện trên văn đàn vào những năm cuối của thập niên 80, truyện ngắn đầu tiên của Võ Thị Hảo đăng trên báo Phụ nữ thủ đô năm 1989 là truyện “Người gánh nước thuê”. Câu chuyện kể về số phận của những người nghèo khổ, dị dạng đã nhận được nhiều đồng cảm nơi người đọc. Tạo được dấu ấn ngay trong tác phẩm đầu tiên ra mắt, suốt hơn 10 năm tiếp theo, Võ Thị Hảo từng bước khẳng định tên tuổi của mình ở mảng truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh và số phận của con người trong thời hậu chiến. Người ta bắt đầu chú ý nhiều hơn đến cái tên Võ Thị Hảo qua những truyện ngắn “lạ” như: Người sót lại của rừng cười, Hồn trinh nữ, Biển cứu rỗi, Vườn yêu… Tác phẩm của chị được công chúng đón nhận và chờ đợi. Sáng tác của chị được tuyển tập và in chung với nhiều tác giả khác, chị được đánh giá là một trong những cây bút nữ tiêu biểu của văn học sau những năm đổi mới. Năm 2003, Võ Thị Hảo đánh dấu bước chuyển quan trọng trong sự nghiệp bằng việc cho ra đời tiểu thuyết dã sử Giàn thiêu. Tác phẩm gây tiếng vang lớn trên văn đàn bởi cách viết mê hoặc, huyền ảo, cách tiếp nhận và đánh giá lịch sử một cách uyển chuyển, mới mẻ, đánh dấu những bước đi mới cho thể loại tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại. Năm 2005, Võ Thị Hảo cho in lại toàn bộ sáng tác của mình gồm bốn tập truyện ngắn và một tiểu thuyết. Những năm gần đây, nhà văn Võ Thị Hảo vẫn tiếp tục công việc sáng tác và dự định sẽ cho ra đời nhiều tác phẩm mà chị đã ấp ủ nhiều năm qua. 1.1.2.2. Tác phẩm đã in của Võ Thị Hảo - Truyện ngắn (bốn tập): Người sót lại của rừng cười, Hồn trinh nữ, Góa phụ đen, Những truyện không nên đọc lúc nửa đêm. - Tiểu thuyết: Giàn thiêu. 1.1.2.3. Các giải thưởng đã đạt được - Giải cuộc thi tiểu thuyết và truyện ngắn NXB Hà Nội 1991. - Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội cho tiểu thuyết Giàn thiêu năm 2004. - Giải 5 năm văn học Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam. 1.2. Quan niệm nghệ thuật của Võ Thị Hảo 1.2.1. Văn chương và sứ mệnh của nhà văn Võ Thị Hảo là người có quan điểm về văn chương rất rõ ràng và nghiêm túc. Trong nhiều bài trả lời phỏng vấn trên báo chí, chị đã không ít lần bày tỏ thái độ của mình về vai trò của văn chương và sứ mệnh cao cả của nhà văn. Võ Thị Hảo từng nói: “văn chương là nơi thổ lộ những khát vọng, những nỗi đau lớn của kiếp người. Sứ mệnh của nhà văn là chia sẻ niềm vui, nỗi đau và thức tỉnh lương tri”. Điều mà Võ Thị Hảo tâm đắc nhất khi nói về văn chương chính là khả năng “nói thật” của nó. Theo chị, văn chương đi ra khỏi sự thật thì chỉ là thứ văn chương trưởng giả, phù phiếm. Trách nhiệm của người viết là không né tránh sự thật. Chị nói: “Thiên chức nhà văn là tôn trọng tự nhiên. Tự nhiên nghĩa là sự thật. Như những con sóng biển và gió vẫn đêm ngày cồn cào đến với đất liền. Khi nhà văn mà chối bỏ sự thực viết dối trá và đứng ngoài những nỗi đau, khát vọng cũng như khát vọng thật sự của con người khi ấy, nhà văn đó trở nên nguy hiểm cho đồng loại” [14]. Những khát vọng mà Võ Thị Hảo gửi gắm qua văn chương chính là khát vọng tự do, công lý, khát vọng được hạnh phúc, yêu thương và chia sẻ. Nói về Giàn thiêu, Võ Thị Hảo cho rằng: “Một trong những thông điệp của Giàn thiêu: Dựng giàn thiêu người trên đảo Âm Hồn, đốt sách mổ bụng moi gan người dưới đoạn đầu đài, hay bất cứ cực hình nào đó cũng không thiêu hủy được sự thật, khát vọng tự do và công lý” [21]. Hình tượng Lê Thị Đoan trong tác phẩm này chính là một sự hóa thân của tác giả. Võ Thị Hảo đã gửi gắm trong đó rất nhiều những tư tưởng, khát vọng, quan niệm của chị đối với văn chương. Lê Thị Đoan có thể được xem là một chân dung “lạc điệu” của thời đại. Đã “bạo gan” giả trai đi thi chỉ với một mong muốn “đem chút tài hèn nhi nữ mà giúp rập quốc gia”, chí nguyện không thành vì tiểu nhân hãm hại, bà vẫn hiên ngang vạch trần những tội ác man rợ, tố cáo những kẻ lộng quyền, ỷ thế, gieo rắc tai họa cho nhân dân. Cái chết tức tưởi của bà chính là tiếng nói phản kháng mạnh mẽ của lương tri và công lý. Đó là sự phản kháng cuối cùng của một con người không thỏa hiệp với cái ác, không vì mưu cầu danh lợi mà trở thành bọn ca công “uốn lưỡi nịnh hót xum xoe”, bẻ cong ngọn bút của mình. Con người bà có thể bị lấp vùi trong tro bụi, nhưng văn chương của bà vẫn tồn tại với thời gian và bất tử trong lòng nhân dân. Nói như quan Tham tri chính sự Từ Văn Thông: “Dù có đem đốt cả ngàn vạn lần cuốn sách “Lê Thị Đoan trước tác” thì cuốn sách vẫn cứ nhơn nhơn tồn tại, vì chúng đã ăn vào trong ruột kẻ có chữ và còn được lưu truyền không mệt mỏi trên miệng bọn dân đen”. Và “sở dĩ chúng đi thun thút vào bụng dạ chúng dân, là bởi tài cao học rộng, bởi văn chương cái thế, bởi gan óc tế thế kinh bang đẫm trên từng trang, bởi mụ ta không viết điều gì ngoài sự thật” [Giàn thiêu, 508, 509]. Cho nên một tác phẩm văn chương đích thực phải là một tác phẩm có ích cho cuộc đời, nó có khả năng “thanh lọc” tâm hồn (chữ dùng của Thạch Lam). Dù người ta có gán cho nó là “tà thư” hay “lộng ngôn sáo ngữ” thì nó vẫn cứ là “chính văn chính sử” trong lòng những người biết phân biệt phải trái trắng đen. Chính quan Gián nghị đại phu Mâu Du Đô, một người còn có chút lương tri trong triều đình đã nói: “sách nào, chữ nào có ích cho dân cho nước, sách nào chữ nào khiến cho người đọc cầm cuốn sách trên tay mà như cầm tấm gương soi lại chính mình, đọc chữ nào thì chữ đó là lời khen tiếng chê ứng mỗi hành vi cử chỉ, tâm tình thiện ác của chính mình thì sách đó, chữ đó là chính văn chính sử” [GT, 511]. Và để tạo nên những trước tác để đời như thế không phải người cầm bút nào cũng có thể làm được. “Chỉ có người nào trên hiểu lẽ trời, dưới hiểu lẽ đời, ngày ngày ăn chung bát cơm gạo hẩm, húp chung bát cháo cầm hơi, đêm đêm chia sẻ manh chiếu rách với kẻ khốn cùng nhất trong thiên hạ, nung nấu trong lòng mộng ước cứu đời cứu người, làm cho dân thịnh nước cường thì mới có thể cầm bút viết nên những dòng như thế” [GT, 512]. Chính khát vọng tự do đã khiến cho rất nhiều nhân vật của Võ Thị Hảo lựa chọn con dường “không thỏa hiệp” như Lê Thị Đoan. Một nhà phê bình đã nói những người đàn bà trong sáng tác của Võ Thị Hảo thường hay “nổi loạn” là như thế. Một tiểu thư Nhuệ Anh (Giàn thiêu) yêu hết mình, sống hết mình, sẵn sàng chết cho tình yêu với chàng thư sinh Từ Lộ, nhưng đến khi đối diện với một Thần Tông (hậu thân của Từ Lộ) ngất ngưỡng trên ngai vàng mà tình yêu đối với nàng vẫn còn ám ảnh trong tiềm thức, nàng đã không chần chừ lựa chọn ra đi. Mặc dù đằng sau chiếc áo cà sa thoát tục kia vẫn nguyên vẹn một trái tim đập cho tình yêu thời tuổi trẻ, nhưng cái tự do tuyệt đối trong trái tim nàng mới là điều nàng mong cầu lớn nhất. Một nàng H’Điêu nguyện làm một cây chanh lẻ loi cô độc suốt ngàn năm, chứ không muốn tái sinh để rồi lại tiếp tục làm một người đàn bà “ngây thơ, bị chồng nghi ngờ, dằn vặt rồi phụ bạc”, và “sẽ lại biến thành cây chanh cô đơn bên bờ suối cạn mà thôi” (Khát của muôn đời – Hồn trinh nữ). Hay chính vì bảo vệ công lý mà Nữ hoàng Pháp luật cũng trở thành một nữ hoàng cô độc, chấp nhận bị giam cầm ngàn năm trong vương quốc của thần Tiền Tài và Dục Vọng, chứ không thể nào thỏa hiệp với chúng, nàng cũng không thể nào thuộc về bất cứ một ai, bởi vì “nếu không, cán cân công lý sẽ nghiêng lệch” (Nữ hoàng cô đơn). Quá trình đấu tranh cho công lý của rất nhiều nhân vật trong sáng tác của Võ Thị Hảo có lúc thành công nhưng phần lớn là thất bại hoặc thành công phải đánh đổi bằng một cái giá nào đó. Nhưng dù sao đi nữa thì văn chương của chị cũng là một tiếng kêu đòi công lý, quyền sống, quyền tự do và hạnh phúc cho con người. Chị nói: “đối tượng của những, truyện ngắn, bài báo của tôi là nhân tính và sự bất bình trong xã hội” [tôi vốn là người đàn bà thích được che chở]. Với Võ Thị Hảo, khi nào cuộc sống còn khổ đau, khi đó văn chương còn tồn tại. Đó là nơi con người tìm thấy sự đồng cảm và trải nghiệm cuộc sống đích thực. Cho nên chị ý thức rất cao sứ mệnh của một nhà văn đối với xã hội. Nhà văn phải là người biết chia sẻ niềm vui, nỗi đau và thức tỉnh lương tri con người. Võ Thị Hảo thường xuyên sử dụng những từ như “mang”, “vác”, “trả nợ”, gánh nợ”, “chia sẻ”, “đồng hành” để nói về trách nhiệm của một nhà văn. Từ suy nghĩ về số phận của nhà văn Lê Đạt (một nạn nhân của phong trào Nhân văn – Giai phẩm) chị khái quát chung về số phận của những người đeo nghiệp văn chương, chị ví họ như những người “vác thập giá chữ” trên đôi vai của mình. Những bước đi nặng nhọc giữa cuộc đời. Nhưng số phận của họ là như thế, không thể nào không mang vác, chỉ có cái chết mới có thể kết thúc cuộc hành trình của họ. Đó là một sự lựa chọn sòng phẳng mà cũng vô cùng khắc nghiệt đối với một nhà văn chân chính. Võ Thị Hảo từng tâm sự viết văn tức là lúc chị đã phải “nhận lĩnh kiếp nạn của những kẻ không thể im lặng trước nỗi đau của người khác”. “Nhà văn là người gánh món nợ của lịch sử, cuộc đời. Vì thiên chức của nhà văn là gánh nỗi đau của con người. Cái thân nhà văn như thân con lừa ưa nặng vậy, chưa nặng thì chưa bước”. Có lúc chị lại ví von: “Sứ mệnh của một nhà văn không hơn sứ mệnh của một người trồng cây (…) Có điều, nhà văn có thể trồng được cả một cánh rừng bằng ngòi bút” [14]. Nhìn chung, những phát biểu trên báo chí về sứ mệnh nhà văn của Võ Thị Hảo cũng khá thống nhất với ý nghĩa của hình tượng gợi lên từ tác phẩm của chị. Trên những trang văn của Võ Thị Hảo luôn có bóng dáng của cái tôi tác giả đồng hành, sẻ chia, đôi lúc xuất hiện trực tiếp để phẩm bình bày tỏ tình cảm, thái độ. Chị thường viết về số phận của những con người bất hạnh, đó là những thân phận bé nhỏ, đáng thương, những con người nghèo đói, tật nguyền, bệnh hoạn, cô đơn... Chị viết về tất cả những bi kịch của cuộc đời với một trái tim biết yêu thương và chia sẻ. Nhà văn không né tránh cái ác, cái xấu mà phanh phui đến tận cùng vì mục đích cao cả là hướng con người đến cái chân, cái thiện. Đằng sau những bế tắc của con người không hoàn toàn là niềm bi quan như ai đó đã từng đánh giá về kết thúc truyện ngắn của Võ Thị Hảo. Điều còn lại sau những trang viết có lẽ là sự tỏa sáng của lương tri con người. Bởi chỉ có lương tri con người mới giúp mỗi chúng ta nhận ra chân giá trị của những nỗi đau và bất hạnh. Quan niệm về văn chương và sứ mệnh của nhà văn đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách khai thác đề tài, cách nhìn nhận về con người, cũng như cách lựa chọn ngôn ngữ, thể hiện giọng điệu của nhà văn Võ Thị Hảo. 1.2.2. Quan niệm về con người và “thiên tính nữ” hay là “ý thức nữ quyền” 1.2.2.1. Quan niệm về con người Sau 1975, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, sự thức tỉnh trở lại của ý thức cá nhân đã mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới, làm đổi thay quan niệm về con người. Văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người với hạt nhân cơ bản là tư tưởng nhân văn, tinh thần nhân bản. Con người vừa là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ yếu, vừa là cái đích cuối cùng của văn học, đồng thời cũng là điểm quy chiếu, là thước đo giá trị của mọi vấn đề xã hội, mọi sự kiện và biến cố lịch sử. Nó báo hiệu xu hướng phát triển hướng nội, đi vào chiều sâu của văn học thời kỳ đổi mới, báo hiệu sự trưởng thành của nền văn học. Nói như nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà: Nhận thức đúng mối quan hệ giữa đời sống và chính trị, con người và giai cấp là một trong những điều kiện làm cho văn học chúng ta có khả năng phong phú và hấp dẫn hơn (...) Văn học, đặc biệt là văn học đã thực sự bước vào giai đoạn trưởng thành, không chỉ bày tỏ tình yêu, sự phẫn nộ hay lòng thương xót con người mà còn là một lĩnh vực quan sát và khám phá về con người. [80, 23]. Sự đổi mới quan niệm về con người trong văn học sau thời kỳ đổi mới được PGS Nguyễn Văn Long khái quát như sau: Con người trong văn học hôm nay được nhìn ở nhiều vị thế và trong tính đa chiều của mọi mối quan hệ: con người với xã hội, con người với lịch sử, con người của gia đình, gia tộc, con người với phong tục, với thiên nhiên, với những người khác và với chính mình. Con người cũng được văn học khám phá và soi chiếu ở nhiều bình diện, nhiều tầng bậc: ý thức và vô thức, đời sống tư tưởng tình cảm và đời sống tự nhiên, bản năng, khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, con người cụ thể, cá biệt và con người trong tính nhân loại phổ quát… [48, 16]. Như vậy, trong văn Việt Nam thời kỳ đổi mới, tính chất nhân văn của tác phẩm nghệ thuật được đề cao, con người với đời tư, cá tính, bản lĩnh, phẩm chất, năng lực cá nhân được chú trọng. Con người như một thế giới riêng phong phú, phức tạp, với số phận riêng, và trong mối quan hệ cũng hết sức đa dạng của nó đối với toàn xã hội, trở thành mối quan tâm hàng đầu của sáng tác. Bên cạnh đó, có thể thấy con người trong những tác phẩm văn học sau đổi mới đã được trả về với bản thể, nó tồn tại với tư cách một cái tôi đích thực, nó không đại diện cho một cái gì đó, hay nói lên một điều gì đó, mà nó là sự tự thể hiện, tự nói về bản thân mình bằng tiếng nói chân thành và say đắm nhất. Nhà văn luôn để cho nhân vật của mình vật vã trăn trở với chính bản thân, ở cái bản ngã nửa tối nửa sáng của họ. Và có khi các tác giả còn muốn “lộn trái” ra để phơi bày tất cả những xấu xa, đê tiện của con người. Từ Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn Huy Thiệp đã là một bước đi dài. Bên cạnh đó còn là sự góp tiếng của hàng loạt các cây bút đầy tâm huyết như Lại Văn Long, Tạ Duy Anh, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Dương Hướng, Phạm Thị Hoài… Chưa lúc nào hơn lúc này khát vọng được nói thẳng, nói thật lại trở nên vô cùng bức thiết như vậy, dù có lúc thật vật vã, khó khăn và đau đớn. Nói như một thời Hoài Thanh đã bày tỏ trong Thi nhân Việt Nam đó là “cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm u uất, cái khát vọng được thành thực. Một nỗi khát vọng khẩn thiết đến đau đớn”. Xuất hiện trong thời kỳ đổi mới, tác phẩm của Võ Thị Hảo thấm đẫm tinh thần chung của thời đại trong quan niệm về con người. Khảo sát qua tác phẩm và các ý kiến phát biểu trực tiếp của nhà văn, luận văn nhận thấy vấn đề quan niệm về con người của chị thường bộc lộ theo mấy khía cạnh sau: Trước hết, con người trong văn xuôi Võ Thị Hảo chủ yếu là con người thế sự, đời tư. Mỗi một con người là một số phận riêng với những mảnh đời khác nhau. Đó là con người đa diện với cả cái tốt đẹp lẫn cái xấu xa thấp hèn. Với mục tiêu nhìn nhận con người ở nhiều khía cạnh khác nhau, một cách sống động và thành thực nhất, nhà văn không ngần ngại để con người tự thú những xấu xa, bất lực cũng như những tham vọng thấp hèn, những khát khao thầm kín nhất. Rất nhiều chân dung trong sáng tác của Võ Thị Hảo không thể gọi là người tốt hay kẻ xấu, người cao thượng đạo đức hay giả dối mưu toan. Ranh giới giữa những cái trước đây vốn được “kẻ vạch” phân chia rất rạch ròi nay lại trở nên mờ hóa. Cảm giác mà nó đem lại cho người đọc cũng vậy. Với mỗi nhân vật đọc lên có lúc ta cảm thấy đồng tình có khi lại muốn phê phán, có lúc thấy yêu thương có khi lại căm ghét… Sự đa diện trong các chân dung nhân vật chính là chất men tạo nên sức hấp dẫn và lôi cuốn trong sáng tác Võ Thị Hảo nói riêng và của các nhà văn đương đại nói chung. Thứ hai, con người trong văn xuôi Võ Thị Hảo đầy bí ẩn với đời sống nội tâm phong phú và phức tạp. Nhân cách con người không chỉ là kết quả của lí trí, mà còn có sự tham gia của vô thức, tiềm thức, tâm linh. Sự cộng hưởng của các yếu tố này khiến cho hình tượng con người trong sáng tác của Võ Thị Hảo không chỉ bí ẩn, khác thường, mà đôi lúc trở nên xa lạ một cách đầy mê hoặc. Tâm trạng con người cũng được chú ý khơi sâu với những rung cảm tinh tế. Bằng cảm thức và sự nhạy cảm của một nhà văn nữ, Võ Thị Hảo đã xây dựng rất nhiều chân dung những con người tâm trạng, với những số phận chìm nổi khác nhau đặc biệt là những kiếp đàn bà đa đoan và bất hạnh. Điểm đáng chú ý trong quan niệm về con người của Võ Thị Hảo là nhà văn quan tâm nhiều đến sự bấp bênh trong số phận của mỗi cá nhân. Qua sáng tác của chị, con người dường như dễ trở nên bé nhỏ, đáng thương và tội nghiệp trong thế giới xô bồ, nhiều cạm bẫy bủa vây; con người đầy đau khổ với những bi kịch cá nhân triền miên không dứt. Ở khía cạnh này, con người trong văn xuôi nghệ thuật Võ Thị Hảo mang đậm dấu ấn hiện sinh. Trong quan niệm của các nhà hiện sinh chủ nghĩa, nỗi đau lớn nhất của kiếp người chính là không tìm thấy tiếng nói chung giữa cộng đồng, không tìm thấy được niềm đồng cảm để làm điểm tựa cho tâm hồn. Sự cô đơn như là một định mệnh mà con người phải chịu đựng. Trong văn học Việt Nam đương đại, người ta hay bắt gặp bóng dáng của con người vừa bước ra từ cuộc chiến, trở về với cuộc sống đời thường, họ đã mất đi cái sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng tập thể. Mất đi chỗ dựa, con người phải tự đứng lên bằng đôi chân của mình, tự mình quẫy đạp để tồn tại và dễ trở nên mỏng manh, yếu ớt, có khi bất lực và rơi vào bi kịch. Nhìn lại cuộc chiến đã đi qua con người lắm khi không khỏi cảm thấy rùng mình, ghê sợ. Thế giới chiến trận trong sáng tác của Võ Thị Hảo không còn cái không khí “đường ra trận mùa này đẹp lắm”, không còn cái hăm hở “một sớm vui sao cả nước lên đường”, mà thay vào đó là thế giới của chết chóc và hủy diệt nhân tính con người, thế giới của đau khổ và những nỗi buồn u uất triền miên, những ám ảnh rợn người dai dẳng. Thế hệ của những kẻ vừa rời chiến trận như người đàn ông trong Biển cứu rỗi, Thảo trong Người sót lại của rừng cười, người chồng trong Hồn trinh nữ trở thành một thế hệ lạc loài khi trở lại với những mối quan hệ đời thường sau cuộc chiến. Họ không còn là “những tượng đài bất tử” với những tấm huy chương sáng ngời trên ngực, lúc nào cũng phơi phới niềm tin hát vang những bản hùng ca lạc quan chiến thắng. Vinh quang của cuộc chiến chỉ còn là cái bóng mờ trong quá khứ, họ bị lột trần và trả về với bản chất của một con người thực thụ, cũng có những nỗi sợ hãi, lo âu thường trực đối với số phận của chính mình. Va đập với cuộc sống đầy bất trắc, họ trở nên bé nhỏ đáng thương hơn lúc nào. Giờ đây bước vào hành trình tìm kiếm bản thể, con người lao vào vòng quay vô tận của sự sống và cái chết, của hiện hữu và hư vô, hữu hạn và vô hạn của kiếp nhân sinh giữa cõi vô thường, có khi chỉ để bắt gặp ảo ảnh của mình, rồi trở thành “kẻ xa lạ” với chính mình, có khi đơn thuần chỉ là để nếm trải và rồi chấp nhận trả giá cho những sự lựa chọn của mình. Đến một lúc nào đó con người đã nhận ra rằng nỗi đau của phận người, một nỗi đau luôn đồng hành với con người trần thế chính là một tất yếu mà con người không thể nào phủ nhận. Võ Thị Hảo thường khai thác con người với những bi kịch triền miên. Xét trong những mối quan hệ nhất định, phần lớn các nhân vật trong sáng tác của chị ai cũng có nỗi khổ tâm riêng. Bậc quyền uy tột đỉnh ngất ngưởng trên ngai vàng như Thần Tông thì mang nỗi ám ảnh về cái chết của tiên vương và mối tình với nàng Nhuệ Anh được gieo từ kiếp trước, khiến cho không ít phen hoang mang, sợ hãi, tiếc nhớ, đến chết vẫn không thể nào thỏa mãn được khát khao chiếm hữu nàng cung nữ Ngạn La hoang dại. Hay một nguyên phi Ỷ Lan đầy quyền lực đến cuối đời cũng phải sống trong dằn vặt, đau đớn vì ám ảnh bởi những tội lỗi đã gây ra cho thái hậu họ Dương và bao nhiêu cung nữ (Giàn thiêu). Người giàu có cái khổ của người giàu, kẻ nghèo hèn thấp kém cũng có những bất an riêng. Với Ả Tuynh (Dệt cỏ) là nỗi khổ tâm bị cái nghèo bám riết, có nỗi oan khiên mà không biết phải kêu ai, cho đến chết vẫn ôm mối hận chưa đòi được người ta công nhận liệt sĩ cho chồng và phát cái sổ thương binh cho con trai bệnh tật. Cái nghèo, cái đói bám riết lấy số phận của những con người nhỏ bé. Kẻ thì đi bán cốt để có tiền vẽ tranh, thực hiện hoài bão của đời mình (Họa sĩ Xuân Tư trong Bán cốt), kẻ thì đi bán máu để cho chồng con được một ngày không phải mút tay (Ngần trong Ngày không mút tay), kẻ thì lay lắt kiếm sống qua ngày, vắt kiệt sức lực mà không có đủ cơm ăn, áo mặc (Ông Tiếu, bà Diễm trong Người gánh nước thuê), kẻ thì phải chọn lấy cái chết để giải thoát khỏi sự bế tắc của cuộc đời (Thùy Châu trong Vũ điệu địa ngục)... Nhìn chung, cuộc sống trong tác phẩm của Võ Thị Hảo là một thế giới nhiều tổn thương và đầy bất trắc, đó là thế giới của sự khủng hoảng về chân giá trị mà đôi khi muốn tồn tại con người phải trả giá bằng chính nhân phẩm của mình. Thông qua
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan