Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân từ thực...

Tài liệu đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh đăk nông .

.PDF
71
121
52

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC ĐẮK LẮK - NĂM 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐĂK NÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8. 38. 01. 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS - TS. ĐINH NGỌC VƯỢNG ĐẮK LẮK - NĂM 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của cá nhân tôi. Nội dung cũng như các số liệu trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ các công trình nghiên cứu khoa học nào khác. Tác giả luận văn NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện khoa học xã hội, các quý Thầy Cô đã trang bị tri thức cho tôi, tạo môi trường thuận lợi, điều kiện tốt nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này. Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới PGS-TS Đinh Ngọc Vượng đã khuyến khích, chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực hiện nghiên cứu này. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động viên, hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thành luận văn. Tác giả luận văn NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG 4 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................ 13 1.1.Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự ......................... 13 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự .............................................................................. 15 1.3. Các vấn đề về bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự .................................................................................................... 18 Chương 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THỰC TIỄN THỰC HIỆN TỈNH ĐĂK NÔNG ......................................................................................... 32 2.1 Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự ............................................. 32 2.2 Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự tại Đăk Nông.......... 35 2.3 Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự tại Đăk Nông ..... 37 2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại ............................................. 45 Chương 3 HOÀN THIỆN CÁC BẢO ĐẢM CỦA NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ....................................... 47 3.1 Hoàn thiện các bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự .................................................................................................... 47 3.2 Hai nhóm giải pháp nhằm nâng cao hoạt động tranh tụng tại tòa án .... 54 3.3. Các bảo đảm khác ................................................................................ 63 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 70 5 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CP Chính phủ CQĐT Cơ quan điều tra HĐXX Hội đồng xét xử KSV Kiểm sát viên NQ Nghị quyết QH Quốc hội TTHS Tố tụng hình sự TW Trung ương VKS Viện Kiểm sát 6 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật, tội phạm và các tranh chấp xảy ra có xu hướng tăng lên và có diễn biến phức tạp hơn trước. Mặc dù vậy, với đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị vững vàng, có tinh thần trách nhiệm cao nên công tác tư pháp đã có được nhiều kết quả tích cực, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Bên cạnh những thành tích đã đạt được, công tác tư pháp vẫn còn những hạn chế nhất định, dẫn đến các trường hợp tội phạm bị bỏ sót, hàm oan… Từ đó, làm ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Trước tình hình đó, nhằm từng bước khắc phục những hạn chế cũng như phát huy thành tích đạt được trong công tác tư pháp, ngày 02/01/2002 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 08/NQ-TW nhằm đề cao trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp, nâng cao chất lượng trong các hoạt động của ngành. Thực hiện việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, cải cách và đổi mới phương thức hoạt động của công tác tư pháp. Không chỉ phát triển về đội ngũ nhân lực, mà còn phải đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hóa trang thiết bị và chế độ chính sách cho cán bộ tư pháp. Ngoài ra, cần tiếp tục thực hiện huy động sự tham gia của người dân vào công tác tư pháp, tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật, tiến hành nghiên cứu khoa học và tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp [1]. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm đã được nghị quyết chỉ ra là pháp luật phải bảo đảm được sự bình đẳng, dân chủ và khách quan đối mọi người dân. Việc xét xử các vụ án phải thực hiện đúng theo pháp luật trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của những người tham gia hoặc có 7 liên quan trực tiếp đến vụ án và những người có quyền, lợi ích hợp pháp. Và phán quyết phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, để có kết quả phù hợp với quy định của pháp luật và hạn định. Bên cạnh đó, các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào các quá trình diễn ra vụ án cũng như xét xử [1]. Nhằm tiếp tục hoàn thiện và tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật, ngày 24/5/2005 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 48/NQ-TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Nghị quyết này đã khẳng định việc cải cách các thủ tục tư pháp phải bảo đảm sự minh bạch, dan chủ, bình đẳng, chặt chẽ. Bên cạnh đó, cũng cần phải bảo đảm được sự thuận tiện, sự tham gia, giám sát của người dân. Nghị quyết tiếp tục khẳng định rằng: Chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử phải được bảo đảm. Kết quả tranh tụng tại toà chính là căn cứ quan trọng để tòa án đưa ra phán quyết, đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà đối với tất cả các loại khiếu kiện hành chính”[4]. Tuy vậy, với tình hình trong nước và quốc tế có sự biến động không ngừng, Bộ chính trị lại tiếp tục ban hành Nghị quyết 49/NQ-TW vào ngày 02/6/2005. Nghị quyết nhằm chỉ ra phương hướng và nhiệm vụ đối với công tác tư pháp trong tình hình mới. Theo đó, một trong những nhiệm vụ chính là “Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan, đơn vị thực hiện công tác tư pháp cũng như các cá nhân thực hiện công tác này. Bên cạnh đó, cũng cần tiếp tục chú trọng việc hoàn thiện bộ máy của các cơ quan tư pháp, nhất là tòa án nhân dân”. Khâu đột phá của hoạt động tư pháp được thực hiện thông qua đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh và chất lượng [5]. Việc phán quyết của Toà án trước hết phải tuân thủ theo quy định của pháp luật. Sự thật vụ án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, bảo 8 đảm xét xử đúng đối tượng, đúng mức độ, loại hình vi phạm. Trong thực tế, nguyên tắc tranh tụng trong Tố tụng hình sự đã được ghi nhận và được quy định trong Hiến pháp, luật pháp, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bảo đảm được quyền lợi của bên nguyên đơn, bị đơn và những người tham gia tố tụng khác. Để xảy ra tình trạng trên xuất phát bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Một trong nhiều nguyên nhân đáng chú ý là trong Tố tụng hình sự, các chủ thể tham gia tố tụng chưa nhận thức đầy đủ và chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng. Trong xu hướng xây dựng nền tư pháp hiện đại, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế thì việc bảo vệ tối đa quyền con người và quyền công dân luôn được đặc biệt chú trọng. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013) đã khẳng định phải bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án. Hiến pháp là đạo luật gốc, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, do vậy quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp là tiền đề để xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo đảm tính tranh tụng trong các văn bản pháp luật tố tụng nói chung và trong BLTTHS nói riêng. Bên cạnh những thành tựu của sự phát triển của nền kinh tế và xã hội, là tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, các vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng. Đứng trước tình hình đó, sự nỗ lực của các cơ quan tố tụng đã góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm tình hình an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội [5]. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, các nghị quyết của Bộ Chính trị cũng chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong công tác tư pháp nói chung và cơ quan xét xử nói riêng. Việc thực hiện tố tụng, xét xử đôi khi còn phạm phải những sai sót như cho hưởng án treo chưa đúng, hay bỏ sót tội phạm, hàm oan người vô tội… Trong quá trình diễn ra tranh tụng tại phiên tòa, giữa một bên là người buộc tội và một bên là người gỡ tội, hội đồng xét xử có vai trò đưa ra phán 9 quyết, nghiêm túc quan sát tuân thủ tranh tụng của hai bên, điều khiển phiên tòa. Trong quá trình thực hiện buộc tội - bào chữa - xét xử đều được công khai dưới sự giám sát của hội đồng xét xử. Thông qua các chứng cứ đã được xem xét tranh luận tại phiên tòa và bằng niềm tin nội tâm của mình, người thẩm phán đưa ra nhận định, đánh giá để có phán quyết chính xác nhất. Bên cạnh những nghị quyết do Bộ Chính trị ban hành, quá trình triển khai công tác tư pháp trong thực tế, còn cần phải tiến hành những nghiên cứu, đánh giá để bổ sung thêm các giải pháp tình thế cũng như dài hạn nhằm góp phần hoàn thiện hơn pháp luật của nhà nước. Bên cạnh những công trình nghiên cứu chung về pháp luật, về công tác tư pháp ở tầm vĩ mô, cần phải có thêm những công trình nghiên cứu về việc thực hiện công tác tư pháp ở các địa phương cụ thể. Thông qua đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đăk Nông” để nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện hơn về mặt lý luận cũng như về tính thực tiễn của các quy định có liên quan đến công tác tư pháp trong bối cảnh hiện nay. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài Trước khi chọn đề tài này, bản thân đã có thời gian làm công tác xét xử và nghiên cứu qua nhiều bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu pháp lý đã được công bố như các bài viết đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý, tạp chí Viện kiểm sát, tạp chí Tòa án nhân dân: “ Cải cách tư pháp và các giải pháp phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự” của tác giả TS. Trịnh Tiến Việt năm 2012 [20]; “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thái Phúc năm 2007 [8]; “Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Hồng Hải năm 2009 [7]; “Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Mai năm 2009; “Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự” sách chuyên khảo của PGS.TS Nguyễn 10 Hòa Bình làm chủ biên [2]. Mặc dù các công trình nghiên cứu mà chúng tôi được tiếp cận đều nghiên cứu dưới góc độ vĩ mô, nhưng thông qua đó, tạo nền tảng để chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn này. Thông qua các phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá những khiếm khuyết trong quá trình áp dụng thực tiễn theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam chúng tôi thực hiện các nội dung trong khuôn khổ đề tài “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đăk Nông”. Từ việc nghiên cứu, lý luận kết hợp với thực tiễn tại địa phương, chúng tôi đề xuất một số giải pháp với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về các vấn đề lý luận bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu này nhằm hệ thống hóa các khái niệm, luận cứ về mặt lý luận và thực tiễn đối với bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Bên cạnh đó, tác giả cũng mong muốn làm rõ hơn yêu cầu phải cải cách tư pháp trong bối cảnh hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về các vấn đề lý luận bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích đã đề ra, công trình nghiên cứu của tác giả tiến hành thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể như sau: Thứ nhất, luận văn tiến hành phân tích các khái niệm và làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thông qua: nội dung, yêu cầu, vai trò và ý nghĩa của nó. Thứ hai, tác giả tiến hành tìm hiểu, đánh giá về thực trạng thực bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Đăk Nông theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. 11 Thứ ba, từ thực trạng trên, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong bối cảnh hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong công trình này, nhóm đối tượng nghiên cứu bao gồm: lý luận về cải cách tư pháp; nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài này tác giả chú trọng vào việc làm sáng tỏ một số vấn đề về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở địa bàn tỉnh Đăk Nông theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Nghiên cứu được tiến hành từ khi Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành đến nay, cụ thể là trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2018. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Để tiến hành nghiên cứu này, phương pháp luận được dựa trên những cơ sở gồm: chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp, pháp luật của nhà nước. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau gồm: phương pháp lịch sử - hệ thống, phương pháp thống kê - phân tích, phương pháp tổng hợp - so sánh. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận, luận văn được thực hiện với mong muốn góp phần bổ sung lý luận về cải cách tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử; bổ sung hoàn thiện lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Toà án nhân dân. Về mặt thực tiễn, luận văn nhằm góp phần chỉ ra hạn chế trong các quy 12 định của pháp luật thông qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật tại địa bàn nghiên cứu. Qua đó, tác giả đề xuất xây dựng những giải pháp nhằm góp phần nâng cao tính hiệu quả của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của nghiên cứu được chia thành các phần cụ thể gồm: Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trong các vụ án hình sự. Chương 2. Thực trạng bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Đăk Nông. Chương 3. Hoàn thiện các bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trong các vụ án hình sự. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1.Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa được thực hiện để bảo đảm tính công bằng, công khai, dân chủ giữa những người tham gia tố tụng với Kiểm sát viên. Trong tố tụng hình sự, hoạt động tranh tụng là một trong những nội dung có ý nghĩa quan trọng, là một trong những căn cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tầm quan trọng của tranh tụng trong xét xử đã được thể hiện trong nhiều văn bản trước đây như: Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01/01/2002, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 v.v… Thông qua việc ban hành Hiến pháp năm 2013, việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử lần đầu tiên được ghi nhận thành một nguyên tắc. Đây là bước tiến lớn trong hoạt động xây dựng pháp luật và phù hợp với công cuộc tiến hành cải cách tư pháp của Đảng và của Nhà nước. 13 Nguyên tắc làm cho hoạt động xét xử phải bảo đảm giữa cán bộ tư pháp, giữa các bên với nhau và những người có liên quan, tham gia tố tụng có sự bình đẳng như nhau trong việc đưa ra chứng cứ, buộc tội, bào chữa và tranh luận công khai, dân chủ tại phiên tòa đang diễn ra. Hội đồng xét xử phải căn cứ từ kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa để đưa ra những phán quyết. Trách nhiệm bảo đảm các điều kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thuộc về Hội đồng xét xử. Những vấn đề có liên quan giữa các bên tranh tụng đều phải được đối đáp, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có trách nhiệm xem xét mọi chứng cứ để xác định có tội hoặc vô tội, tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thông qua các chứng cứ, tình tiết có liên quan, áp dụng Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định mức hình phạt, mức bồi thường để khắc phục hậu quả cho người bị hại. Có thể nói, thông qua Hiến pháp sửa đổi năm 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận. Đây chính là tư tưởng là nền tảng cho những những quy định của pháp luật và thực thi pháp luật. Trong Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành, nguyên tắc tranh tụng được cụ thể hoá ra sao? Phạm vi điều chỉnh như thế nào? Có những nội dung nào trong nguyên tắc này?...là những vấn đề đã và đang được các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà làm luật và các cơ quan hữu quan tìm hiểu xây dựng để ngày càng hoàn thiện hơn. Theo quy định pháp luật của nước ta hiện nay, nguyên tắc tranh tụng về cơ bản bao gồm nội dung chủ yếu sau: Trong hoạt động xét xử, trọng tâm là tranh tụng. Vai trò của Hội đồng xét xử là phải bảo đảm và không hạn chế thời gian tranh tụng giữa Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng khác. Các bên tham gia tranh tụng có sự bình đẳng với nhau về đưa bằng chứng, chứng cứ, các quan điểm, luận cứ và luận chứng của mình. Sự bình 14 đẳng còn được thể hiện trong đối đáp hay tranh luận, trong chứng minh hay bác bỏ quan điểm giữa các bên tham gia tranh tụng với nhau. Quá trình diễn ra tranh tụng phải gắn với tinh thần thượng tôn pháp luật, giữa các bên có sự tôn trọng lẫn nhau, cũng như văn hoá ứng xử tại phiên tòa. Trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu chứng cứ, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà để đưa ra bản án và quyết định cuối cùng. Trách nhiệm bảo đảm các điều kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thuộc về Hội đồng xét xử, để các bên có thể tham gia tranh tụng. Qua đó cho thấy, nguyên tắc tranh tụng được thực thi từ khi mở cho đến khi kết thúc phiên toà xét xử vụ án hình sự. Trong đó, tập trung chính vào phần tranh luận của Kiểm sát viên với những người có liên quan, tham gia tố tụng. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự Trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1989, 2003 đều quy định trình tự tố tụng tại phiên toà xét xử sơ thẩm và phúc thẩm tương tự như nhau, bao gồm các thủ tục mở đầu, xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án. Thủ tục mở đầu phiên toà nhằm kiểm tra các điều kiện cần thiết cho việc mở phiên toà. Thủ tục xét hỏi nhằm kiểm tra và công khai toàn bộ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ; xem xét các mâu thuẫn (nếu có) của các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ; công bố bổ sung và kiểm tra các tài liệu, chứng cứ mới do các bên cung cấp tại phiên toà. Tranh luận là trình tự tố tụng mà các bên trong TTHS (bên buộc tội và bên gỡ tội) dựa trên các chứng cứ, các quy định của pháp luật, đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng để làm rõ các vấn đề trong vụ án. Trong các trình tự tố tụng diễn ra tại phiên toà, chỉ có trình tự tranh luận là có sự diễn ra đối đáp hai chiều, có đi có lại giữa quan điểm của các bên buộc tội và gỡ tội. Thông qua tranh luận, đối đáp, 15 phản biện, bác bỏ quan điểm lẫn nhau để có cơ sở khẳng định quan điểm của mỗi bên. Nhìn chung, mỗi trình tự tố tụng đều có ý nghĩa pháp lý riêng trong việc nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án, tuy nhiên hoạt động tranh tụng của KSV là hoạt động trọng tâm tại phiên toà xét xử. Trong công tác cải cách tư pháp, Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính đã xác định rằng trước hết cần phải nâng cao chất lượng của người đóng vai trò công tố, việc tranh tụng cần bảo đảm được tính dân chủ với Luật sư, và với những người tham gia tố tụng. Trong quá trình xét xử, tòa án có vai trò bảo đảm sự bình đẳng của các bên tham gia tranh tụng. Người giữ vai trò Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và thực hiện nhiệm vụ của mình chỉ tuân theo các quy định pháp luật. Các phán quyết phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các bản án cần phải đúng với quy định, thuyết phục và trong thời gian quy định của pháp luật. Một trong những hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước là phải nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị và Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012. Qua đó cho thấy khái niệm tranh tụng xuất hiện chính thức qua các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Khái niệm này cũng đã được đưa vào trong quy định của Hiến pháp từ năm 2013. Ở đây hoạt động tranh luận của KSV và những người tham gia tố tụng tại phiên toà xét xử vụ án hình sự (gồm cả sơ thẩm và phúc thẩm) là tranh tụng. Trong đó, KSV và người tham gia tố tụng dựa trên các quy định của pháp luật, qua các chứng cứ, với tư duy logic hình thức để xây dựng nên các luận điểm, luận cứ và luận chứng nhằm đưa vụ án về đúng với sự thật khách quan của nó. Từ những phân tích, trình bày ở trên cho thấy, bản chất của khái niệm “tranh tụng” được nhìn dưới hai góc độ pháp lý và nhận thức. Bản chất của tranh tụng dưới góc độ pháp lý bao gồm: 16 Tranh tụng được thực hiện bởi sự tham gia của Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng khác, phải tuân theo các quy định của Bộ luật TTHS. Các bên tham gia tranh tụng ở những vai trò khác nhau nhưng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các hoạt động nhằm đưa vụ án kết thúc. Kiểm sát viên có thể tranh tụng với luật sư, với người phạm tội, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm sáng tỏ mục đích của người tham gia tranh tụng. Trong quá trình diễn ra hoạt động tranh tụng tại phiên toà, chủ toạ phiên toà có quyền có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng hoặc chấm dứt tranh tụng. Nội dung, phương pháp tranh tụng được người chủ tọa điều chỉnh trong toàn bộ quá trình diễn ra tại phiên tòa để làm rõ vụ án và đúng theo quy định của pháp luật. Tìm ra sự thật khách quan của vụ án chính là mục tiêu mà hoạt động tranh tụng nhắm đến, bao gồm: dưới góc độ thực tiễn và dưới góc độ pháp lý. Về góc độ pháp lý, được khái quát từ thực tiễn và trên cơ sở pháp luật hình sự và Bộ luật TTHS. Các quan điểm, luận cứ và luận chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án chính là đối tượng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa. Các bên chủ thể tranh tụng dựa vào các quy định của pháp luật hiện hành, sử dụng các chứng cứ trong hồ sơ cũng như chứng cứ mới cung cấp đã được kiểm tra tại phiên tòa, để làm rõ các đối tượng tranh tụng là cách thức thực hiện tranh tụng. Khi xem xét tranh tụng là hoạt động nhận thức thì bản chất của tranh tụng trước hết là được tiến hành trên cơ sở tư duy logic hình thức. Các bên tham gia tranh tụng sử dụng các hình thức, biện pháp khác nhau để khẳng định, bác bỏ hoặc thừa nhận quan điểm của các bên tham dự phiên tòa. Các bên tham gia tranh tụng có quyền và có trách nhiệm tiến hành tranh tụng, và điều đó còn là một phần của sự thật khách quan của vụ án. Xét về nguyên tắc, thông qua tranh tụng chân lý về vụ án phải được tìm thấy. Còn 17 với trường hợp vụ án có đầy đủ bằng chứng, người vi phạm tự giác nhận tội và không có các ý kiến trái chiều thì không diễn ra hoặc chỉ diễn ra việc tranh tụng ở chừng mực nào đó mà thôi. 1.3. Các vấn đề về bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự Vấn đề bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự để loại bỏ tình trạng oan sai, bảo đảm quyền con người đã được Đảng đề cập trước hết trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị. Kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các chứng cứ và ý kiến của KSV… được tòa án lấy làm căn cứ để ra những bản án đúng pháp luật và có sức thuyết phục”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng đã đề ra yêu cầu: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả phiên tòa xét xử. Đây được xem Bộ chính trị xem là hoạt động đột phá của các cơ quan tư pháp. Với các Nghị quyết nêu trên cho thấy quan điểm của Đảng coi tranh tụng là khâu đột phá trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp, nâng cao chất lượng tranh tụng sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xét xử, tránh oan sai và bảo vệ các quyền cơ bản của người bị buộc tội. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự thể hiện qua các Nghị quyết của Đảng là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về tố tụng hình sự. Thực hiện các quan điểm chỉ đạo của Đảng, vấn đề bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự đã từng bước thể chế hóa đưa vào quy định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật về tố tụng hình sự, được hệ thống Tòa án áp dụng vào thực tiễn công tác xét xử từ nhiều năm qua. Về mặt pháp lý, mặc dù thuật ngữ “tranh tụng” chưa được đề cập chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể, mới chỉ quy định tại 18 Chương XXI của Bộ luật TTHS là tranh luận tại phiên tòa, song từ thực tế hoạt động xét xử các vụ án hình sự có thể hiểu: tranh tụng trong tố tụng hình sự là tranh luận giữa các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội) dựa trên những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, làm cơ sở cho việc ra phán quyết của Tòa án. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có nhiều quy định bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa như Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng có quyền yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu để xem xét (Điều 305); người bào chữa có quyền bình đảng với Kiểm sát viên, người bào vệ quyền lợi của đương sự trong việc xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác (các Điều 307, 309, 311, 312 và 316) có quyền cùng Hội đồng xét xử xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ hiện trường nơi xảy ra tội phạm và trình bày nhận xét của mình (Điều 312, 314) và trình tự phát biểu khi tranh luận và đối đáp. Tòa án là trung tâm, xét xử là trọng tâm, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong quá trình thực hiện việc xét xử là chủ trương đã được Đảng ta xác định. Để bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, nhiều quy định đã được bổ sung trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Cụ thể bộ luật TTHS đã quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên, của những người tham gia tố tụng về việc bổ sung các chứng cứ, tài liệu, triệu tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa, việc thay đổi thành viên hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, kiểm sát viên, đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Điều 279) Để khắc phục tình trạng chất lượng tranh tụng còn hạn chế ở những phiên tòa có đông bị cáo và có nhiều luật sư tham gia theo quy định cũ chỉ có hai kiểm sát viên tham gia (Điều 189 – Bộ luật TTHS 2003). Do vậy Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định: Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt, kiểm sát xét xử tại phiên tòa; phải hoãn 19 phiên tòa nếu Kiểm sát viên không có mặt tham dự. Có thể có nhiều Kiểm sát viên trong quá trình tranh tụng khi vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp (Khoản 1 Điều 289); Đặc biệt, nhằm giúp cho việc tranh tụng thể hiện ở phần tranh luận và cả trong phần xét hỏi, Mục V thuộc chương XXI của Bộ luật TTHS năm 2015 đã xuất hiện nội dung “thủ tục tranh tụng tại phiên tòa”. Đồng thời, về trình tự xét hỏi cũng đã được sửa đổi, bổ sung thêm các quy định. Các sự việc, chứng cứ và người có liên quan được Hội đồng xét xử xác định đầy đủ theo đúng quy định. Quá trình điều hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý thuộc về thẩm quyền của Chủ tọa phiên tòa (Khoản 1 Điều 307). Tại phiên tòa, để có cơ sở thực hiện tranh luận dân chủ, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung quy định về vai trò và trách nhiệm cũng như các công việc của Kiểm sát viên phải thực hiện. Các công việc đó phải dựa trên cơ sở pháp luật, để nhằm giải quyết vụ án có hiệu quả, chính xác nhất. Đề nghị kết tội, xử lý người phạm tội theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc đề nghị các mức hình phạt khác nhau, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng. Kiến nghị cách phòng ngừa tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật (Điều 321) và nhấn mạnh trách nhiệm của Kiểm sát viên là phải đưa ra chứng cứ, lập luận để tranh tụng trong suốt quá trình, trong từng ý kiến của những người tranh tụng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Khoản 4 Điều 322 quy định rằng trường hợp ý kiến của những người tham gia phiên tòa không được chấp nhận thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và những lý giải đó được lưu giữ trong bản án. Trước đây, mô hình tố tụng hình sự ở nước ta theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chủ yếu là mô hình thiên về xét hỏi. Tranh tụng chỉ được thể hiện trong quá trình xét xử tại Tòa án giữa Viện kiểm sát và những 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan