Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật việt nam [tt]...

Tài liệu Dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật việt nam [tt]

.PDF
27
552
90

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGÔ HỮU PHƯỚC DẪN ĐỘ TRONG LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 62.38.01.04 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2012 2 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS Võ Khánh Vinh 2. TS. Nguyễn Thị Phương Hoa Phản biện 1: GS.TS Nguyễn Ngọc Anh Phản biện 2: PGS.TS Hoàng Thị Minh Sơn Phản biện 3: TS. Võ Thị Kim Oanh Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Trường tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, số 02 Nguyễn Tất Thành, quận 4, TP. Hồ Chí Minh. Vào hồi……….giờ………ngày……….tháng………..năm 2009 Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia Thư viện Viện Nhà nước và pháp luật 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng nhiều thành tựu và cơ hội to lớn để phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế cũng phát sinh nhiều nguy cơ, thách thức lớn đối với các quốc gia như bất ổn chính trị, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tệ nạn xã hội... trong đó có tình hình tội phạm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, đe dọa đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia cũng như hòa bình và an ninh quốc tế. Theo thống kê của INTERPOL, hàng năm trên thế giới xảy ra hơn 700 vụ khủng bố, làm trên 7.000 người chết và khoảng 12.000 người bị thương. Các loại tội phạm hình sự nguy hiểm như giết người, cướp tài sản, bắt cóc tống tiền, hoạt động băng nhóm tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia ngày càng tăng tại hầu hết các nước trên thế giới. Các tội phạm ma túy xuyên quốc gia, tội phạm buôn bán người, nhất là phụ nữ, trẻ em đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Tình hình hoạt động của các đường dây, tổ chức đưa người nhập cư bất hợp pháp trên thế giới tiếp tục gây ra nhiều vấn đề phức tạp đối với an ninh, trật tự của nhiều quốc gia. Các tội phạm kinh tế xuyên quốc gia ngày càng diễn biến phức tạp hơn cả về địa bàn hoạt động, cũng như tính chất và mức độ nghiêm trọng… Không ngoài xu thế chung của thế giới, sau khi gia nhập WTO và hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi để phát triển đất nước, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều nguy cơ và thách thức lớn đối với nền kinh tế, văn hóa, xã hội, chủ quyền và an ninh quốc gia trong đó có tình hình tội phạm ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp. Theo báo cáo tổng quan về tình hình tội phạm ở Việt Nam của Tổng cục Cảnh sát cho thấy, mỗi năm ở nước ta xảy ra khoảng 82.555 vụ phạm tội xâm phạm trật tự an toàn xã hội, trong đó có 57.415 vụ phạm tội về hình sự, 14.139 vụ phạm tội về kinh tế, 11.001 vụ phạm tội về ma túy... Trung bình mỗi ngày xảy ra khoảng 227 vụ, mỗi giờ xảy ra 9,5 vụ... Hiện nay, ở Việt Nam đã hình thành các đường dây buôn bán phụ nữ, trẻ em từ Việt Nam sang các nước trong khu vực, thậm chí đến các nước Châu Âu, Châu Phi. Ở Việt Nam đã xuất hiện một số băng nhóm tội phạm gốc Hoa cấu kết với các băng nhóm tội phạm trong nước để hoạt động phạm tội như bảo kê, cướp tài sản, giết người... Các hoạt động buôn lậu ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam và từ Việt Nam ra nước ngoài diễn biến hết sức phức tạp, đã xuất hiện ngày càng nhiều đường dây buôn bán vận chuyển các chất ma túy xuyên quốc gia, chủ yếu là hê-rô-in, các loại ma túy tổng hợp, cần sa với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi. Bên cạnh đó, hàng năm có hàng triệu lượt người nước ngoài và kiều bào Việt Nam (trong tổng số hơn 04 triệu người đang định cư trên 103 quốc gia và vùng lãnh thổ) nhập cảnh vào Việt Nam để thăm thân nhân, đầu tư, kinh doanh, du lịch... Trong số đó có nhiều phần tử lợi dụng cơ hội đến Việt Nam để thực hiện tội phạm. Do vậy, tình hình người nước ngoài và người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài rồi trốn vào Việt Nam và phạm tội ở Việt Nam rồi trốn ra nước ngoài trong thời gian qua có xu hướng gia tăng. Trước diễn biến tình hình tội phạm trong nước và thế giới ngày càng diễn biến phức tạp, đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường liên kết, hợp tác đồng bộ và toàn diện bằng tất cả các biện pháp chính trị, pháp luật, kinh tế, an ninh... từ bình diện khu vực, liên khu vực và toàn cầu nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, 4 chống tội phạm. Trong đó, dẫn độ là biện pháp tất yếu khách quan và hiệu quả nhất để các quốc gia truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt đối với người phạm tội ở quốc gia này nhưng đang lẩn trốn tại quốc gia khác. Tuy nhiên, về phương diện khoa học pháp lý, dẫn độ là vấn đề còn rất mới ở Việt Nam nên chưa có nhiều công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện. Mặt khác, hoạt động đàm phán, ký kết ĐƯQT về dẫn độ và thực tiễn dẫn độ ở Việt Nam từ trước đến nay cũng chưa được nghiên cứu và tổng kết. Do đó, việc áp dụng ĐƯQT có quy định về dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập và pháp luật Việt Nam gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, hiệu quả dẫn độ ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy, để thực hiện có hiệu quả dẫn độ ở Việt Nam thì tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận, tổng kết thực tiễn về dẫn độ là yêu cầu cấp thiết và có tính thời sự rất lớn trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát từ nhận thức và thực trạng nói trên, tác giả chọn đề tài: “DẪN ĐỘ TRONG LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM” làm Luận án Tiến sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dẫn độ là một hình thức hợp tác quốc tế được điều chỉnh đồng thời bởi pháp luật quốc tế (các ĐƯQT có quy định về dẫn độ và các ĐƯQT về quyền con người) và pháp luật quốc gia (Luật Dẫn độ, Luật Tố tụng hình sự, Luật Tương trợ tư pháp... ). Do vậy, từ trước đến nay trong lĩnh vực khoa học pháp lý ở Việt Nam và nước ngoài, vấn đề dẫn độ có thể được nghiên cứu dưới góc độ là một chế định của Luật Quốc tế, Luật Hình sự quốc tế, Luật Quốc tế về quyền con người và dẫn độ cũng có thể được nghiên cứu dưới góc độ là một chế định của pháp luật quốc gia, thuộc chuyên ngành khoa học pháp lý về hình sự, tố tụng hình sự và tương trợ tư pháp. Trên bình diện quốc tế, từ cuối thế kỷ thứ XIX đến nay, ở Châu Âu đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về độc lập về dẫn độ hoặc nghiên cứu về luật hình sự quốc tế, luật quốc tế về quyền con người có đề cập đến dẫn độ của các tác giả có uy tín lớn trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Tiêu biểu là các công trình đã được xuất bản thành giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, hoặc được công bố trên các Tạp chí khoa học pháp lý của các tác giả như: Nhóm này bao gồm các công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được xuất bản thành giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, hoặc được công bố trên các Tạp chí khoa học pháp lý của các tác giả như: Edmond Poullet, (1867), “Luật hình sự cổ của Duché Brabant”, Bruxelles, M.Hayer, Viện Hàn lâm Vương quốc Bỉ; Louis Renault (1879),“Nghiên cứu về dẫn độ giữa Pháp và Anh”,Nhà xuất bản A.Cotillon; André (1880),“Nghiên cứu về các điều kiện dẫn độ”, Nhà xuất bản L.Larose; Maurice Violet (1898),“Thủ tục dẫn độ, đặc biệt tại lãnh thổ nước tị nạn”, Nhà xuất bản Giard & Brière; Charles Soldan (1882),“Dẫn độ tội phạm chính trị”, Nhà xuất bản Thorin; Maulineau (1879),“Hậu quả pháp lý của dẫn độ”, Nhà xuất bản F.Le Blanc-Hardel; Paul Bernard (1890),“Lý luận và thực tiễn dẫn độ”, tái bản lần 2, Nhà xuất bản Duchemin; Viện Luật quốc tế (1923),“Tuyển tập các vụ việc của Tòa án”; Ivan Anthony Shearer (1971),“Dẫn độ trong luật quốc tế”, Nhà xuất bản Manchester University Press Dobbs Ferry, N.Y, Oceana Publications Kalfat (1987),“Áp dụng các ĐƯQT và pháp luật quốc gia trong dẫn độ bị động”, luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự, Đại học Paris 2; Ducel (André) (1988),“Nghiên cứu so sánh thực tiễn dẫn độ của Pháp với các nước Anh - Mỹ”, luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật quốc tế, Đại học Monpellier I; Henry (F.), Ép. Ringel (1988),“Tội phạm chính trị trong pháp luật về dẫn độ”, luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật quốc tế, Đại học AixMarseille; Ingeade (1988),“Chế độ pháp lý của dẫn độ trong khuôn khổ của Hội đồng Châu Âu”, luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật quốc tế, Đại học Monpellier I; Loued, Mohamed Naceur (1989),“Thủ tục dẫn độ bị 5 động trong pháp luật hiện đại của Pháp”, luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành tố tụng hình sự, Đại học Khoa học xã hội Toulouse; Zari (Anna), (1991),“Nguyên tắc đặc biệt trong dẫn độ nhìn từ góc độ quyền con người”, luận án Tiến sĩ Luật học, chuyên ngành Luật quốc tế, Đại học Paris I; André VITU (1992), “Ám sát chính trị trong luật quốc tế và dẫn độ”, Nhà xuất bản Gazette Palais; Adrien Masset và Anne Sophie Massa (2007), “Dẫn độ”, Tạp chí Khoa học về tội phạm, Đại học Liège, Vương quốc Bỉ; Ủy ban Châu Âu về vấn đề tội phạm (CDPC) và Ủy ban chuyên gia về thực thi các Công ước của Châu Âu trong lĩnh vực hình sự (2003),“Công ước Châu Âu về dẫn độ - Hướng dẫn và thủ tục”; Gilbert. G (1991),“Luật dẫn độ và vấn đề quyền con người”, Nhà xuất bản Martimes Nijhoff; Claudin DIB (2008),“Dẫn độ và trừng phạt độc ác, vô nhân đạo và các giải pháp khả dĩ tại Canada”, luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Québec, Montréal, Canada Ở Việt Nam, từ cuối thế kỷ XX đến nay đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu độc lập về dẫn độ, về hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, về hợp tác tương trợ tư pháp quốc tế nói chung và hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự nói riêng đã được công bố trong các cuốn sách chuyên khảo, tham khảo hoặc đã được đăng tải trên các Tạp chí chuyên ngành khoa học pháp lý tiêu biểu là công trình của các tác giả: Nguyễn Ngọc Anh (2000),“Hoạt động dẫn độ tội phạm theo Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 5; Dương Tuyết Miên (2006),“Vấn đề dẫn độ tội phạm ”, Tạp chí TAND số 10 (5); Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Việt Hồng, Phạm Văn Công (2006), “Dẫn độ những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; Đào Thị Hà (2006),“Vấn đề dẫn độ trong pháp luật Việt Nam”, luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Thủy (2007),“Một số vấn đề về dẫn độ tội phạm”, Tạp chí Kiểm sát số 16 (8); Nguyễn Xuân Yêm (2000), “Dẫn độ tội phạm, tương trợ pháp lý về hình sự và chuyển giao phạm nhân quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Xuân Yêm (2000),“Dẫn độ tội phạm và tương trợ tư pháp hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam”, Tạp chí TAND số 1 (1); Nguyễn Thị Mai Nga (2007),“Dẫn độ tội phạm và hoạt động tương trợ tư pháp của Viện Kiểm sát trong giải quyết các vụ án ma túy có yếu tố nước ngoài”, Tạp chí Kiểm sát số 16 (8); Nguyễn Ngọc Anh, Bùi Anh Dũng (2007), Hợp tác quốc tế đấu tranh phòng, chống tội phạm của lực lượng cảnh sát nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Quốc Cường (2008),“Hợp tác quốc tế về tố tụng hình sự trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí TAND số 2 (1); Chử Văn Dũng (2008),“Hoạt động INTERPOL trong thực hiện tương trợ tư pháp hình sự và dẫn độ tội phạm ở Việt Nam”, luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân; Đại học Cảnh sát nhân dân (2009),“Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự trong điều tra tội phạm có yếu tố nước ngoài của lực lượng cảnh sát nhân dân - Lý luận và thực tiễn”, đề tài nghiên cứu khoa cấp bộ, mã số: BX-2008-T4823; Nguyễn Giang Nam (2011),“Hoạt động tương trợ tư pháp hình sự và dẫn độ tội phạm trong điều tra tội phạm có yếu tố nước ngoài”, luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân... Từ tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và quốc tế về dẫn độ như đã đề cập ở trên chúng tôi thấy rằng, các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước và nước ngoài đã rất thành công trong việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật quốc gia cũng như thực tiễn ký kết, gia nhập, thực hiện ĐƯQT và pháp luật về dẫn độ của một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam. Kết quả của các công trình nghiên cứu về dẫn độ trong nước và nước ngoài đã đóng góp rất to lớn trong việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện chế định dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về dẫn độ cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện như: Khái niệm, đặc 6 điểm và nguyên tắc của dẫn độ; phân biệt dẫn độ với các hình thức hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; đối tượng, phạm vi và thủ tục dẫn độ; vai trò của Tòa án trong lĩnh vực dẫn độ; dẫn độ với vấn đề bảo vệ quyền con người trong giai đoạn hiện nay... Chính vì vậy, tiếp tục nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam vẫn rất cần thiết trong lĩnh vực khoa học pháp lý hình sự và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án a. Mục đích nghiên cứu: Luận án nghiên cứu toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam nhằm góp phần hoàn thiện các ĐƯQT có quy định về dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập và pháp luật Việt Nam về dẫn độ đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện ĐƯQT và pháp luật Việt Nam về dẫn độ. a. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận án có 3 nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau đây: 1. Củng cố và hoàn thiện các vấn đề lý luận cơ bản về dẫn độ. 2. Nghiên cứu các quy định về dẫn độ trong các ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập và pháp luật Việt Nam về dẫn độ. 3. Dự báo các yếu tố liên quan đến dẫn độ ở Việt Nam làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về dẫn độ đồng thời nâng cao hiệu quả dẫn độ giữa Việt Nam với các nước. 4. Đối tượng nghiên cứu của luận án Xuất phát từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về dẫn độ trong luật quốc tế với trọng tâm là các ĐƯQT song phương và đa phương có quy định về dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập và pháp luật Việt Nam về dẫn độ với trọng tâm là các quy định về dẫn độ trong BLTTHS và Luật TTTP hiện hành. 5. Phạm vi nghiên cứu của luận án Về pháp luật quốc tế, phạm vi nghiên cứu trọng tâm của luận án là các ĐƯQT song phương và đa phương có quy định về dẫn độ, đặc biệt là các HĐTTP, Hiệp định dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay. Về pháp luật Việt Nam, phạm vi nghiên cứu của luận án là các quy định về dẫn độ trong BLTTHS và Luật TTTP. Về thực tiễn, do không có các số thống kê cụ thể về dẫn độ nên tác giả sử dụng các số liệu thống kê chung về công tác bắt truy nã quốc tế qua kênh hợp tác INTERPOL và ASEANPOL do văn phòng INTERPOL thống kê từ năm 2000 đến nay để đánh giá kết quả thực hiện ĐƯQT và pháp luật Việt Nam liên quan đến dẫn độ. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án được nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin về Nhà nước và pháp luật, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta về Chiến lược cải cách tư pháp, Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam phục vụ tiến trình hội nhập quốc tế trong đó có hội nhập pháp luật quốc tế trong 7 lĩnh vực tương trợ tư pháp nói chung và dẫn độ nói riêng được thể hiện trong các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là BLTTHS và Luật TTTP. Luận án được thực hiện trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh. Trong đó, phương pháp so sánh là phương pháp chủ đạo được tác giả thực hiện xuyên suốt và có hệ thống trong toàn bộ luận án. 6. Tính mới của Luận án Thứ nhất, luận án là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện các vấn đề lý luận về dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam; Thứ hai, luận án là công trình đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về dẫn độ trong các HĐTTTP, Hiệp định dẫn độ và các ĐƯQT của Liên Hợp Quốc, ASEAN về đấu tranh phòng, chống tội phạm mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay. Thứ ba, luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu so sánh pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về dẫn độ với trọng tâm là so sánh các quy định về dẫn độ trong các ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập với pháp luật Việt Nam với trọng tâm là các quy định về dẫn độ trong BLTTHS và Luật TTTP. Thứ tư, luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam xây dựng đồng bộ giải pháp quốc tế và quốc gia nhằm góp phần hoàn thiện các ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập và pháp luật Việt Nam về dẫn độ. Đồng thời, góp phần nâng cao hiệu quả đàm phán, ký kết, thực hiện ĐƯQT và pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này. 7. Ý nghĩa khoa học của luận án Về phương diện lý luận, luận án sẽ góp phần củng cố và hoàn thiện cơ sở lý luận về dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật Việt Nam để các nhà lập pháp, các cơ quan có thẩm quyền, cán bộ nghiên cứu tham khảo vận dụng trong công tác đàm phán, ký kết, gia nhập ĐƯQT về dẫn độ cũng như xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về dẫn độ. Về phương diện thực tiễn, luận án sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện ĐƯQT và pháp luật Việt Nam về dẫn độ đồng thời là tài liệu đáng tin cậy và hữu ích cho giáo viên, sinh viên, học viên, các nhà nghiên cứu, cán bộ, chuyên gia làm công tác thực tiễn trong các ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an, Ngoại giao tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập và có thể vận dụng để giải quyết các vụ việc cụ thể liên quan đến dẫn độ ở Việt Nam. 8. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được xây dựng thành ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về dẫn độ Chương 2: Thực trạng dẫn độ trong điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả dẫn độ ở Việt Nam Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ DẪN ĐỘ 1.1 Khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc của dẫn độ 1.1.1 Khái niệm dẫn độ Trên cơ sở nghiên cứu các nguồn tài liệu trong nước và nước ngoài, đặc biệt là các ĐƯQT về dẫn độ được ký kết giữa các quốc gia hoặc trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế, luận án đã khái quát quá trình hình 8 thành và phát triển của dẫn độ trong luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia. Đồng thời, bằng việc tiếp cận và nghiên cứu cả trên phương diện ngôn ngữ học, khoa học pháp lý và pháp luật thực định luận án cho rằng, dẫn độ là một hình thức hợp tác tương trợ tư pháp giữa các quốc gia trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, trên cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, quốc gia được yêu cầu sẽ chuyển giao người đã thực hiện hành vi phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của quốc gia yêu cầu hoặc người đã bị Tòa án của nước yêu cầu kết án bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật cho quốc gia yêu cầu, để quốc gia này truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc buộc người bị yêu cầu dẫn độ phải chấp hành hình phạt. 1.1.2 Đặc điểm của dẫn độ Luận án đã nêu và phân tích bốn đặc điểm cơ bản của dẫn độ gồm: - Chủ thể và nội dung của quan hệ dẫn độ: Chủ thể của quan hệ dẫn độ là các quốc gia, nội dung của dẫn độ là hành vi yêu cầu dẫn độ do nước yêu cầu thực hiện và hành vi xem xét, chuyển giao người bị yêu cầu do nước được yêu cầu thực hiện. - Đối tượng bị dẫn độ: Là người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc là người đã thực hiện hành vi phạm tội và đã bị Tòa án có thẩm quyền của nước yêu cầu xét xử bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng đang lẩn trốn tại nước được yêu cầu. - Mục đích của dẫn độ: Là nhằm để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt đối với người bị yêu cầu dẫn độ đang lẩn trốn trên lãnh thổ của quốc gia được yêu cầu dẫn độ. - Cơ sở pháp lý để dẫn độ: Dẫn độ dựa trên hai cơ sở pháp lý quốc tế (các ĐƯQT về dẫn độ) và pháp luật quốc gia về dẫn độ. Trong thực tiễn dẫn độ, áp dụng nguyên tắc “có đi có lại”, các quốc gia cũng có thể dẫn độ cho nhau ngay cả khi giữa các quốc gia không có cơ sở pháp lý quốc tế để dẫn độ. 1.1.3 Nguyên tắc của dẫn độ Về phương diện khoa học pháp lý, nguyên tắc của dẫn độ là những quy định cơ bản mang tính khuôn mẫu, thống nhất được ghi nhận phổ biến trong ĐƯQT, pháp luật quốc gia về dẫn độ và được thừa nhận, áp dụng rộng rãi trong thực tiễn gồm năm nguyên tắc: Nguyên tắc tội phạm kép (double criminality), nguyên tắc có đi có lại, nguyên tắc không dẫn độ công dân, nguyên tắc không dẫn độ người phạm tội chính trị và nguyên tắc nhân đạo. 1.2 Cơ sở pháp lý của dẫn độ 1.2.1 Cơ sở pháp lý quốc tế Về phương diện pháp lý quốc tế, các quốc gia dẫn độ có thể đàm phán, ký kết bốn loại ĐƯQT sau đây để hợp tác dẫn độ cho nhau: Các ĐƯQT song phương và đa phương chuyên về dẫn độ; các ĐƯQT song phương và đa phương về tương trợ tư pháp hình sự và dẫn độ; các ĐƯQT song phương về tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề về dân sự và hình sự có quy định nội dung dẫn độ; Các ĐƯQT về đấu tranh phòng, chống tội phạm có quy định nội dung dẫn độ. Trong số các ĐƯQT nói trên, các ĐƯQT song phương và đa phương chuyên về dẫn độ là những ĐƯQT quy định đầy đủ và chi tiết nhất các vấn đề pháp lý để thực hiện việc dẫn độ. Các ĐƯQT là những cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng nhất để các nước hợp tác dẫn độ cho nhau khi có nhu cầu. 1.2.2 Cơ sở pháp lý quốc gia Tùy thuộc vào quan điểm chính trị, pháp lý của mỗi nước mà dẫn độ có thể được các quy định trong Luật Dẫn độ, Luật Tố tụng hình sự, Luật Tương trợ tư pháp quốc tế hoặc Luật Dẫn độ người nước ngoài. Tuy 9 nhiên, hiện nay đa số các nước ban hành Luật Dẫn độ. Pháp luật quốc gia về dẫn độ là nguồn luật quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục, thẩm quyền và cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để hợp tác dẫn độ với nước ngoài. 1.3 Đối tượng, phạm vi và thủ tục dẫn độ 1.3.1 Đối tượng và phạm vi dẫn độ Đối tượng dẫn độ là người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị Tòa án của nước của nước yêu cầu xét xử bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng đang lẩn trốn tại nước được yêu cầu. Đối tượng bị yêu cầu dẫn độ có thể là công dân của nước yêu cầu, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch. Trong trường hợp đặc biệt, đối tượng bị dẫn độ có thể là công dân của nước được yêu cầu nếu pháp luật quốc gia và ĐƯQT về dẫn độ mà nước được yêu cầu đã ký kết và gia nhập cho phép dẫn độ công dân cho nước ngoài. 1.3.2 Thủ tục dẫn độ Thủ tục dẫn độ là một quy trình bao gồm các bước từ chuyển giao, tiếp nhận, xử lý văn bản, hồ sơ yêu cầu dẫn độ đến chuyển giao, tiếp nhận người bị yêu cầu dẫn độ. Thủ tục dẫn độ sẽ được thực hiện từ khi có yêu cầu dẫn độ của nước yêu cầu và kết thúc khi người bị yêu cầu dẫn độ được chuyển giao cho nước yêu cầu. ĐƯQT và pháp luật quốc gia về dẫn độ thường quy định thủ tục dẫn độ gồm hai bước cơ bản sau đây: - Chuyển giao, tiếp nhận và xử lý văn bản, hồ sơ yêu cầu dẫn độ Theo pháp luật và thông lệ quốc tế, việc chuyển giao, tiếp nhận văn bản, hồ sơ yêu cầu dẫn độ sẽ được thực hiện trực tiếp giữa các cơ quan trung ương của hai nước. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu cung cấp thông tin bổ sung. Nếu quyết định xem xét yêu cầu dẫn độ thì cơ quan có thẩm quyển của nước được yêu cầu sẽ thông báo ngay cho cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu. - Quyết định dẫn độ, chuyển giao và tiếp nhận người bị yêu cầu dẫn độ Pháp luật dẫn độ của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền quyết định việc dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ (thường là Tòa án cấp tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương). Nếu quyết định dẫn độ thì các cơ quan có thẩm quyền của nước được yêu cầu sẽ thực hiện các thủ tục pháp lý cần thiết theo quy định của ĐƯQT và pháp luật quốc gia về dẫn độ để chuyển giao người bị yêu cầu dẫn độ cho nước yêu cầu. Thời gian, địa điểm, cách thức chuyển giao và tiếp nhận người bị yêu cầu dẫn độ sẽ do các cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu và nước được yêu cầu thỏa thuận. Chương 2 THỰC TRẠNG DẪN ĐỘ TRONG ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM 2.1 Dẫn độ trong các ĐƯQT mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập 2.1.1 Tổng quan về tình hình đàm phán, ký kết và gia nhập ĐƯQT có quy định về dẫn độ của Việt Nam từ trước đến nay Từ năm 1980 đến năm 2002, Việt Nam đã ký kết 13 HĐTTTP có quy định về dẫn độ (hiện nay 11 Hiệp định có hiệu lực thi hành). Từ năm 2003 đến tháng 4/2012 Việt Nam đã ký kết 4 Hiệp định dẫn độ. Bên cạnh đó, cho đến nay Việt Nam cũng đã gia nhập 16 ĐƯQT của Liên Hợp Quốc và Công ước của ASEAN về chống khủng bố năm 2007. Các ĐƯQT trên, đặc biệt là các HĐTTTP và Hiệp định dẫn độ là những cơ sở pháp lý quốc 10 tế quan trọng để Việt Nam dẫn độ với các nước ký kết. Hiện nay, Việt Nam đang đàm phán hoặc đã xây dựng kế hoạch đàm phán Hiệp định dẫn độ với các nước như: Trung Quốc, Indonesia, Tây Ban Nha, Hungari, Lào, Ucraina, Pháp, Nam Phi, Campuchia, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len. 2.1.2 Dẫn độ trong các ĐƯQT song phương 2.1.2.1 Các quy định về dẫn độ trong các Hiệp định tương trợ tư pháp Luận án đã tổng hợp 11 HĐTTTP có quy định về dẫn độ đang có hiệu lực thi hành mà Việt Nam đã ký kết với các nước từ trước đến nay thành ba nội dung cơ bản sau đây: Một là: Đối tượng và phạm vi dẫn độ Các HĐTTTP đều quy định, nước được yêu cầu sẽ dẫn độ những người bị yêu cầu dẫn độ đang có mặt trên lãnh thổ của mình cho nước yêu cầu để “truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật đối với người bị yêu cầu dẫn độ”. Trường hợp dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự, các HĐTTTP đều quy định, hành vi mà người bị yêu cầu dẫn độ phải bị coi là tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự của các Bên ký kết và phải chịu hình phạt tù trên một năm hoặc hình phạt nặng hơn. Trường hợp dẫn độ để thi hành hình phạt của bản án đã có hiệu lực pháp luật, các HĐTTTP mà Việt Nam đã ký từ năm 1980 đến năm 1992 quy định, hình phạt mà người bị dẫn độ phải thi hành là hình phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên hoặc nặng hơn. Tuy nhiên, các HĐTTTP ký từ năm 1993 đến năm 2002 lại quy định hình phạt tù có thời hạn từ sáu tháng trở lên hoặc hình phạt khác nặng hơn. Hai là: Hồ sơ yêu cầu dẫn độ Theo quy định của các HĐTTTP, yêu cầu dẫn độ phải được lập thành văn bản và phải chứa đựng các nội dung sau đây: Tên cơ quan yêu cầu; các thông tin về nhân thân như họ tên, dân tộc, quốc tịch, giới tính, nơi cư trú, tạm trú, đặc điểm nhận dạng người bị yêu cầu dẫn độ (hình dáng, ảnh, dấu vân tay... ); tên vụ việc; điều luật để chứng minh hành vi đó là tội phạm, khung hình phạt của tội phạm bị yêu cầu dẫn độ; bản sao lệnh bắt (nếu yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự); bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật (nếu yêu cầu dẫn độ để thi hành án); các thiệt hại do tội phạm gây ra; các Hiệp định đều quy định, Bên được yêu cầu có thể yêu cầu Bên yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu bổ sung nếu thấy cần thiết và ấn định một thời hạn nhất định để tiếp nhận (trong trường đặc biệt có thể gia hạn). Ba là: Thủ tục dẫn độ Tất cả các HĐTTTP đều xây dựng thủ tục dẫn độ hành hai bước cơ bản sau đây: Bước 1: Chuyển giao, tiếp nhận và xử lý văn bản, hồ sơ yêu cầu dẫn độ Các HĐTTTP đều quy định, việc chuyển giao và tiếp nhận yêu cầu dẫn độ sẽ được thực hiện thông qua các cơ quan tư pháp trung ương của các Bên ký kết. Trường hợp nhiều nước cùng yêu cầu dẫn độ một người, tất cả các HĐTTTP đều quy định, việc xem xét để chấp nhận yêu cầu dẫn độ của nước nào là do Bên được yêu cầu quyết định dựa vào các yếu tố: Quốc tịch của người bị yêu cầu dẫn độ; Nơi thực hiện hành vi phạm tội; tính chất, mức độ nghiêm trọng và hậu quả của tội phạm gây ra; ngày, tháng, năm yêu cầu; theo quy định của các HĐTTTP, khi nhận được văn bản yêu cầu dẫn độ. Bước 2: Quyết định, chuyển giao và tiếp nhận người bị yêu cầu dẫn độ Sau khi có quyết định dẫn độ, Bên được yêu cầu sẽ thông báo cho Bên yêu cầu biết thời gian, địa điểm chuyển giao và tiếp nhận người bị dẫn độ. Việc chuyển giao, tiếp nhận người bị dẫn độ sẽ được thực hiện trong một thời gian nhất định do hai Bên thỏa thuận. Nếu Bên yêu cầu không tiếp nhận người đúng thời 11 gian và địa điểm mà Bên được yêu cầu đã ấn định mà không có lý do chính đáng hoặc không giải thích rõ ràng thì người bị dẫn độ có thể sẽ được trả tự do. Phần lớn các HĐTTTP đều quy định thời hạn là mười lăm ngày và các Bên có thể thỏa thuận để gia hạn thêm nhưng tối đa không quá mười lăm ngày. Ngoài các nội dung cơ bản nói trên, các HĐTTTP còn quy định các vấn đề về hoãn dẫn độ, dẫn độ tạm thời, dẫn độ lại, quá cảnh và chi phí dẫn độ. Tuy nhiên, do không có Luật khung để đàm phán, ký kết nên tên gọi, bố cục, nội dung, phạm vi của các vấn đề, cũng như nội dung của từng điều khoản trong phần dẫn độ của các HĐTTTP không có sự thống nhất với nhau. Mặt khác, do được ký kết trước khi nước ta ban hành BLTTHS và Luật TTTP nên một số quy định liên quan đến ngôn ngữ sử dụng, cơ quan đầu mối trung ương trong việc tiếp nhận, chuyển giao, xem xét, giải quyết các yêu cầu dẫn độ của nước ngoài, thẩm quyền quyết định dẫn độ, chi phí và cơ chế phối hợp thực hiện giữa các cơ quan trong việc dẫn độ đã không còn phù hợp Luật TTTP. 2.1.2.2 Các quy định về dẫn độ trong các Hiệp định dẫn độ Đến thàng 4/2012 việt Nam đã ký kết 4 Hiệp định dẫn độ với Đại Hàn Dân Quốc năm 2004, An-Giê-Ri năm 2010, Ấn Độ năm 2011 và Ô-xtrây-lia năm 2012. Về nội dung, các Hiệp định dẫn độ quy định ba nội dung cơ bản sau đây: Một là: Đối tượng và phạm vi dẫn độ Cả bốn Hiệp định đều quy định, đối tượng bị yêu cầu dẫn độ là người có hành vi phạm tội có thể bị xử phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên hoặc nặng hơn theo pháp luật của hai Bên tại thời điểm yêu cầu dẫn độ. Trong trường hợp yêu cầu dẫn độ liên quan tới một người đã bị Tòa án của Bên yêu cầu xử phạt tù về tội có thể bị dẫn độ, thì việc dẫn độ chỉ được thực hiện nếu thời hạn chấp hành hình phạt còn lại ít nhất 06 tháng. Cả bốn Hiệp định đều quy định, Bên được yêu cầu sẽ từ chối dẫn độ trong 3 trường hợp sau đây: (1) Khi người bị yêu cầu dẫn độ đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đã bị kết án hay đã được xử vô tội trên lãnh thổ của Bên được yêu cầu về chính tội phạm mà người đó bị yêu cầu dẫn độ; (2) Khi thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thời hiệu thi hành hình phạt đối với tội phạm được yêu cầu dẫn độ đã hết; (3) Khi Bên được yêu cầu có căn cứ xác đáng để cho rằng yêu cầu dẫn độ nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc trừng phạt người bị dẫn độ vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, giới tính, chính kiến hay làm người đó bị ảnh hưởng bởi các lý do trên. Đồng thời, Bên được yêu cầu có thể từ chối dẫn độ trong 4 trường hợp: (1) Khi toàn bộ hoặc một phần tội phạm bị yêu cầu dẫn độ được cho là đã được thực hiện trong phạm vi lãnh thổ của Bên được yêu cầu; (2) Xét mức độ nghiêm trọng của tội phạm và lợi ích của Bên yêu cầu, Bên được yêu cầu thấy rằng, việc dẫn độ sẽ không phù hợp với các nguyên tắc nhân đạo do hoàn cảnh cá nhân của người bị yêu cầu dẫn độ; (3) Khi người bị yêu cầu dẫn độ đã được xử vô tội hoặc đã bị kết án tại một nước thứ ba về tội đó. Nếu bị kết án thì hình phạt đã được thi hành đầy đủ hoặc không còn hiệu lực thi hành nữa; (4) Khi tội phạm mà yêu cầu dẫn độ đưa ra là tội phạm quân sự, không phải là tội phạm được quy định trong luật hình sự thông thường. Hai là: Hồ sơ yêu cầu dẫn độ 12 Các Hiệp định dẫn độ đều quy định, hồ sơ yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự và để thi hành hình phạt phải kèm theo các tài liệu mô tả đặc điểm nhận dạng, quốc tịch, nơi cư trú của người bị yêu cầu dẫn độ; văn bản nêu sự việc của vụ án; văn bản nêu tội danh, các yếu tố cấu thành tội phạm, khung hình phạt và thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt. Trường hợp yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì hồ sơ phải kèm theo: Bản sao lệnh bắt hoặc tạm giữ của Thẩm phán hay người có thẩm quyền khác của Bên ký kết yêu cầu dẫn độ; thông tin xác nhận người bị dẫn độ là người được nêu trong lệnh bắt hay giam giữ; văn bản về hành vi cấu thành tội phạm đó và đưa ra căn cứ hợp lý để cho rằng người bị dẫn độ đã thực hiện tội phạm bị yêu cầu dẫn độ và bản sao bản cáo trạng. Trường hợp yêu cầu dẫn độ người đã bị kết án thì hồ sơ phải kèm theo: Bản sao bản án do Tòa án của Bên yêu cầu dẫn độ đã tuyên xử đối với người bị dẫn độ; thông tin xác nhận người bị yêu cầu dẫn độ là người đã bị kết án; văn bản trình bày về hành vi cấu thành tội phạm mà người đó bị kết án. Cả bốn Hiệp định đều quy định, trong trường hợp khẩn cấp, Bên yêu cầu có thể yêu cầu bắt khẩn cấp người để dẫn độ trước khi gửi yêu cầu dẫn độ cho Bên được yêu cầu. Yêu cầu bắt khẩn cấp có thể được gửi qua kênh INTERPOL, kênh ngoại giao hoặc trực tiếp giữa các cơ quan trung ương của các Bên. Yêu cầu bắt khẩn cấp phải được lập bằng văn bản ( Hiệp định dẫn độ Việt Nam - Ô-xtrây-lia còn quy định có thể chuyển bằng các phương tiện điện tử) và phải bao gồm các nội dung: Mô tả về người bị bắt để dẫn độ, kể cả các thông tin về quốc tịch của người đó; nơi người bị bắt để dẫn độ đang có mặt (nếu biết được); Tóm tắt sự việc của vụ án, và nếu có thể, cả thời gian và địa điểm thực hiện tội phạm; Mô tả các luật bị vi phạm; Thông báo về lệnh bắt hay lệnh tạm giữ, hoặc bản án đối với người đó. Đồng thời, Bên yêu cầu phải khẳng định rõ, sẽ gửi văn bản yêu cầu dẫn độ chính thức cho Bên yêu cầu. Người bị bắt giữ sẽ được trả tự do nếu Bên yêu cầu không đưa ra yêu cầu dẫn độ chính thức kèm theo các tài liệu trong thời hạn nhất định. Ba là: Thủ tục dẫn độ Qua nghiên cứu nội dung các Hiệp định dẫn độ, tác giả đã tóm lược thủ tục dẫn độ thành hai bước: Bước 1: Chuyển giao, tiếp nhận và xử lý yêu cầu dẫn độ Theo quy định của các Hiệp định, yêu cầu dẫn độ phải được lập thành văn bản và được gửi qua đường ngoại giao. Trường hợp có nhiều yêu cầu dẫn độ đối với một người thì Bên được yêu cầu sẽ quyết định dẫn độ cho một trong các quốc gia yêu cầu dự trên các yếu tố liên quan đến quốc tịch và nơi thường trú của người bị yêu cầu dẫn độ; các yêu cầu có được lập theo đúng quy định của Hiệp định hay không; thời gian và địa điểm thực hiện tội phạm; lợi ích riêng của các quốc gia yêu cầu; mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; quốc tịch của người bị hại; khả năng dẫn độ tiếp theo giữa các quốc gia yêu cầu; thời điểm đưa ra yêu cầu dẫn độ. Bước 2: Quyết định, chuyển giao và tiếp nhận người bị yêu cầu dẫn độ Cả bốn Hiệp định đều quy định, ngay sau khi có quyết định dẫn độ, Bên được yêu cầu sẽ thông báo cho Bên yêu cầu. Bên được yêu cầu sẽ chuyển giao người bị dẫn độ cho cơ quan có thẩm quyền của Bên yêu cầu tại một địa điểm trên lãnh thổ của Bên được yêu cầu mà hai Bên đã thỏa thuận. Trong trường hợp bất khả kháng không thể chuyển giao hoặc tiếp nhận được người bị yêu cầu dẫn độ thì các Bên phải thông báo cho nhau và hai Bên sẽ cùng nhau thỏa thuận để đưa ra thời hạn chuyển giao hoặc tiếp nhận người bị dẫn độ phù hợp. Ngoài ba nội dung cơ bản đã được nêu và phân tích ở trên, các Hiệp định dẫn độ còn quy định các nội dung về thủ tục dẫn độ đơn giản, hoãn dẫn độ, dẫn độ tạm thời, dẫn độ lại, quá cảnh và chi phí dẫn độ. 13 So sánh các Hiệp định dẫn độ với nhau chúng tôi thấy một số nội dung không thống nhất với nhau như: Các quy định liên quan đến yêu cầu dẫn độ một người về các tội phạm về thuế, hải quan, kiểm soát ngoại hối hoặc các vấn đề về thu nhập khác; các trường hợp bắt buộc từ chối dẫn độ và có thể từ chối dẫn độ; từ chối dẫn độ tội phạm chính trị hoặc tội phạm liên quan đến chính trị; về thời hạn mà người bị bắt giữ sẽ được trả tự do; thẩm quyền tiếp nhận, xử lý và chuyển giao các yêu cầu dẫn độ. So sánh các Hiệp định dẫn độ với Luật TTTP chúng tôi cũng nhận thấy một số điểm chưa tương đồng như: Cả 4 Hiệp định đều quy định điều kiện, thủ tục bắt khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ chính thức của Bên yêu cầu; cách thức xử lý trong trường hợp Bên được yêu cầu từ chối dẫn độ với lý do người bị yêu cầu là công dân và thủ tục dẫn độ đơn giản nhưng Luật TTTP không quy định các nội dung này. Do vậy, bổ sung các quy định này vào Luật TTTP nhằm đảm bảo tính thống nhất giữa các Hiệp định dẫn độ với Luật TTTP đồng thời để thực hiện có hiệu quả các Hiệp định dẫn độ và Luật TTTP là rất cần thiết. 2.1.3 Dẫn độ trong các ĐƯQT đa phương 2.1.3.1 Các quy định về dẫn độ trong các ĐƯQT của Liên Hợp Quốc về đấu tranh phòng, chống tội phạm Các ĐƯQT này quy định ba vấn đề có tính nguyên tắc về dẫn độ sau đây: (1) Yêu cầu các quốc gia thành viên coi các tội phạm được điều chỉnh bởi các ĐƯQT này là những tội phạm có thể bị dẫn độ đồng thời đưa các tội phạm này vào danh mục các tội phạm bị dẫn độ trong các ĐƯQT về dẫn độ sẽ được ký kết giữa các quốc gia thành viên trong tương lai. (2) Yêu cầu các quốc gia thành viên cam kết, nếu không dẫn độ người phạm tội thì quốc gia được yêu cầu sẽ thiết lập quyền tài phán hình sự đối với hành vi tội phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của điều ước theo nguyên tắc“Aut dedere aut judicare - Không dẫn độ thì truy tố”. (3) Yêu cầu các quốc gia thành viên có thể coi các điều ước này là cơ sở pháp lý quốc tế trực tiếp để dẫn độ cho nhau trong trường hợp giữa hai quốc gia chưa có ĐƯQT song phương về dẫn độ. Tuy nhiên, do được đàm phán, ký kết bởi nhiều quốc gia có chế độ chính trị, kinh tế, luật pháp và đặc biệt là quan điểm về hợp tác đấu tranh phòng chống, tội phạm khác nhau nên các quy định về dẫn độ trong các ĐƯQT này chỉ là những quy định mang tính nguyên tắc, thiếu cụ thể, chi tiết nên rất khó và hầu như không thể áp dụng vào thực tiễn hợp tác dẫn độ giữa các quốc gia thành viên. 2.1.3.2 Các quy định về dẫn độ trong Công ước của ASEAN về chống khủng bố năm 2007 Công ước của ASEAN về chống khủng bố năm 2007 đã dành 2 điều (Điều XIII và Điều XIV) quy định bốn nội dung có tính nguyên tắc về dẫn độ sau đây: (1) Bên ký kết mà trên lãnh thổ của mình mà người bị tình nghi đang có mặt, nếu không dẫn độ thì phải bắt giữ và không được chậm trễ, phải chuyển vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền của mình để truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự của Bên đó. Các cơ quan có thẩm quyền này phải đưa ra những quyết định giống như bất kỳ hành vi phạm tội nghiêm trọng nào khác theo luật pháp trong nước của Bên đó quy định; (2) Những hành vi đã được quy định tại Điều 2 của Công ước sẽ được coi là các tội phạm bị dẫn độ trong bất kỳ Hiệp định dẫn độ nào đã được ký kết giữa các nước thành viên trước khi Công ước này có hiệu lực và yêu cầu các Bên đưa các tội khủng bố vào danh mục các tội phạm bị dẫn độ trong các Hiệp định dẫn độ sẽ được ký kết trong tương lai giữa họ với nhau; 14 (3) Nếu quốc gia thành viên được yêu cầu dẫn độ đòi hỏi dẫn độ phải được thực hiện trên cơ sở Hiệp định dẫn độ nhận được yêu cầu dẫn độ từ quốc gia thành viên khác chưa có Hiệp định dẫn độ với mình, thì quốc gia được yêu cầu dẫn độ có thể, theo ý mình, phù hợp với pháp luật quốc gia mình, coi Công ước này là một cơ sở pháp lý để dẫn độ đối với các tội phạm được quy định tại Điều II của Công ước; (4) Các quốc gia cam kết không coi các tội phạm bị điều chỉnh bởi Công ước này là tội phạm chính trị hoặc tội phạm liên quan đến chính trị. Mặc dù các nội dung về dẫn độ trong Công ước này chỉ là những quy định chung, mang tính nguyên tắc nhưng chúng là cơ sở pháp lý quốc tế đa phương rất quan trọng để các nước thành viên ASEAN có thể hợp tác dẫn độ cho nhau trong trường hợp giữa các nước chưa có ĐƯQT song phương về dẫn độ. Bởi lẽ, theo Công ước, trong trường hợp giữa các nước thành viên chưa có Hiệp định dẫn độ nhưng luật pháp của nước được yêu cầu đòi hỏi việc dẫn độ phải dựa vào Hiệp định dẫn độ thì nước này có thể coi Công ước là một cơ sở pháp lý để hợp tác dẫn độ tội phạm khủng bố cho nước yêu cầu. Quy định này sẽ giúp các nước thành viên ASEAN chưa ký Hiệp định dẫn độ với các nước thành viên khác, trong đó có Việt Nam thực hiện quyền tài phán hình sự đối với các tội phạm khủng bố được quy định tại Điều II của Công ước. 2.2 Dẫn độ trong pháp luật Việt Nam 2.2.1 Các quy định về dẫn độ trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 Trong BLTTHS, vấn đề dẫn độ được quy định tại Phần thứ tám, Chương XXXVII (Dẫn độ và chuyển giao hồ sơ, tài liệu, vật chứng của vụ án) gồm 02 điều (Điều 343.Dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án và Điều 343. Từ chối dẫn độ). Đây là lần đầu tiên, dẫn độ được quy định trong một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao của Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định về dẫn độ được quy định trong BLTTHS là những quy định mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định cụ thể về văn bản, hồ sơ yêu cầu dẫn độ; thủ tục, thẩm quyền tiếp nhận, xem xét yêu cầu dẫn độ của nước ngoài cho Việt Nam cũng như thủ tục, thẩm quyền chuyển giao yêu cầu dẫn độ của Việt Nam cho nước ngoài; thủ tục, thẩm quyền ra quyết định dẫn độ và chuyển giao người bị dẫn độ cho nước yêu cầu hoặc tiếp nhận người bị dẫn độ về Việt Nam; các quy định về hoãn dẫn độ, dẫn độ lại, quá cảnh và chi phí dẫn độ. Do đó, các quy định về dẫn độ trong BLTTHS rất khó và hầu như không được áp dụng trong thực tiễn. 2.2.2 Các quy định về dẫn độ trong Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 Với 01 chương (Chương IV) 17 điều (từ Điều 32 đến Điều 48), lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, vấn đề dẫn độ đã được quy định một cách toàn diện và cụ thể nhất. Luật TTTP quy định ba nội dung cơ bản sau đây về dẫn độ: Một là: Đối tượng và phạm vi dẫn độ Theo quy định tại Điều 32 khoản 2 điểm a, CQTHTT có thẩm quyền của Việt Nam có thể “Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài dẫn độ cho Việt Nam người có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án”. Đồng thời, CQTHTT có thẩm quyền của Việt Nam có thể “Thực hiện việc dẫn độ người nước ngoài đang ở trên lãnh thổ Việt Nam có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật cho nước yêu cầu để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án”(Điểm b). Theo các quy định trên, đối tượng mà CQTHTT có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu nước ngoài dẫn độ có thể là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài, người không quốc tịch. Ngược lại, đối tượng mà 15 CQTHTT có thẩm quyền của Việt Nam có thể dẫn độ cho nước ngoài là người nước ngoài hoặc người không quốc tịch đang có mặt trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, người bị dẫn độ phải là“người có hành vi phạm tội mà Bộ luật Hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu quy định hình phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình hoặc đã bị Tòa án của nước yêu cầu xử phạt tù mà thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại ít nhất sáu tháng” (Điều 33 khoản 1). Đồng thời, “hành vi phạm tội của người bị yêu cầu dẫn độ không nhất thiết phải thuộc cùng một nhóm tội hoặc cùng một tội danh, các yếu tố cấu thành tội phạm không nhất thiết phải giống nhau theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước yêu cầu” (Điều 33 khoản 2 ). Theo Điều 35 khoản 1, CQTHTT có thẩm quyền của Việt Nam sẽ từ chối dẫn độ trong năm trường hợp sau đây: (1) Người bị yêu cầu dẫn độ là công dân Việt Nam; (2) Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì người bị yêu cầu dẫn độ không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình phạt do đã hết thời hiệu hoặc vì những lý do hợp pháp khác; (3) Người bị yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự đã bị Tòa án của Việt Nam kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ hoặc vụ án đã bị đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; (4) Người bị yêu cầu dẫn độ là người đang cư trú ở Việt Nam có khả năng bị truy bức ở nước yêu cầu dẫn độ do có sự phân biệt về chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quốc tịch, dân tộc, thành phần xã hội hoặc quan điểm chính trị; (5) Trường hợp yêu cầu dẫn độ liên quan đến nhiều tội danh và mỗi tội danh đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước yêu cầu dẫn độ nhưng không đáp ứng các quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật TTTP. Ngoài năm trường hợp từ chối dẫn độ nói trên, Điều 35 khoản 2 Luật TTTP còn quy định, CQTHTT có thẩm quyền của Việt Nam có thể từ chối dẫn độ trong hai trường hợp sau đây: (1) Hành vi mà người bị yêu cầu dẫn độ không phải là tội phạm theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam; (2). Người bị yêu cầu dẫn độ đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở Việt Nam về hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ. Trường hợp CQTHTT có thẩm quyền của Việt Nam từ chối dẫn độ thì phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước yêu cầu dẫn độ (Điều 35 khoản 3). Hai là: Văn bản, hồ sơ yêu cầu dẫn độ Điều 36 Luật TTTP quy định, hồ sơ yêu cầu dẫn độ bao gồm văn bản của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu dẫn độ và các tài liệu kèm theo. Văn bản yêu cầu dẫn độ phải bao gồm các nội dung: Ngày, tháng, năm và địa điểm lập văn bản; Lý do yêu cầu dẫn độ; Tên, địa chỉ của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu dẫn độ; d) Tên, địa chỉ của cơ quan được yêu cầu dẫn độ; Họ, tên, giới tính, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, nơi cư trú và các thông tin cần thiết khác về người bị yêu cầu dẫn độ (Điều 37 khoản 1). Kèm theo văn bản yêu cầu dẫn độ phải có các tài liệu sau đây: Tóm tắt nội dung của vụ án; Các điều luật cần áp dụng để xác định các yếu tố cấu thành tội phạm và tội danh, quy định về hình phạt, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thời hiệu thi hành hình phạt đối với tội phạm đó; Giấy tờ về quốc tịch và nơi cư trú của người bị yêu cầu dẫn độ, nếu 16 có; Các tài liệu khác mô tả đặc điểm nhận dạng và ảnh của người bị yêu cầu dẫn độ theo pháp luật và tập quán quốc tế (Điều 37 khoản 2). Trường hợp yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự, ngoài các tài liệu nói trên còn phải kèm theo bản sao lệnh bắt hoặc giam giữ của cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ; văn bản xác nhận người bị yêu cầu dẫn độ là người được nêu trong lệnh bắt hoặc giam giữ (Điều 37 khoản 3). Trường hợp yêu cầu dẫn độ để thi hành án, ngoài các tài liệu nói trên phải kèm theo bản sao bản án, quyết định hình sự của Tòa án nước yêu cầu dẫn độ và văn bản xác nhận người bị yêu cầu dẫn độ là người đã bị kết án (Điều 37 khoản 4). Hồ sơ yêu cầu dẫn độ phải được lập thành ba bộ, phù hợp với pháp luật của nước được yêu cầu. Nếu Việt Nam và nước ngoài đã có ĐƯQT về tương trợ tư pháp thì ngôn ngữ trong tương trợ tư pháp là ngôn ngữ được quy định trong ĐƯQT đó. Trường hợp Việt Nam và nước ngoài chưa có ĐƯQT về tương trợ tư pháp thì hồ sơ phải kèm theo bản dịch ra ngôn ngữ của nước được yêu cầu tương trợ tư pháp hoặc dịch ra một ngôn ngữ khác mà nước được yêu cầu chấp nhận (Điều 5). Văn bản yêu cầu dẫn độ và văn bản trả lời được gửi thông qua Bộ Công an. Ba là: Thủ tục dẫn độ Luật TTTP quy định rất đầy đủ và chi tiết thủ tục dẫn độ bị động, áp dụng trong trường hợp Việt Nam là nước được yêu cầu dẫn độ. Thủ tục dẫn độ độ bị động được tổng hợp thành ba bước cơ bản sau đây: Bước 1: Tiếp nhận và xử lý yêu cầu dẫn độ Theo quy định của Luật TTTP, Bộ Công an là cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, kiểm tra và xử lý hồ sơ, văn bản yêu cầu dẫn độ. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu dẫn độ và tài liệu kèm theo, Bộ Công an vào sổ hồ sơ dẫn độ và kiểm tra hồ sơ yêu cầu dẫn độ. Nếu hồ sơ chưa đầy đủ thì Bộ Công an có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước yêu cầu dẫn độ cung cấp thông tin bổ sung. Nếu sau sáu mươi ngày, kể từ ngày gửi văn bản yêu cầu bổ sung thông tin mà không nhận được thông tin bổ sung thì Bộ Công an gửi trả hồ sơ cho nước yêu cầu dẫn độ và nêu rõ lý do. Trường hợp hồ sơ hợp lệ thì Bộ Công an chuyển ngay cho TAND cấp tỉnh có thẩm quyền hai bộ hồ sơ để xem xét, quyết định” (Điều 38 Luật TTTP). Trong trường hợp nhiều nước cùng yêu cầu dẫn độ một người thì Bộ Công an sẽ chủ trì và phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, VKSND tối cao, TAND tối cao để xem xét, quyết định đáp ứng yêu cầu dẫn độ cho một trong các nước yêu cầu và chuyển hồ sơ yêu cầu dẫn độ cho TAND cấp tỉnh có thẩm quyền xem xét, quyết định. Việc xem xét, quyết định sẽ đáp ứng yêu cầu dẫn độ của nước nào trong số các nước yêu cầu phải căn cứ vào quy định của pháp luật và các yếu tố về: Quốc tịch hữu hiệu và nơi thường trú cuối cùng của người bị yêu cầu dẫn độ; tính hợp pháp và mức độ phù hợp của yêu cầu dẫn độ; thời gian và địa điểm thực hiện tội phạm; lợi ích riêng của các nước yêu cầu; mức độ nghiêm trọng của tội phạm; quốc tịch của người bị hại; khả năng dẫn độ tiếp theo giữa các nước yêu cầu dẫn độ; ngày đưa ra yêu cầu dẫn độ và các yếu tố có liên quan khác (Điều 39 Luật TTTP ). Kể từ khi nhận được yêu cầu chính thức của nước ngoài về việc dẫn độ, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của pháp luật Việt Nam và ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên để bảo đảm cho việc xem xét yêu cầu dẫn độ. Luật TTTP không quy định thủ tục bắt khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ chính thức như các HĐTTTP và Hiệp định dẫn độ mà Việt Nma đã ký kết. Bước 2: Xem xét, quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ 17 TAND cấp tỉnh nơi người bị yêu cầu dẫn độ đang cư trú, đang bị tạm giam, tạm giữ hoặc chấp hành hình phạt tù là cơ quan có thẩm quyền quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ. Trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày thụ lý hồ sơ, nếu đáp ứng các điều kiện về hồ sơ và văn bản yêu cầu dẫn độ thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền sẽ quyết định xem xét yêu cầu dẫn độ. Trong trường hợp yêu cầu dẫn độ không thuộc thẩm quyền hoặc Bên nước ngoài rút yêu cầu dẫn độ hoặc người bị yêu cầu dẫn độ đã rời khỏi Việt Nam hoặc vì lý do khác mà việc xem xét không thể tiến hành được thì TAND cấp tỉnh sẽ quyết định đình chỉ việc xem xét yêu cầu dẫn độ và trả hồ sơ cho Bộ Công an để Bộ Công an thông báo cho nước yêu cầu. Nếu quyết định xem xét yêu cầu dẫn độ, thì TAND cấp tỉnh có thẩm quyền sẽ xem xét yêu cầu dẫn độ trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định và chuyển ngay một bộ hồ sơ cho VKSND cùng cấp (Điều 40 khoản 3). Việc xem xét yêu cầu dẫn độ sẽ được tiến hành thông qua phiên họp với Hội đồng gồm ba Thẩm phán, trong đó có một Thẩm phán làm chủ tọa và có sự tham gia của Kiểm sát viên VKSND cùng cấp (cấp tỉnh). Khi xem xét yêu cầu dẫn độ, Hội đồng sẽ căn cứ vào các quy định của Luật TTTP và các quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan như BLTTHS, BLHS, Luật Quốc tịch, Luật Ký kết gia nhập và thực hiện ĐƯQT... và ĐƯQT có quy định về dẫn độ mà Việt Nam và nước yêu cầu đã ký kết hoặc gia nhập. Sau đó, Hội đồng thảo luận và quyết định theo đa số việc dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ. Thủ tục xem xét yêu cầu dẫn độ và ra quyết định dẫn độ hoặc quyết định từ chối dẫn độ của TAND cấp tỉnh lần đầu tiên được quy định trong Luật TTTP. Mặc dù là một thủ tục do Tòa án thực hiện, có sự tham gia của Kiểm sát viên VKSND cùng cấp (cấp tỉnh), người bị yêu cầu dẫn độ, luật sư hoặc người đại diện hợp pháp của người bị yêu cầu dẫn độ nhưng đây không phải là thủ tục giải quyết vụ án hình sự. So với thủ tục giải quyết vụ án hình sự, thủ tục xem xét yêu cầu dẫn độ có một số điểm khác biệt cơ bản sau đây: Thứ nhất, về cơ sở pháp lý, nếu thủ tục giải quyết vụ án hình sự được thực hiện theo quy định của BLTTHS thì thủ tục xem xét, giải quyết yêu cầu dẫn độ lại được tiến hành theo quy định của Luật TTTP. Thứ hai, về thành phần tham gia, nếu Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự gồm ba Thẩm phán, trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm thì Hội đồng xem xét, giải quyết yêu cầu dẫn độ của nước ngoài chỉ có ba Thẩm phán, không sự tham gia của Hội thẩm nhân dân. Thứ ba, về nhiệm vụ, nếu Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có nhiệm vụ xác định sự thật khách quan của vụ án, quyết định tội danh và hình phạt đối với bị cáo; Hội đồng xét xử phúc thẩm có nhiệm vụ xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị thì Hội đồng xem xét, giải quyết yêu cầu dẫn độ lại có nhiệm vụ ra quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ cho nước yêu cầu. Chậm nhất là mười ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ, TAND cấp tỉnh gửi quyết định cho người bị yêu cầu dẫn độ, VKSND cùng cấp và Bộ Công an để các cơ quan này thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Nếu có kháng cáo của người bị yêu cầu dẫn độ hoặc kháng nghị của VKSND cùng cấp hoặc VKSND tối cao, TAND cấp tỉnh phải gửi hồ sơ và kháng cáo, kháng nghị cho TAND tối cao trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ dẫn độ và kháng cáo, kháng nghị, TAND tối cao mở phiên họp để xem xét quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ của TAND cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị. Hội đồng xem xét phúc thẩm quyết định dẫn độ hoặc từ chối dẫn độ 18 gồm ba Thẩm phán, trong đó một Thẩm phán làm Chủ tọa, đại diện của VKSND tối cao và được tiến hành như trình tự xem xét dẫn độ tại TAND cấp tỉnh có thẩm quyền. Quyết định dẫn độ có hiệu lực pháp luật bao gồm quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm. Bước 3: Thi hành quyết định dẫn độ Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày quyết định của TAND cấp tỉnh có thẩm quyền về dẫn độ có hiệu lực pháp luật, Chánh án TAND cấp tỉnh có thẩm quyền ra quyết định thi hành quyết định dẫn độ. Quyết định thi hành quyết định dẫn độ phải được gửi cho VKSND cùng cấp, Bộ Công an, nước yêu cầu và người bị dẫn độ. Sau khi nhận được quyết định thi hành quyết định dẫn độ, cơ quan Công an có thẩm quyền tiến hành bắt người bị dẫn độ. Việc bắt người bị dẫn độ được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và ĐƯQT mà Việt Nam là thành viên. Bộ Công an có trách nhiệm tổ chức thi hành việc dẫn độ và thông báo bằng văn bản cho nước yêu cầu dẫn độ (Điều 42). Cơ quan Công an thi hành quyết định dẫn độ sẽ tổ chức việc áp giải người bị dẫn độ theo thời gian và địa điểm tiếp nhận do Việt Nam và nước yêu cầu dẫn độ đã thoả thuận trước bằng văn bản. Thời hạn để tiếp nhận người bị dẫn độ không quá mười lăm ngày kể từ ngày quyết định thi hành quyết định dẫn độ có hiệu lực. Trong trường hợp hết thời hạn do Việt Nam và nước yêu cầu đã thoả thuận mà nước yêu cầu không tiếp nhận người bị dẫn độ, thì Bộ Công an sẽ kiến nghị TAND cấp tỉnh đã ra quyết định dẫn độ hủy quyết định thi hành quyết định dẫn độ đó và thông báo cho nước yêu cầu dẫn độ biết (Điều 43). Luận án khằng định rằng, Luật TTP đã quy định khá đầy đủ và có hệ thống các vấn đề pháp lý về dẫn độ. Các quy định về dẫn độ trong Luật TTTP đã khắc phục được những hạn chế của các quy định về dẫn độ trong BLTTTHS. So với các ĐƯQT song phương và đa phương có quy định về dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập thì các quy định về dẫn độ trong Luật TTTP là khá phù hợp. Cùng với BLTTHS, các quy định về dẫn độ trong Luật TTTP là những cơ sở pháp lý quốc gia quan trọng nhất để Việt Nam hợp tác dẫn độ với các nước trên thế giới khi có nhu cầu. Mặc dù vậy, vẫn còn một số quy định trong các ĐƯQT có quy định về dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập chưa được chuyển hóa vào phần dẫn độ của Luật TTTP như: Dẫn độ đơn giản; Bắt khẩn cấp trước khi có yêu cầu dẫn độ; các quy định liên quan đến tội phạm chính trị, tội phạm quân sự, tội phạm chiến tranh; về cách xử lý tiếp theo nếu từ chối dẫn độ công dân... Mặt khác, Luật TTTP cũng chưa quy định cụ thể về thủ tục dẫn độ chủ động áp dụng trong trường hợp Việt Nam là nước yêu cầu dẫn độ. Do vậy, tiếp tục nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện các quy định này trong Luật TTTP nhằm thực hiện thống nhất và có hiệu quả về dẫn độ giữa Việt Nam với các nước trên thế giới là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 2.3 Thực trạng thực hiện ĐƯQT và pháp luật Việt Nam liên quan đến dẫn độ Qua xử lý số liệu về bắt truy nã có liên quan đến dẫn độ trong thời gian nghiên cứu, luận án đã kết luận, kết quả thực hiện ĐƯQT và pháp luật Việt Nam về dẫn độ trong thời gian qua là chưa cao và chưa phản ảnh đúng nhu cầu dẫn độ giữa Việt Nam với các nước vì một số nguyên nhân cơ bản sau đây: Một là, trong một thời gian dài (từ những năm 80 của thế kỷ XX đến năm 2007) mặc dù nước ta đã ký kết 13 HĐTTTP có nội dung dẫn độ, Hiệp định dẫn độ với Đại Hàn Dân Quốc và gia nhập hầu hết các ĐƯQT của Liên Hợp Quốc về đấu tranh phòng, chống tội phạm có quy định về dẫn độ nhưng pháp luật Việt Nam về dẫn độ vừa thiếu lại không đồng bộ. 19 Hai là, từ trước đến nay Việt Nam vẫn thiếu cơ sở pháp lý quốc tế song phương và đa phương để hợp tác dẫn độ với các nước. Ba là, trên thực tế, một số yêu cầu dẫn độ của Việt Nam không được nước ngoài đáp ứng vì sự khác biệt giữa pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự của nước được yêu cầu cũng như một số chính sách về cư trú của nước ngoài như chính sách cho định cư lâu dài, tị nạn chính trị, không áp dụng án tử hình... Bốn là, công tác tuyên truyền, phổ biến và triển khai thực hiện các HĐTTTP, Hiệp định dẫn độ và Luật TTTP đến các cơ quan, tổ chức và cán bộ thực hiện công tác tương trợ tư pháp nói chung và dẫn độ nói riêng chưa hiệu quả. Chính vì vậy, mặc dù Luật TTTP đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008 nhưng thời gian qua “dẫn độ tắt”, “dẫn độ trá hình” vẫn được thực hiện dưới các hình thức như đẩy trả, trục xuất, chuyển giao người phạm tội. Năm là, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ làm công tác tương trợ tư pháp nói chung và dẫn độ nói riêng ở các ngành Công An, Tòa án, Kiểm sát vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ và pháp luật quốc tế. Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẪN ĐỘ Ở VIỆT NAM 3.1 Dự báo các yếu tố liên quan đến dẫn độ ở Việt Nam trong thời gian tới Với nhận thức cho rằng, dẫn độ luôn chịu sự ảnh hưởng, tác động trực tiếp của diễn biến của tình hình tội phạm và quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bởi vì, diễn biến của tình hình tội phạm sẽ thúc đẩy các quốc gia phải liên kết, hợp tác với nhau, trong đó dẫn độ là hình thức hợp tác hiệu quả nhất để các quốc gia truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt đối với người phạm tội ở quốc gia này nhưng đang lẩn trốn tại quốc gia khác. Do vậy, để xây dựng các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả dẫn độ ở Việt Nam trong thời gian tới luận án đã đưa ra dự báo về tình hình tội phạm và xu thế hợp tác dẫn độ giữa Việt Nam với các nước. Luận án khẳng định rằng, thời gian tới tình hình tội phạm nói chung và tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia nói riêng ở Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, hậu quả mà tội phạm gây ra cho xã hội ngày càng lớn đặc biệt là các tội phạm về kinh tế, tài chính xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao; Tội phạm liên quan đến sở hữu trí tuệ và tội phạm buôn bán người; Tội phạm ma túy có yếu tố nước ngoài; Các tội phạm liên quan đến sản xuất và lưu hành giấy tờ giả, tiền giả. Đồng thời, luận án đã dự báo, thời gian tới hợp tác dẫn độ giữa Việt Nam với các nước cũng sẽ ngày càng gia tăng vì hiện nay không một quốc gia nào có thể thực hiện quyền tài phán hình sự có hiệu quả đối với người phạm tội đang lẩn trốn ở nước ngoài nếu không có sự hợp tác dẫn độ của nước sở tại. Do vậy, hợp tác dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt đối với người bị yêu cầu dẫn độ là một tất yếu khách quan trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, hiện nay Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn và gia nhập 34 ĐƯQT song phương và đa phương có quy định về dẫn độ (13 HĐTTTP có nội dung dẫn độ hiện nay 11 Hiệp định đang có hiệu lực thi hành, 04 Hiệp định dẫn độ, 16 ĐƯQT đa phương của Liên Hợp Quốc về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và khủng bố quốc tế nói riêng và Công ước của ASEAN về chống khủng bố năm 2007). Thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục đàm phán, ký kết các Hiệp định song phương và đa phương về dẫn độ với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như trong khuôn khổ hợp tác ASEAN. Đồng thời, hiện nay Việt Nam đã gia nhập hầu hết các thiết chế quốc tế đa phương về đấu tranh phòng, chống tội phạm khu vực 20 và toàn cầu như ASEANPOL, INTERPOL, UNODC. Do vậy, hợp tác dẫn độ với các nước vừa là nhu cầu tất yếu khách quan vừa là trách nhiệm của Việt Nam trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm. 3.2 Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả dẫn độ ở Việt Nam 3.2.1 Các giải pháp quốc tế 3.2.1.1 Giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý quốc tế về dẫn độ Luận án kiến nghị thực hiện các biện pháp cụ thể sau đây: Một là: Rà soát tổng thể các HĐTTTP có quy định về dẫn độ mà Việt Nam đã ký trước khi có Luật TTTP để tiến hành đàm phán sửa đổi, bổ sung hoặc ký kết các Hiệp định dẫn độ với các nước liên quan. Theo đó, rà soát tổng thể nội dung về dẫn độ trong các HĐTTTP để phát hiện những tồn tại, bất cập, những quy định không phù hợp với các quy định về dẫn độ trong BLTTHS, Luật TTTP cũng như thực tiễn dẫn độ để làm cơ sở cho việc đàm phán sửa đổi, bổ sung và hiện đại hóa các Hiệp định này là rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Nếu có điều kiện thuận lợi, Việt Nam nên chủ động đề xuất tách phần dẫn độ trong các HĐTTTP để đàm phán, ký kết Hiệp định riêng về dẫn độ với các nước liên quan. Điều này là hoàn toàn phù hợp với xu hướng mà Việt Nam đang thực hiện từ năm 2003 đến nay là tăng cường ký kết các HĐTTTP riêng về từng lĩnh vực dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù. Hai là: Tăng cường đàm phán, ký kết Hiệp định dẫn độ với các nước trên thế giới, trong đó ưu tiên đàm phán, ký kết Hiệp định dẫn độ với các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc. Ba là: Nghiên cứu rút một số bảo lưu liên quan đến dẫn độ trong các ĐƯQT về đấu tranh phòng, chống tội phạm mà khi gia nhập Việt Nam đã bảo lưu gồm: (1) Ba Công ước của Liên Hợp Quốc về kiểm soát ma túy; (2) Nghị định thư không bắt buộc về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung Công ước quyền trẻ em năm 2000; (3) Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng năm 2003; (4) Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2003 vì các lý do sau đây: - Với việc ban hành Luật TTTP và Luật này đã có hiệu lực từ ngày 01/7/2008, pháp luật về dẫn độ của nước ta đã khá đầy đủ, đồng bộ đảm bảo cho việc hợp tác dẫn độ có hiệu quả giữa Việt Nam với các nước thành viên. Mặt khác, các quy định về dẫn độ được quy định trong các điều ước nói trên về cơ bản là phù hợp với pháp luật Việt Nam về dẫn độ, đặc biệt là Luật TTTP. - Các quy định về dẫn độ trong các ĐƯQT nói trên không phải là quy phạm bắt buộc các quốc gia thành viên phải áp dụng trong mọi trường hợp. Do đó, ngay cả khi rút lại các bảo lưu thì Việt Nam vẫn có thể xem xét để áp dụng hoặc không áp dụng trong từng trường hợp cụ thể. - Rút lại các bảo lưu nói trên là cần thiết để nước ta thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của các điều ước đó. Đồng thời, mở rộng cơ sở pháp lý và phạm vi hợp tác dẫn độ với các quốc gia trên thế giới là thành viên của các ĐƯQT nói trên. - Rút lại các bảo lưu về dẫn độ trong các ĐƯQT nói trên cũng không bắt buộc Việt Nam phải sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản pháp luật hoặc thực hiện nghĩa vụ tài chính nào và cũng không ảnh hưởng đến chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Bốn là: Nghiên cứu gia nhập các ĐƯQT còn lại về chống khủng bố của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam chưa gia nhập gồm: Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin năm 1979; Công ước về bảo vệ an toàn vật liệu
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan