Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật việt nam từ thực tiễn quận ngũ hành sơn, th...

Tài liệu đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật việt nam từ thực tiễn quận ngũ hành sơn, thành phố đà nẵng

.DOC
74
357
142

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH TÂM ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HUỲNH TÂM ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS HOÀNG THẾ LIÊN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu và kết quả trong luận văn là trung thực. Nếu có gì sai sót, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả luận văn Huỳnh Tâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH...........................................................8 1.1. Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh.............................................................8 1.2. Pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh................................................................. 19 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG...........41 2.1. Thực trạng pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh...............................................41 2.2. Thực tiễn hoạt động đăng ký hộ kinh doanh ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.................................................................................................................. 44 CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NHỮNG BẤT CẬP CỦA PHÁP LUẬT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH............................................................................ 55 3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh.......................55 3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh................................58 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đăng ký hộ kinh doanh.....61 KẾT LUẬN............................................................................................................ 65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng 2.1. Tên bảng Số liệu thống kê đăng ký hộ kinh doanh tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 đến năm 2018 Trang 51 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển nhảy vọt trong nhiều lĩnh vực, cũng như những chuyển biến tích cực trong thời gian qua. Song song với sự phát triển kinh tế - xã hội đó, số lượng hộ kinh doanh cũng gia tăng nhanh chóng trên quy mô toàn quốc. Phải hơn nửa thập kỉ tiến hành những cuộc cải cách về kinh tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật, thành phần kinh tế cá thể (hộ kinh doanh) đã được khai sinh trở lại và từng bước đạt được sự phát triển nhất định, nó đã đang và sẽ ngày càng khẳng định vị trí, tầm quan trọng của mình trong nền kinh tế nhiều thành phần dưới sự quản lý của nhà nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam với việc thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường, trong đó có sự tham gia của thành phần kinh tế cá thể, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI cũng đã đưa ra giải pháp: “Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Sử dụng khả năng tích cực của kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, đồng thời vận dụng và tổ chức những người lao động cá thể vào các hình thức làm ăn tập thể để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh…”. Nếu như thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò then chốt và là động lực cho sự phát triển kinh tế, thì thành phần kinh tế cá thể tuy chiếm tỉ trọng nhỏ so với các thành phần kinh tế còn lại nhưng lại được đánh giá cao trong việc góp phần phát triển bền vững kinh tế đất nước, góp một nguồn thu không nhỏ cho ngân sách quốc gia, đáp ứng những yêu cầu của xã hội mà các thành phần kinh tế khác không thể mang lại, nâng cao chất lượng đời sống của con người. Thành phần kinh tế cá thể (hộ kinh doanh) đã, đang và sẽ ngày một chiếm vị trí quan trọng, là nguồn lực mạnh mẽ trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân. Chính vì hiểu được tầm quan trọng của hộ kinh doanh mà pháp luật nước ta đã không ngừng sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn, đến nay các quy định về hộ kinh doanh đã có nhiều thay đổi, chủ yếu là quy định về đăng ký hộ 1 kinh doanh như: khái niệm pháp lý về “hộ kinh doanh” chính thức được sử dụng, mở rộng chủ thể có quyền thành lập hộ kinh doanh, đơn giản hóa các thủ tục về đăng ký kinh doanh cũng như các điều kiện để đăng ký,… Sự rõ ràng, cụ thể trong quy định pháp lý về đăng ký hộ kinh doanh, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng ký của người dân, qua đó thúc đẩy việc mở rộng và phát triển hộ kinh doanh trên phạm vi toàn quốc, tăng của cải xã hội, tạo việc làm và tăng nguồn thu nhập, nâng cao chất lượng đời sống và góp phần phát triển kinh tế xã hội đất nước. Nhìn chung việc đăng ký kinh doanh nói chung và đăng ký hộ kinh doanh nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong mọi mặt của đời sống, xã hội. Nó không chỉ đảm bảo quản lý nhà nước, mà hơn hết còn đảm bảo quyền và lợi ích của những chủ thể khi tham gia vào hoạt động kinh doanh. Thành phần kinh tế cá thể phát triển và hoạt động rộng khắp trong nhiều lĩnh vực, ngành sản xuất như giao thông vận tải, ăn uống, dịch vụ,… Đây là thành phần kinh tế nhạy bén trong trong kinh doanh, dễ dàng chuyển đổi ngành nghề kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu của thị trường. Theo số liệu của Tổng cục thống kê đến ngày 01/7/2017 cả nước có 5,1 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, tăng 9% so với năm 2012, thu hút 8,7 triệu lao động. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các hộ kinh doanh Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót, bất cập, chưa phát huy hết tiềm năng của mình, gặp nhiều khó khăn từ nhiều nguyên nhân bắt nguồn chủ yếu từ sự chưa rõ ràng và thiếu đồng bộ của các văn bản quy phạm pháp luật dẫn đến những khó khăn nhất định trong quá trình thực thi pháp luật tại nước ta. Đặc biệt tại Thành phố Đà Nẵng nói chung và quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng nói riêng, Luật Doanh nghiệp 2014 với những quy định pháp lý khá cụ thể đã tạo điều kiện tương đối thuận lợi cho việc đăng ký hộ kinh doanh, nhưng vẫn còn tồn tại một số bất cập, nhất là trong quy định về điều kiện kinh doanh, trình tự thủ tục hành chính. Để đáp ứng nhu cầu đăng ký của hộ kinh doanh và thực hiện tốt công tác kiểm tra, quản lý của cơ quan nhà nước, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu thấu đáo về lý luận và sự tổng kết thực tiễn sâu sắc để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện pháp luật về đăng kí kinh doanh theo hướng phù hợp với thực tiễn. 2 Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy rằng việc nghiên cứu pháp luật đăng kí kinh doanh từ thực tiễn của địa phương là cần thiết, phản ánh thực tiễn mang tính phản hồi đối với quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh góp phần làm cho pháp luật sát với yêu cầu thực tiễn nhằm thúc đẩy việc thành lập cũng như hoạt động của hộ kinh doanh, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Là vấn đề không quá mới mẻ nhưng lại có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước, nên tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài: “Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng” nhằm làm rõ các quy định pháp lý xoay quanh các thủ tục hành chính về công tác cấp đăng ký hộ kinh doanh, qua đó làm rõ những điểm mới, điểm hạn chế còn tồn tại và đề ra phương án giải quyết góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đăng ký hộ kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho chủ thể kinh doanh phát triển. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về đăng ký hộ kinh doanh nhưng mỗi công trình đều tiếp cận từ những góc nhìn và khía cạnh pháp lý khác nhau. Qua tìm hiểu, bản thân tác giả nhận thấy rằng mỗi công trình đều đưa ra những quan điểm lý luận và nhận định không giống nhau. Thứ nhất, các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo và giáo trình thì phải kể đến như: Giáo trình Pháp luật kinh tế Tập 1, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, Hà Nội 2008 của Tiến sĩ Nguyễn Hợp Toàn; Giáo trình Luật Thương mại, NXB Giáo dục năm 2008 của Thạc sĩ Vũ Đặng Hải Yến đề cập đến pháp luật hộ kinh doanh tại phần II, chương II, tập 1; Tập bài giảng chủ thể kinh doanh năm 2008-2009 của Khoa Luật thương mại, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; ngoài ra pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh cũng được đề cập trong giáo trình phần kiến thức chung của Khoa Luật kinh tế - Học viện Khoa học Xã hội. Tại các trường đại học có chuyên ngành luật hoặc các ngành thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại thì trong chương trình đào tạo luôn đề cập đến các vấn đề đăng ký kinh doanh, đặc biệt chú trọng kiến thức về đăng ký hộ kinh doanh với những kiến thức 3 cơ bản, cần thiết. Thứ hai, ngoài các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo và giáo trình thì vấn đề đăng ký hộ kinh doanh còn được khá nhiều nhà khoa học nghiên cứu và công bố thông qua các bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành. Trong đó, đáng chú ý nhất là bài: “Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất cập” của PGS.TS Ngô Huy Cương, Tạp chí khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2009. Thứ ba, một số luận văn thạc sĩ luật có đề tài nghiên cứu về hộ kinh doanh đã phân tích, làm rõ pháp luật về hộ kinh doanh, chỉ ra những bất cập và đề xuất hướng giải pháp khắc phục. Tác giả Hoàng Minh Sơn với đề tài nghiên cứu “Pháp luật về hộ kinh doanh ở Việt Nam”, đã tập trung lý giải khá kỹ vấn đề lý luận về hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam. Tác giả Võ Thị Xuân Danh với đề tài nghiên cứu “Đăng ký kinh doanh đối với hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Quận Gò Vấp”, đã phân tích nhiều về thực trạng các quy định pháp lý về đăng ký hộ kinh doanh từ thực tiễn thi hành pháp luật tại địa bàn quận Gò Vấp. Bằng việc tiếp cận từ những khía cạnh và mức độ khác nhau, điều kiện nghiên cứu khác nhau nên mỗi công trình đều mang lại những giá trị lý luận và thực tiễn khác nhau. Nhìn chung, hầu hết đều đề cập đến những quy định của pháp luật về kinh doanh với những phân tích khá sâu về đặc điểm, nội dung pháp lý và thủ tục thi hành đăng ký hộ kinh doanh. Mỗi công trình đều thể hiện quan điểm riêng của tác giả về vấn đề khoa học đặt ra, góp phần nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò và tầm quan trọng của pháp luật đăng kí hộ kinh doanh trong đời sống. Cho đến nay, có thể nói là chưa có công trình nghiên cứu nào về đăng ký hộ kinh doanh gắn với thực tiễn Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, nghiên cứu này kế thừa những nghiên cứu đã có, đồng thời góp thêm một nghiên cứu thực tiễn ở một thành phố khá năng động. Hơn nữa, những vấn đề mới mẻ trong nội dung pháp lý về đăng ký hộ kinh doanh, thủ tục đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 sẽ được tìm hiểu, cập nhật và phân tích đầy đủ trong công trình nghiên cứu dưới đây. 4 Trên tinh thần kế thừa kết quả nghiên cứu các công trình trước và nghiên cứu các quy định pháp lý hiện hành, tác giả hy vọng có thể đưa ra những phân tích sâu sắc về đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật hiện hành, phần nào giải đáp, làm sáng tỏ những quy định mới mẻ, tìm hiểu những bất cập và kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh cũng như để giải quyết những bất cập trong thực tiễn đăng ký hộ kinh doanh tại các cơ quan địa phương. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh, đặc biệt làm rõ những quy định mới của pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp, đồng thời chỉ ra những hạn chế trong đăng ký kinh doanh. Qua phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh và thực tiễn áp dụng tại Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký kinh doanh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để có thể đạt được những mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật. - Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động đăng ký hộ kinh doanh, làm rõ ưu điểm và mặt còn bất cập, hạn chế trong đăng ký kinh doanh. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, khắc phục những hạn chế trong đăng ký kinh doanh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là hộ kinh doanh, pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh và thực tiễn hoạt động đăng ký hộ kinh doanh ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà 5 Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và đăng ký hộ kinh doanh theo quy định Luật Doanh nghiệp 2014 và các nghị định hướng dẫn thi hành. Về thực tiễn, luận văn nghiên cứu thực trạng hoạt động đăng ký hộ kinh doanh ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mac – Lenin, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Thứ nhất, phương pháp tiếp cận hệ thống nhằm làm rõ bản chất pháp lý của đăng ký hộ kinh doanh. Thứ hai, phương pháp tổng hợp, phân tích các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về hộ kinh doanh giúp làm rõ các khái niệm, đặc điểm hộ kinh doanh, đăng ký kinh doanh, hoạt động đăng ký hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam. Thứ ba, phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ sự khác nhau của các quy định pháp luật trong các thời kì lịch sử, đồng thời đối chiếu các quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký hộ doanh với quy định về các loại hình doanh nghiệp khác để từ đó thấy được vị trí, vai trò của hộ kinh doanh, điểm tiến bộ của pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp 2014 so với các văn bản quy phạm pháp luật trước đó. Thứ tư, để xem xét và đánh giá khách quan lịch sử hình thành, quá trình phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử để có thể khái quát toàn bộ quá trình đó. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận 6 Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm sâu sắc hơn một số vấn đề lý luận về hộ kinh doanh, pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh. Với mong muốn góp phần hệ thống hóa và đánh giá toàn diện về hộ kinh doanh theo quy định của nước ta, luận văn đã chỉ ra những điểm mới, đồng thời cũng chỉ ra những điểm hạn chế còn tồn tại cần được thay đổi và khắc phục để hoàn thiện pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Từ thực tiễn hoạt động đăng ký hộ kinh doanh ở Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà Nẵng, luận văn phản ánh sự phản hồi của một góc thực tiễn đối với quy định pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh. Với ý nghĩa đó, luận văn có thể trở thành nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho công tác lập pháp, tổ chức thi hành pháp luật và nghiên cứu giảng dạy. 7. Kết cấu luận văn Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì kết cấu luận văn gồm có 03 chương, cụ thể: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh và pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh. Chương 2: Thực trạng pháp luật về đăng ký hộ kinh doanh và thực tiễn hoạt động đăng ký hộ kinh doanh trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Phương hướng và giải pháp khắc phục những bất cập của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký hộ kinh doanh. 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ HỘ KINH DOANH 1.1. Những vấn đề lý luận về hộ kinh doanh 1.1.1. Khái niệm hộ kinh doanh Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc. Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh doanh, nền kinh tế Việt Nam ngày càng có những bước tiếp cận đầy đủ hơn với cơ chế thị trường. Trong bối cảnh đó, xu hướng thành lập hộ kinh doanh ngày càng gia tăng về số lượng, góp một phần không nhỏ vào việc tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Qua mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, hộ kinh doanh được định nghĩa khác nhau do đó nội dung pháp lý cũng khác nhau. Mặc dù vậy, hộ kinh doanh đa phần được hiểu chỉ do một số cá nhân hoặc một nhóm người đăng ký kinh doanh và hoạt động nhằm tìm kiếm lợi nhuận. “Hộ kinh doanh cá thể là một loại hình doanh nghiệp được sở hữu và điều hành bởi một người và trong đó không có sự phân biệt pháp lý giữa chủ sở hữu và thực thể kinh doanh. Chủ sở hữu kiểm soát trực tiếp tất cả các yếu tố và chịu trách nhiệm về mặt pháp lý đối với tài chính của doanh nghiệp đó và điều này có thể bao gồm các khoản nợ, cho vay, thua lỗ,… Một thương nhân cá thể không nhất thiết phải làm việc một mình mà có thể thuê người khác” [2]. Đối với nền kinh tế nước ta, hộ kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bao trùm, khu vực sản xuất kinh doanh cá thể, hộ kinh doanh giúp giải quyết việc làm cho một bộ phận khá lớn dân cư, linh hoạt trong nhiều trường hợp và gia tăng mạnh mẽ về số lượng. Để thực hiện các mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, hộ kinh doanh phải tuân theo các quy định pháp lý để hình thành và phát triển, dựa trên những cơ sở nền tảng đó giúp cá nhận hiện thực hóa các ý tưởng về kinh doanh, sản xuất. Từ trước đến nay, hộ kinh doanh được biết đến với những tên gọi pháp lý khác 8 nhau, điều này cũng thể hiện rõ bản chất, những đặc điểm riêng biệt qua từng thời kì. Trước khi có Nghị định 88/2006/NĐ-CP của Chính phủ, hộ kinh doanh được gọi là hộ kinh doanh cá thể và tên gọi này được ghi nhận tại hai Nghị định của Chính phủ về đăng ký kinh doanh là Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 và Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004. Tại Khoản 1 Điều 24 Nghị định 109/2004/NĐ-CP quy định: “Hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Cho đến Nghị định số 88/2006/NĐ-CP, với tên gọi pháp lý mới “hộ kinh doanh” do đó định nghĩa cũng có sự thay đổi rõ rệt, bổ sung thêm những đặc điểm pháp lý mới: “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một gia đình làm chủ, chỉ được kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Như vậy so với những tên gọi “hộ cá thể” và “hộ tiểu công nghiệp” được quy định trong Nghị định số 27/HĐBT ngày 09/3/1988, trải qua giai đoạn bổ sung, hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh, đến nay khái niệm về hộ kinh doanh có những sự thay đổi khác biệt và nội dung khá đầy đủ, phản ánh đúng bản chất về hộ kinh doanh, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 về Đăng ký doanh nghiệp đã cụ thể hóa và đưa ra các quy định rõ ràng về vấn đề đăng ký hộ kinh doanh: “Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Tại Nghị định này đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ của hộ kinh doanh trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, góp phần tạo dựng hành lang pháp lý về kinh doanh thương mại thêm vững chắc. [7] Với những đóng góp to lớn cho nền kinh tế quốc dân, đòi hỏi cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh, nhằm từng bước thúc đẩy 9 loại hình kinh doanh nhỏ lẻ phát triển, khai thác tối đa các giá trị sản xuất. Trước yêu cầu đó, Luật Doanh nghiệp 2014 và Nghị định 78/2015/NĐ-CP được ban hành quy định cụ thể các vấn đề pháp lý về hộ kinh doanh và thủ tục đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh, đề cập đến các quy định pháp lý về loại hình kinh doanh đặc thù mang tính chất cá nhân, không thành lập tổ chức, có địa điểm cố định hay không cố định là hộ kinh doanh. Khoản 1 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP quy định rõ: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh”. Điều khoản đã thể hiện đầy đủ nội dung về chủ sở hữu, quy mô kinh doanh và chế độ trách nhiệm của chủ sở hữu. Xét về nội hàm khái niệm, có thể nhận thấy hộ kinh doanh là một loại hình kinh doanh được thành lập và đăng ký theo quy định của pháp luật nhằm tiến hành các hoạt động kinh doanh. Theo đó, chúng ta cần phân biệt rõ hộ kinh doanh là loại hình mà chủ thể kinh doanh không có tư cách pháp nhân do một cá nhân hoặc một hộ gia đình làm chủ kinh doanh, khác với hợp tác xã và doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hộ kinh doanh gồm ba loại chính căn cứ vào chủ thể tạo lập hay sở hữu nó: Một là hộ kinh doanh do một cá nhân làm chủ, hai là hộ kinh doanh do gia đình làm chủ và cuối cùng là hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ. Hộ kinh doanh chỉ được đăng ký một giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, chỉ được đăng ký tại một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động nhằm phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Theo quy định pháp luật hiện hành, hộ kinh doanh không hoàn toàn phải là cá nhân kinh doanh mà có thể là các thành viên tham gia góp vốn để cùng hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên so với các loại hình doanh nghiệp khác, hoạt động kinh doanh cả hộ kinh doanh cũng bị hạn chế hơn nhiều. Mặc dù hộ kinh doanh hoạt động trên nhiều lĩnh vực sản xuất, dịch vụ và thương mại mà tập trung chủ yếu vẫn là các hoạt động kinh doanh nhỏ lẻ. Do bản chất đặc thù nên hộ kinh doanh có những quy định pháp lý khác với các loại hình 10 doanh nghiệp khác, quy định rõ về một số ngành nghề không được kinh doanh theo hình thức hộ kinh doanh như là bất động sản, kinh doanh vàng, kinh doanh bảo hiểm… Vì quy mô tương đối nhỏ nên hộ kinh doanh chỉ được sử dụng không quá mười lao động, hoạt động kinh doanh đối với hộ kinh doanh thông qua việc ấn định thuế khoán không phải báo cáo thuế hàng tháng hay quyết toán thuế hàng năm như doanh nghiệp, hộ kinh doanh không có con dấu và không tự xuất hóa đơn giá trị gia tăng như doanh nghiệp. Từ khái niệm nêu trên, hộ kinh doanh được phân biệt với các chủ thể kinh doanh khác dựa vào đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, hộ kinh doanh mang tính chất nhỏ lẻ, vốn thấp và lượng lao động ít. Thứ hai, hộ kinh doanh mang dấu ấn gia đình thể hiện thông qua việc thực hiện kinh doanh và lực lượng lao động sản xuất bao gồm các cá nhân có quan hệ huyết thống. Thứ ba, mô hình kinh doanh tương đối nhỏ, bộ máy quản lý đơn giản, thông thường chủ sở hữu là người trực tiếp quản lý, điều hành các hoạt động kinh doanh. Khái niệm hộ kinh doanh được quy định khác nhau qua các giai đoạn phát triển hoàn thiện hệ thống pháp luật, song ở giai đoạn nào thì vai trò của hộ kinh doanh đối với sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước vẫn không thể phủ nhận. Chính vì vậy, khái niệm về hộ kinh doanh được quy định rõ, cụ thể hóa trong các văn bản pháp lý là vô cùng cần thiết nhằm phát triển bền vững, ổn định kinh tế nói chung và hộ kinh doanh nói riêng. 1.1.2. Đặc điểm của hộ kinh doanh Một là, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân và không có con dấu pháp nhân, hộ kinh doanh là chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam. Hộ kinh doanh mang bản chất là cá nhân kinh doanh và do một cá nhân thành lập, do đó không thể là pháp nhân. Hơn nữa, hộ kinh doanh khác với loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, bởi công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là một thực thể tách biệt với chủ sở hữu của nó. Ngược lại, hộ kinh doanh lại không tách biệt với chủ sở hữu, mọi tài sản của hộ kinh doanh đều là tài sản của tự cá nhân tạo lập và được hưởng toàn bộ lợi nhuận sau khi đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo quy 11 định pháp luật và gánh chịu mọi nghĩa vụ liên quan. Theo mô hình hộ kinh doanh, cá nhân chủ hộ hoặc cá nhân thành viên của hộ tiến hành hoạt động kinh doanh và chịu trách nhiệm trực tiếp các rủi ro trong kinh doanh bằng toàn bộ tài sản. Ngoài ra, hộ kinh doanh không thể nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật mà lệ thuộc vào tư cách cá nhân của chủ hộ hoặc đại diện hộ. Mặc dù Nghị định 78/2015/NĐ-CP không quy định rõ tư cách pháp lý của hộ kinh doanh nhưng với đặc điểm về sở hữu tài sản và trách nhiệm về tài sản nêu trên, hộ kinh doanh không thỏa mãn đầy đủ các điểu kiện của một pháp nhân theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Hộ kinh doanh không thỏa mãn hai trong bốn dấu hiệu của một pháp nhân, đó là: “có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác” và “nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Một điểm khác biệt lớn so với các loại hình doanh nghiệp khác chính là việc hộ kinh doanh không có con dấu được khắc và đăng ký theo đúng quy định pháp luật tại cơ quan thẩm quyền. Nghị định 96/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp, quy định cụ thể: “Quy định về con dấu trong Nghị định này áp dụng đối với công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân đăng ký doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư. Tổ chức đơn vị được thành lập theo các luật sau đây không áp dụng quy định về con dấu trong Nghị định này mà thực hiện theo quy định hiện hành về quản lý và sử dụng con dấu”. Theo quy định pháp luật về con dấu thì hộ kinh doanh không có con dấu pháp nhân như các loại hình doanh nghiệp khác, hộ kinh doanh không được làm con dấu pháp nhân (dấu tròn), mà chỉ có thể sử dụng dấu vuông, dấu chữ ký, dấu logo để cung cấp thông tin về hộ kinh doanh cá thể. Hai là, hộ kinh doanh là hình thức kinh doanh với quy mô nhỏ. Đặc điểm này không xuất phát từ bản chất của hình thức này mà xuất phát từ những quy định của pháp luật Việt Nam dựa trên việc căn cứ vào số lượng lao động được sử dụng để sản xuất, kinh doanh. Theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp 2014, hộ kinh doanh là đơn vị có quy mô nhỏ nên phải thực hiện việc đăng ký kinh doanh và hoạt động dựa trên các quy định của Chính phủ, do đó hình thức kinh doanh này không chịu sự 12 điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Việc hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên hơn mười lao động phải tiến hành đăng ký thành lập doanh nghiệp theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014. Khoản 3 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP: “Hộ kinh doanh có sử dụng từ mười lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp theo quy định”. Như vậy, quy định hiện hành về dấu hiệu xác định quy mô hộ kinh doanh trọng Nghị định 78/2015/NĐ-CP đã kế thừa những quy định tiến bộ đã có trong các nghị định trước đó. Tuy nhiên, Nghị định 78/2015/NĐ-CP chỉ bắt buộc hộ kinh doanh sử dụng thường xuyên 10 lao động trở lên phải đăng ký thành lập doanh nghiệp nhưng lại không cân nhắc đến yếu tố trong trường hợp hộ kinh doanh có hơn một địa điểm kinh doanh thì có phải thành lập doanh nghiệp hay không. Điều này dẫn đến nhiều bất cập trong thực tiễn thi hành các quy định pháp luật. [11] Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính nghề nghiệp thường xuyên, nghĩa là hộ kinh doanh hoạt động một cách chuyên nghiệp và thu nhập chính đáng của họ xuất phát từ hoạt động kinh doanh. Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh quy định: “Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký, trừ trường hợp kinh doanh các ngành nghề có điều kiện”. Bốn là, hộ kinh doanh sử dụng không quá mười lao động và đăng ký kinh doanh tại một địa điểm. Điều này giúp phân biệt hộ kinh doanh và các loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên việc ấn định số lượng lao động và địa điểm kinh doanh lại cho thấy sự ràng buộc quy mô hoạt động của hộ kinh doanh trong sản xuất, khiến cho quyền tự do kinh doanh bị bó buộc, không thể mang lại hiệu quả kinh doanh với năng xuất cao. Năm là, hộ kinh doanh do một cá nhân, một nhóm người hoặc một gia đình làm chủ sở hữu. Theo đó, cả ba nhóm đối tượng được pháp luật Việt Nam cho phép thành lập hộ kinh doanh, bao gồm cá nhân là công dân Việt Nam, nhóm người, hộ gia đình. Nhóm người hoặc chủ hộ cần phải cử một người đủ điều kiện là đại diện cho nhóm hoặc cho hộ để tham gia giao dịch với bên ngoài. Mặc dù là chủ thể kinh 13 doanh chuyên nghiệp nhưng hộ kinh doanh không có tư cách của doanh nghiệp, không có con dấu, không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện và hơn nữa không được thực hiện các quyền mà doanh nghiệp có như hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hay áp dụng Luật phá sản khi thua lỗ trong kinh doanh. Hình thức hộ kinh doanh chỉ thể hiện tại Việt Nam, xét riêng dưới góc độ chủ thể hộ kinh doanh thì không nước nào trên thế giới có mô hình kinh doanh mà có thể tồn tại ba loại chủ sở hữu. Vị trí của hộ kinh doanh đã được Nhà nước công nhận và thể hiện một cách sâu sắc trong xã hội nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực cho tình hình phát triền kinh tế đất nước. Sáu là, chủ hộ kinh doanh chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt động kinh doanh, đối với các khoản nợ, cũng như các khoản tiền nộp thuế khi tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tài sản kinh doanh và tài sản của chủ hộ kinh doanh không có sự tách bạch, cũng như không có sự phân biệt rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của chủ hộ kinh doanh và hộ kinh doanh. Khác với loại hình doanh nghiệp với trách nhiệm hữu hạn, có vốn điều lệ và chịu trách nhiệm giới hạn đối với hoạt động kinh doanh. Khi lựa chọn hình thức hộ kinh doanh đồng nghĩa với việc chủ sở hữu quyết định chịu trách nhiệm không hạn định bằng toàn bộ tài sản của mình, kể cả tài sản không đưa vào kinh doanh. Chính vì vậy, Nhà nước không yêu cầu chủ sở hữu phải chuyển quyền sở hữu đối với tài sản, mà chỉ cần đăng ký với cơ quan có thẩm quyền về vốn mà mình đầu tư. Đặc điểm này của hộ kinh doanh có thể được xem là một trong những hạn chế của loại hình này, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa lợi ích không chỉ với chủ sở hữu mà còn ảnh hưởng đến việc quy rõ trách nhiệm rủi ro cho các đối tác hợp tác kinh doanh với hộ kinh doanh. Theo quy định pháp luật, trong bất kì trường hợp nào thì chủ sở hữu cũng là người chịu trách nhiệm cuối cùng về toàn bộ các khoản nợ, cũng như các nghĩa vụ tài sản khác trong quá trình hoạt động kinh doanh sinh lợi. Dù chủ sở hữu là một trong ba loại chủ thể nêu trên thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình và phải thanh toán các khoản nợ đến cùng. Ở đây còn phải bàn đến việc nếu chủ sử hữu là nhóm người hoặc hộ gia đình thì các thành viên trong nhóm hoặc trong gia 14 đình phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động kinh doanh. Hộ kinh doanh là một loại đặc thù riêng ở nước ta, do kinh tế đất nước ngày càng phát triển nên hộ kinh doanh cũng ngày càng tăng, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Với các quy định về hộ kinh doanh cho thấy việc Nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích người dân được tự do kinh doanh, có điều kiện đăng ký kinh doanh phát triển riêng lẻ, không nhất thiết phải theo con đường thành lập doanh nghiệp. 1.1.3. Cơ sở kinh tế - xã hội của việc hình thành hộ kinh doanh tại Việt Nam Việt Nam là quốc gia đang phát triển với nhiều tiềm lực kinh tế, do vậy bên cạnh việc đưa ra các chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài để đẩy mạnh cạnh tranh kinh tế và dòng tiền ngoại bang thì việc đẩy mạnh sản xuất kinh doanh trong nước cũng là một trong những chiến lược phát triển lâu dài. Trong chiến lược phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, ngay từ đầu vai trò của hộ kinh doanh đã được đề cập và trở thành một trong các thành phần trọng yếu đối với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Có thể nói hộ kinh doanh là thành phần đã đóng góp lâu dài cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tìm hiểu cơ sở kinh tế - xã hội của việc hình thành hộ kinh doanh tại Việt Nam nhằm hiểu rõ hơn vị trí của hộ kinh doanh trong nền kinh tế nước nhà. Ở Việt Nam, hộ kinh doanh vẫn là loại hình ưa chuộng và được sử dụng rộng khắp cả nước. Hộ kinh doanh là loại hình có rất nhiều ưu điểm, phù hợp với đất nước ta trong quá trình xây dựng và phát triển. Hộ kinh doanh tập trung ở nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu nhất là nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thương,… Vì vậy, chính sách khuyến khích phát triển hộ kinh doanh của Đảng và Nhà nước ta thực chất là việc thực hiện phát triển hiệu quả và hợp lý các hình thức sản xuất và kinh doanh trong nông nghiệp. Khởi đầu là một quốc gia phát triển trọng yếu về nông nghiệp nên đa phần các tầng lớp trong xã hội đều có mối quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của nền kinh 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan