Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đảng lãnh đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc mỹ trên chiến trường chính miền nam...

Tài liệu đảng lãnh đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc mỹ trên chiến trường chính miền nam từ năm 1965 đến năm 1973.

.DOC
204
1283
72

Mô tả:

2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi và chưa được công bố dưới bất kỳ hình thức nào. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận án có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày 18 tháng 7 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Văn Thái 3 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 1 Ban Chấp hành Trung ương BCHTƯ 2 Bộ Chính trị BCT 3 Chính trị quốc gia CTQG 4 Chủ nghĩa xã hội CNXH 5 Dân chủ cộng hòa DCCH 6 Đảng Cộng sản Việt Nam ĐCSVN 7 Hội nghị Trung ương HNTƯ 8 Miền Nam Việt Nam MNVN 9 10 Nhà xuất bản Xã hội chủ nghĩa Nxb XHCN 4 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỤC LỤC MỞ ĐẦU TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Chương 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO KIỀM CHẾ VÀ ĐÁNH THẮNG 1.1. 1.2. 1.3. Chương 2 ĐẾ QUỐC MỸ TRÊN 5 10 CHIẾN TRƯỜNG CHÍNH MIỀN NAM (1965 – 1968) Yêu cầu khách quan kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam Chủ trương của Đảng Đảng chỉ đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam (1965 - 1968) KIỀM CHẾ VÀ ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ 31 31 45 54 TRÊN CHIẾN TRƯỜNG CHÍNH MIỀN NAM 2.1. 2.2. 2.3. (1969 -1973) Tình hình sau năm 1968 Đảng chủ trương kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam Chỉ đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam (1969 -1973) NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM Nhận xét Một số kinh nghiệm Chương 3 3.1. 3.2. KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 85 85 95 108 132 132 145 164 167 168 187 5 MỞ ĐẦU 1. Giới thiệu khái quát về luận án Đề tài “Đảng lãnh đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam từ năm 1965 đến năm 1973” được tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ khoa học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử ĐCSVN. Nội dung chính của luận án sẽ tập trung làm rõ yêu cầu khách quan, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam từ năm 1965 đến năm 1973, qua hai giai đoạn 1965 - 1968 và 1969 - 1973; trên cơ sở đó đưa ra những đánh giá, nhận xét ưu, khuyết điểm trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, làm rõ nguyên nhân và đúc rút những kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Những vấn đề luận giải trong luận án được dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về chiến tranh cách mạng; các báo cáo, tổng kết của Trung ương, của các bộ ngành, địa phương về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố. Đây là công trình khoa học độc lập của tác giả, không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố, các luận văn, luận án đã bảo vệ. 2. Lý do lựa chọn đề tài Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam (Chiến tranh Việt Nam - theo cách gọi của phương Tây) được cho là một trong những cuộc chiến tranh khốc liệt nhất của thế kỷ hai mươi. Trong đó, thời kỳ từ 1965 đến 1973 chiến tranh diễn ra với cường độ cao nhất. Từ năm 1965, đế quốc Mỹ tăng cường và mở rộng chiến tranh, lần lượt thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc Việt Nam. Vận mệnh dân tộc Việt Nam đứng trước sự mất còn, có tiếp tục đánh Mỹ hay không? Bằng cách nào để đánh 6 Mỹ và thắng Mỹ? Trong điều kiện so sánh lực lượng chênh lệch, trên thế giới có những đánh giá khác nhau về sức mạnh của Mỹ, nhìn chung là đánh giá quá cao dẫn đến tâm lý sợ Mỹ. Trước những hành động leo thang chiến tranh của Mỹ, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế lo ngại nếu Việt Nam không “kiềm chế”, cứ tiếp tục đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ rất có thể sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới mới. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần độc lập tự chủ, trên cơ sở sự phân tích đánh giá tình hình khách quan, khoa học, ĐCSVN đã đề ra quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ đồng thời chủ trương kiềm chế và đánh thắng Mỹ trên chiến trường chính miền Nam và chỉ đạo cả nước đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược theo chủ trương đó. Đã có nhiều câu hỏi được đặt ra về cuộc “chiến tranh Việt Nam”, trong đó, đáng chú ý nhất là: “vì sao Việt Nam thắng Mỹ?”. “ĐCSVN có vai trò như thế nào?”. Ngay từ những năm chiến tranh chưa kết thúc, nhất là sau này và đến hiện nay, vấn đề này đã và đang được nghiên cứu nhưng chưa được trả lời đầy đủ và thấu đáo, còn có nhiều ý kiến, quan điểm khác biệt, nhất là từ phía Mỹ. Trong các cuộc hội thảo khoa học quốc tế gần đây, nhiều học giả nước ngoài trong đó có Hoa Kỳ, vẫn bày tỏ việc thiếu thông tin và hiểu biết về chiến tranh Việt Nam, dữ liệu mà họ cần để giải thích cho nhân dân Mỹ (và thế giới) về nguồn gốc, tính chất của chiến tranh, về thắng và thua, về nghệ thuật quân sự và vai trò lãnh đạo của ĐCSVN trong cuộc chiến tranh này. Với những người quan tâm đến lịch sử trong giới trẻ Mỹ thì câu hỏi của họ về cuộc chiến tranh Việt Nam là: Tại sao Mỹ can thiệp vào Việt Nam? Tại sao Mỹ thua? Tại sao không đưa quân nhiều hơn nữa, không tấn công bằng lục quân ra miền Bắc Việt Nam để dứt điểm?... Ở Việt Nam, sau khi giành toàn thắng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã có những công trình nghiên cứu tổng kết, những công trình lịch sử dựng lại khá toàn diện về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và 7 quá trình đánh thắng Mỹ trong những năm 1965 - 1973 nói riêng. Các công trình này đã đề cập khá đầy đủ các khía cạnh, các vấn đề của chiến tranh, nhưng có một vấn đề chưa được nghiên cứu có tính chất hệ thống chuyên sâu đó là sự lãnh đạo của Đảng về kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam trong những năm 1965 - 1973. Chính vì vậy, việc tập trung nghiên cứu vấn đề này có kết quả sẽ góp phần lý giải rõ hơn cho câu hỏi “Vì sao Việt Nam thắng Mỹ?”, đồng thời góp phần làm đầy đủ hơn về lịch sử Đảng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Mặt khác, cũng thông qua nghiên cứu đúc rút những kinh nghiệm về nhận định sức mạnh của Mỹ, cách đánh và cách thắng Mỹ trong chiến tranh để suy ngẫm và tiếp tục vận dụng vào thực hiện công cuộc bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Đảng lãnh đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam từ năm 1965 đến năm 1973” làm luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử ĐCSVN. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Đề tài nghiên cứu làm sáng tỏ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về kiềm chế, đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam từ năm 1965 đến năm 1973; trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm có giá trị tham khảo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ yêu cầu khách quan cần kiềm chế, đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam. Phân tích, luận giải làm rõ chủ trương và chỉ đạo của Đảng kiềm chế, đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam từ năm 1965 đến năm 1973. Đánh giá những thành công, hạn chế và rút ra kinh nghiệm từ thực tiễn Đảng lãnh đạo kiềm chế, đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam từ năm 1965 đến năm 1973. 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng về kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam. * Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận án nghiên cứu bối cảnh quốc tế, âm mưu thủ đoạn của Mỹ trong thực hiện hai chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” từ đó làm nổi bật trọng tâm nghiên cứu là chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam. Về thời gian: Từ đầu năm 1965 đến tháng 1-1973, khi Hiệp định Paris được ký kết. Tuy nhiên, để bảo đảm tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên cứu, luận án có đề cập một số sự kiện trước và sau khoảng thời gian nói trên. Về không gian: Trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam và phạm vi Đông Dương. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của ĐCSVN về chiến tranh cách mạng, chiến tranh và quân đội, chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. * Cơ sở thực tiễn Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở thực tiễn là các báo cáo, tổng kết của Trung ương, của các bộ ngành địa phương; các đề tài khoa học, luận văn, luận án; các sách chuyên khảo, tham khảo của các tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam nói chung, giai đoạn 1965 - 1973 nói riêng. * Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ đạo của luận án là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, đồng thời sử dụng phương pháp so sánh, thống kê, tổng kết lịch sử. 9 6. Những đóng góp mới của luận án Luận án cung cấp một số tư liệu mới về âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ ra miền Bắc và Đông Dương trong những năm 1965 - 1973. Khái quát và hệ thống hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về kiềm chế, đánh thắng Mỹ trên chiến trường chính miền Nam từ năm 1965 đến năm 1973. Luận án đưa ra nhận xét, đánh giá về ưu điểm, hạn chế; đúc rút những kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam. 7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài Kết quả nghiên cứu luận án góp phần khẳng định bản lĩnh chính trị, tinh thần độc lập, tự chủ và sự sáng tạo của ĐCSVN ở thời kỳ khó khăn, quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ - nguyên nhân chủ yếu quyết định nhất đến thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Góp phần tổng kết một thời kỳ lịch sử oanh liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Luận án có thể sử dụng làm tư liệu tham khảo giảng dạy, nghiên cứu và học tập về lịch sử Đảng trong các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội. 8. Kết cấu của luận án Luận án kết cấu gồm: phần Mở đầu, Tổng quan về vấn đề nghiên cứu có liên quan đến đề tài, 03 chương (08 tiết), Kết luận, Danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. 10 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI: “ĐẢNG LÃNH ĐẠO KIỀM CHẾ VÀ ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG CHÍNH MIỀN NAM TỪ NĂM 1965 ĐẾN NĂM 1973” 1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài Ở nước ngoài, đặc biệt là ở Mỹ có rất nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam (ở Mỹ có khoảng hơn 30 nghìn cuốn sách và bài báo). Có thể phân chia thành các nhóm tác giả như sau: *Nhóm quan chức: Gồm những quan chức quan trọng trong bộ máy lập pháp, hành pháp và cơ quan thuộc cỗ máy chiến tranh của Mỹ tham gia viết về chiến tranh Việt Nam. Đa số các tác giả thuộc nhóm này thường xuất bản sách sau khi chiến tranh đã kết thúc hoặc sau khi đã nghỉ hưu. Nhiều tác phẩm đề cập cuộc chiến tranh ở Việt Nam dưới những góc độ khác nhau trong đó có Tổng thống Johnson, Tổng thống Nixon, Cố vấn tổng thống Clifford, Cựu ngoại trưởng Kissinger, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mc Namara, cựu đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Nolting, Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk, Tư lệnh quân Mỹ ở Việt Nam Westmoreland, tướng Mỹ đến Việt Nam với nhiều chức vụ cao cấp khác nhau Taylor... Tiêu biểu các cuốn sách ở nhóm tác giả này là: Tường trình của một quân nhân (A Soldier Reports) của William C. Westmoreland [189]; Nhìn lại quá khứ, tấn thảm kịch và bài học về Việt Nam, (In Retropect: The Tragedy and Lesson of Vietnam) [142] và Cuộc tranh cãi không dứt, (Argument without end) Robert S. McNamara [143]; Hồi ký Richard Nixon (The Memoirs of Richard Nixon) của Richard Nixon[144]; ... Các tác phẩm của nhóm này phản ánh nhiều vấn đề khác nhau. Có sự thổi phồng, có sự nghiền ngẫm, day dứt về câu hỏi tại sao Mỹ thua trong cuộc chiến tranh? Nội dung sách của nhóm tác giả này cũng cho thấy những âm mưu, thủ đoạn, tính toán xảo quyệt của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc cũng như 11 sự bất lực, lúng túng, mâu thuẫn của bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ khi tiến hành chiến tranh ở Việt Nam. Đó là những mâu thuẫn trong nội bộ Lầu Năm Góc, Nhà Trắng, giữa các tướng lĩnh về việc muốn mở rộng và tăng cường quy mô cuộc chiến với hậu quả của nó. Có tác giả cũng đề cập, phân tích việc Mỹ luôn phải “nhảy theo vũ điệu chiến lược Bắc Việt”, luôn bị hạn chế chiến tranh trong khuôn khổ MNVN. *Nhóm các nhà khoa học: Đa số họ là giáo sư ở các trường đại học, những nhà nghiên cứu lịch sử, luật gia. Trong số này có nhiều người sống ở Việt Nam trong thời gian dài, theo sát từng bước phát triển của cuộc chiến tranh. Một số giáo sư và học giả có danh tiếng như Gabriel Kolko, Joseph A. Amter, Danien Ellsberg, George C. Herring... Tiêu biểu các tác phẩm của nhóm tác giả này là: Lời phán quyết về Việt Nam (Vietnam Verdict : A Citizen’s History) của Joseph A. Amter [1]; Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon (The United States and Indochina from FDR to Nixon) của Peter A. Pooler [153]; Giải phẫu một cuộc chiến tranh Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại, (Anatomy of war: Vietnam, The united States and the Modern historical Experience) của Gabriel Kolko, [126]; Những bí mật về cuộc chiến tranh Việt Nam (Secrets: A memorior of Vietnam and the Pentagon papers) của Danien Ellsberg [106];... Các đề tài của nhóm tác giả này thường viết theo suốt chiều dài cuộc chiến và có sự phân tích khá sâu sắc. Có rất nhiều công trình phân tích các sự kiện lịch sử từ cả hai phía Việt Nam và Mỹ, chỉ ra nguyên nhân sự thất bại của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Có tác giả nghiên cứu, đề cập đến đường lối kháng chiến và vai trò của ĐCSVN trong cuộc chiến tranh. *Nhóm cựu chiến binh: Có số lượng đông đảo nhất gồm các phóng viên ở chiến trường và đông đảo các cựu chiến binh tham gia nghiên cứu, viết về chiến tranh Việt Nam. Một số tác giả và tác phẩm tiêu biểu có thể kể như: Những bí mật của cuộc chiến tranh Việt Nam (Secret of the Vietnam War) Philip B. Davidson [47]; Việt Nam - Cuộc chiến mười nghìn ngày (Vietnam: 12 The Ten Thousand Day War) của Michael Maclear [135]; The fisrt Battle: Operation Starlite and the Biginning of the Blood Debt in Vietnam của Otto J. Lehrach [192]; The Killing Zone: My life in the Vietnam war của Frederick Down; The Vietnam War: A concise international History của Mark Atwood Laurence; Kill Anything That Moves: The Real American War in Vietnam của Nick Turse ... Đặc điểm chung các cuốn sách, bài viết của nhóm này là ngắn, đề cập đến sự kiện cụ thể. Có thể đánh giá các tài liệu thuộc nhóm này như các trang viết của các nhân chứng đặc biệt về cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Trong rất nhiều các công trình ấy có một số công trình tiêu biểu Luật gia Mỹ Joseph A. Amter viết cuốn Lời phán quyết về Việt Nam [1]. Qua xem xét lại các tài liệu của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, nói về nguy cơ chiến tranh lan rộng và quyết tâm của nhà cầm quyền Mỹ thời kỳ 1965 1973, tác giả viết “Các tướng lĩnh được giao bảo vệ đất nước này nói rằng nếu chúng ta không chặn đứng cộng sản ở Việt Nam, chúng sẽ chiếm toàn châu Á và sau đến lượt chúng ta. Không những còn lâu mới chấm dứt, mà cuộc chiến tranh Việt Nam tiếp tục leo thang” [1, tr.12 - 13]. Nixon luôn nhắc nhở mọi người rằng: Sự dính líu của Mỹ là cái nút đậy cái chai bành trướng của Trung Quốc ở châu Á. Ngay trước khi nhậm chức, Nixon đã yêu cầu đặc biệt xem xét lại chính sách về Việt nam: “Bỏ những hạn chế đã kìm hãm các tư lệnh Mỹ ở chiến trường để cho họ sử dụng sức mạnh ào ạt của Mỹ; Nối lại các cuộc tiến công không quân chống Bắc Việt Nam; Rải mìn cảng Hải Phòng đồng thời đe dọa xâm chiếm Bắc Việt Nam; Đuổi theo các đơn vị vào Lào và Campuchia, tìm cách tiêu diệt các đất thánh của họ và cắt đứt các đường tiếp tế”[1, tr.244], tất cả những lựa chọn này đã được Nixon sử dụng. Tác giả đã quy trách nhiệm cho các Tổng thống Mỹ Johnson và Nixon là những người trong suốt nhiệm kỳ của mình đã lừa dối nhân dân Mỹ, Quốc hội Mỹ và dư luận trên toàn thế giới và đã dùng 13 mọi thủ đoạn dã man nhất, gian dối nhất để cố gắng giành chiến thắng quân sự trong cuộc chiến tranh. Cuốn Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon của Peter A. Pooler [153] là sự sưu tầm, chọn lọc những tư liệu có giá trị trong quá trình vạch ra các chính sách của các đời tổng thống Mỹ nhằm tìm ra nguồn gốc của sự dính líu ngày càng tăng của Mỹ đối với Việt Nam và Đông Dương. Đáng chú ý, tác giả làm cho người đọc thấy ý đồ của Mỹ câu kết với một số nước, đặc biệt là Trung Quốc nhằm mở rộng chiến tranh, ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam và ba nước Đông Dương. Việc mở rộng chiến tranh được ngụy biện: “Việc mở rộng cuộc chiến tranh ra khỏi phạm vi Nam Việt Nam không phải là con đường mà chúng ta muốn tìm kiếm, mà là điều bắt buộc, do áp lực từ bên ngoài ngày càng tăng của cộng sản”[153, tr.172]. Việc Mỹ không ngừng tăng quân chiến đấu trên bộ, mở rộng và kéo dài chiến tranh bằng lục quân ra miền Bắc Việt Nam và Đông Dương được đề cập: Đến tháng 7 năm 1968 Westmoreland tuyên bố cần có thêm 100.000 quân nữa (đưa tổng số lên 670.000 người). Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân tán thành yêu cầu đó và thúc giục chính quyền Johnson động viên các lực lượng dự bị ở Mỹ, mở rộng chiến tranh trên bộ sang các khu vực ẩn náu của đối phương ở các nước láng giềng (Lào, Campuchia và có thể là cả Bắc Việt Nam) dứt khoát là tìm kiếm thắng lợi về quân sự [153, tr.226]. Cuốn Tường trình của một quân nhân [189] của tướng Westmoreland là lời biện minh của một trong những tướng lĩnh được coi là tài ba nhất của nước Mỹ nhưng lại bị thua trận ở Việt Nam. Westmoreland thừa nhận bị “Điện Biên Phủ” ám ảnh, có xin thêm ngay một lúc 206.000 quân và có kế hoạch sử dụng bom nguyên tử chiến thuật. “Nhìn lại” sự kiện Tết Mậu Thân, Westmoreland nuối tiếc kế hoạch mở rộng chiến tranh của ông ta không được thực hiện: “Nếu Tổng thống Johnson thay đổi chiến lược, cho phép tôi tiến hành các cuộc hành quân mà chúng tôi đã trù tính hai năm trước đánh sang Lào, Campuchia và phía Bắc khu phi quân sự...thì chắc chắn Bắc Việt Nam sẽ 14 bị đập tan”. Westmoreland nhận ra: “Mỹ đã có những sai lầm nghiêm trọng khác về chiến lược ở Đông Nam Á, chờ đợi quá lâu không tấn công sang Lào và Campuchia; không chứng minh cho Bắc Việt Nam thấy họ dễ bị đánh tan ở phía Bắc khu phi quân sự”[189, tr.136 - 137]. Việt Nam - Cuộc chiến mười nghìn ngày [135] của Michael Maclear là cuốn sách được tóm tắt từ phim tư liệu. Với lợi thế là nhà báo, phóng viên truyền hình, tác giả đã hệ thống hóa các tư liệu, bao gồm các bài phỏng vấn nhiều nhân vật trong chính giới Mỹ và các nhà lãnh đạo Việt Nam DCCH để làm sáng tỏ các sự kiện và cuộc chiến. Tác giả viết về nguy cơ và kế hoạch mở rộng chiến tranh thời điểm giữa năm 1967: Westmoreland đã đưa ra kế hoạch, đề nghị tối thiểu giới hạn mới 543.000 quân. Đề nghị tối đa là muốn có bất cứ thứ gì cần đến để đưa cuộc chiến tranh trên bộ ra ngoài phạm vi miền Nam Việt Nam... Tổng thống Mỹ đang nhận được một lời khuyên nên đánh tràn vào Bắc Việt Nam. Westmoreland tiết lộ đã chuẩn bị các kế hoạch để thực hiện điều đó” [135, tr.140]. Theo tác giả, cuộc chiến tranh Việt Nam có nguy cơ rất cao bị mở rộng về phạm vi, tăng cường về tính chất và quy mô khi chính quyền Mỹ và Lầu Năm Góc bị chi phối của cặp bài trùng Nixon và Clifford (Clack Mc Adams Clifford - Bộ trưởng Quốc phòng): “Đảm nhiệm chức vụ mới trong vòng một tháng, Nixon đã quyết định biện pháp đầu tiên... Đấy là cuộc hành quân “thực đơn”, cuộc ném bom bí mật tại Campuchia... bước đầu của một chu kỳ leo thang vũ lực để biến Campuchia thành một nước chịu cảnh bi thảm nhất” [135, tr.179 - 180]; “Nixon quyết định sẽ nói gián tiếp với Hà Nội về loại vũ lực mà ông ta có thể sử dụng đến... ông ta đang cân nhắc về sự phong tỏa cảng Hải Phòng và ngay cả cuộc xâm lược miền Bắc” [135, tr.182]; “Nixon đã quy hoạch tất cả những gì mà sau này ông ta làm: Campuchia, Lào, đê điều, máy bay B.52, phong tỏa cảng Hải Phòng, ông ta đã định làm điều đó từ mùa Thu năm 1969” [135, tr.184]. 15 Giải phẫu một cuộc chiến tranh Việt Nam, Mỹ và kinh nghiệm lịch sử hiện đại [126] là cuốn sách được giáo sư Sử học Mỹ Gabriel Kolko nghiên cứu, viết từ năm 1964. Tác giả đã tập hợp các tư liệu để hình thành một quá trình diễn biến bốn thập kỷ người Mỹ can thiệp quân sự vào Đông Dương. Tác giả cũng nói thực trạng điều băn khoăn trong các công trình nghiên cứu ở Mỹ về chiến tranh Việt Nam: Họ bị ám ảnh chủ yếu vì những vấn đề cổ truyền về tại sao Mỹ thua? Đáng ra Mỹ phải thắng, và vì những bài học phải rút ra từ cuộc chiến tranh. Nếu các công trình nghiên cứu về Mỹ bị kém giá trị về mặt phân tích thì các công trình nghiên cứu về ĐCSVN cũng chỉ loanh quanh ở một vài học thuyết trừu tượng khi chiến tranh chấm dứt. Tác giả viết: “Tôi sẽ nghiên cứu về Đảng Cộng sản, Việt Nam cộng hòa và Mỹ, tại sao khả năng về tổ chức, về tư tưởng và về con người đã đưa một bên đến thắng lợi trong khi những điều kiện của bên đó thua kém hơn nhiều về mặt vật chất” [126, tr.10-11]. Về quyết định leo thang chiến tranh và nguy cơ chiến tranh có thể mở rộng vào cuối năm 1964, tác giả cho rằng: “Chủ yếu là vì sự tổng hợp lòng tin và thuyết Domino với cái cho là lợi ích toàn cầu của Mỹ. Chính lập luận này làm hậu thuẫn cho những cam kết lớn hơn”[126, tr.167-168]. Một trong những lý do Mỹ leo thang, theo đuổi chiến tranh: “Nếu Mỹ không đủ sức để thắng những lực lượng chỉ được trang bị sơ sài trong một nước cực kỳ nghèo thì sức mạnh của Mỹ có tác dụng gì đối với các nước khác” [126, tr.169-170]. Nghiên cứu về đường lối kháng chiến ĐCSVN, tác giả viết: “Các nhà lãnh đạo Đảng, nhất là trong quân đội, bắt đầu thảo luận những chiến lược khác nhau để khai thác thế chủ động mà họ đã nắm giữ năm 1965. Trên thực tế, mặc dù các nhà lãnh đạo Đảng sẵn sàng chấp nhận chiến tranh kéo dài, nhưng họ cũng tìm cách thắng chiến tranh trong một thời gian ngắn nếu có thể được”[126, tr.173]. Tác giả đề cập đến sự bị động của quân Mỹ do bị kiềm chế trên chiến trường miền Nam: “Vào giữa năm 1966, lính thủy đánh bộ Mỹ bị cột chặt vào Quân khu 1, thực hiện đúng ý đồ của Quân đội nhân dân kéo quân Mỹ ra tận phía Bắc để cho các lực lượng Mặt trận Dân tộc giải phóng có 16 thể tập trung hoạt động ở các khu đông dân. Vào giữa năm 1967, gần 4 phần 5 các cuộc đụng độ giữa Mỹ và cách mạng xảy ra vào lúc và nơi do cách mạng lựa chọn” [126, tr.192-193]. Sau gần 30 năm rời khỏi Lầu Năm Góc, Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara, người được coi là kiến trúc sư trưởng của chiến tranh Việt Nam đã viết cuốn sách Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam [142]. Trong cuốn sách, lần đầu tiên sau nhiều năm trăn trở, McNamara đã công khai thừa nhận: “Chúng tôi đã ở trong các chính quyền của Kennedy và Johnson, tham gia vào các quyết định về Việt Nam. Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp” [142, tr.12]. Có thể nói đây là lời thú nhận chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ. Trong cuốn sách, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cũng nêu ra cụ thể những nguyên nhân dẫn tới thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam và những bài học nước Mỹ cần rút ra qua cuộc chiến tranh này. McNamara viết về tư duy của mình và cũng là người đứng đầu giới quân sự Mỹ ở thời điểm năm 1961: “Nguy cơ mất Việt Nam và qua việc sụp đổ của các con bài Domino, mất cả Đông Nam Á, làm cho việc tính tới khả năng mở rộng nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam là điều hợp lý” [142, tr.44]. Ông lý giải việc Tổng thống Mỹ Johnson đưa quân bộ tham chiến ở Việt Nam: “Johnson hiểu rõ hơn Kennedy rằng cái giá phải trả của việc mất Việt Nam còn cao hơn việc đưa quân Mỹ vào tham chiến trực tiếp, và đây chính là điểm chi phối quan điểm và các quyết sách của ông... Phải chiến thắng trong cuộc chiến tranh này! Đó là thông điệp của ông” [142, tr.112 - 113]. Phillip B. Davidson , tác giả cuốn Những bí mật của chiến tranh Việt Nam [47] nguyên là chỉ huy trưởng cơ quan tình báo quân đội Mỹ tại MNVN từ 1967 đến 1969. Là một sĩ quan tình báo cao cấp từng trực tiếp tham gia cuộc chiến tranh Việt Nam, tác giả đã nắm được khá nhiều bí mật của cuộc chiến này. Trong cuốn sách, tác giả đã phân tích sâu sắc những nguyên nhân sâu xa dẫn đến thắng lợi của Việt Nam trong cuộc chiến tranh 17 chống Mỹ, nêu lên nghệ thuật tổ chức và lãnh đạo chiến tranh nhân dân của những người cộng sản Việt Nam. Nói về “bí mật” chiến lược chiến tranh cách mạng của nhân dân Việt Nam, tác giả viết: Chiến lược chiến tranh cách mạng của đối phương nằm trong việc họ nắm quyền chủ động chiến lược. Chúng ta phải nhảy nhót theo vũ điệu chiến lược của Bắc Việt Nam mà đại diện là những người cộng sản, họ xác định phong cách và mức độ của cuộc chiến. Trong cuộc chiến tranh trên bộ, quân đội và hải quân Mỹ bị hạn chế trong khuôn khổ Nam Việt Nam và không thể tấn công các thánh địa và cơ sở của địch ở phía Nam của Bắc Việt Nam, ở Lào, hoặc sau này ở Campuchia. [47, tr.35]. Tác giả kết luận về một trong những nguyên nhân Mỹ thua trong cuộc chiến “Vì chúng ta đã dành cho kẻ thù quyền chủ động chiến lược”[47, tr.242]. Cuối cùng, với tất cả những nghiên cứu, Davidson chỉ ra “Chúng ta đáng ra có thể giành thắng lợi trong chiến tranh Việt Nam như thế nào... Lẽ ra phải tiến hành một cuộc không kích tổng lực chống Bắc Việt Nam từ tháng 2-1965, lẽ ra các đơn vị thủy quân lục chiến phải được cử đến Việt Nam càng sớm càng tốt”[47, tr.308]. Joe Allen viết cuốn Việt Nam cuộc chiến thất bại của Mỹ [2]. Với tất cả suy nghĩ, đánh giá của thế hệ hậu sinh từ những nghiên cứu về cuộc chiến tranh Việt Nam. Tác giả trả lời một phần câu hỏi mà thế hệ trực tiếp tham gia cuộc chiến luôn tránh né: “Khi Mỹ xâm chiếm miền Nam Việt Nam, họ được xem như là một quyền lực gần như không thể bị đánh bại mà có thể áp đặt ý chí của họ lên hầu hết thế giới thông qua việc can thiệp quân sự trực tiếp. Quân dân Việt Nam đã giành được độc lập không phải vì họ đánh bại sức mạnh quân sự Mỹ mà còn vì họ có thể làm kiệt quệ ý chí của Mỹ để có thể tiếp tục tham chiến” [2, tr.312]. Nhìn chung, do nhiều yếu tố, các học giả nước ngoài và Mỹ không thấy hết mọi khía cạnh của cuộc chiến, nhất là nhân tố nội tại của cuộc kháng chiến mà nhân dân Việt Nam tiến hành. Dù có thiện chí họ cũng khó hiểu thấu 18 sức mạnh bắt nguồn từ ý chí chiến đấu ngoan cường, vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam và sức mạnh ấy được tập hợp, phát huy theo đường lối kháng chiến của ĐCSVN. 2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước Về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đánh Mỹ thời kỳ 1965 - 1973 đã được thể hiện nhiều trong các văn kiện của Đảng, các bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các tướng lĩnh trực tiếp chỉ đạo chiến tranh thời kỳ này. Hoạt động lãnh đạo và vai trò của Đảng thời kỳ này cũng là chủ đề được đề cập nhiều ở các sách, báo, hội thảo khoa học về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam. * Nhóm các công trình nghiên cứu đã được xuất bản thành sách Cuốn Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Thắng lợi và bài học [4] là một công trình tổng kết sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ. Các tác giả đã luận giải nhiều vấn đề quan trọng của một cuộc chiến tranh có quy mô, tính chất, đặc điểm, tầm quan trọng và ý nghĩa vượt ra khỏi khuôn khổ một nước, từ đó rút ra bài học lịch sử và hiện thực. Trong bài học kinh nghiệm về đường lối kháng chiến chống Mỹ đúng đắn, sáng tạo, độc lập, tự chủ, các tác giả viết: Khi đế quốc Mỹ chuyển sang tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và leo thang đánh phá miền Bắc, Đảng đã khẳng định mạnh mẽ quyết tâm đánh Mỹ, đồng thời “Nhấn mạnh phải ra sức kiềm chế và đánh thắng cuộc chiến tranh bằng lục quân của địch ở miền Nam và cố gắng hạn chế không gian chiến tranh trong phạm vi Việt Nam để giữ gìn an ninh cho hệ thống xã hội chủ nghĩa và hòa bình trên thế giới. Đây là một chủ trương cực kỳ quan trọng của Đảng ta trong quá trình điều khiển cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước” [4, tr.141]. Về mối quan hệ giữa kiềm chế Mỹ và đánh thắng Mỹ trên chiến trường chính miền Nam cũng được các tác giả tổng kết trong bài học kinh nghiệm và coi đó là nội dung sáng tạo, độc lập, tự chủ trong đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng. 19 Cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2 (1954-1975) [183] là công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Phân tích âm mưu của Mỹ thời điểm đầu năm 1965, các tác giả viết: “Là một đế quốc đầu sỏ có tiềm lực chiến tranh rất lớn... chúng không dễ dàng chấp nhận thất bại.... Chúng mở rộng chiến tranh hòng tạo ra một dư luận trên thế giới, ép ta phải nhân nhượng” [183, tr.294-295]. “Đế quốc Mỹ có thể tăng cường phối hợp với bọn phản động ở Lào để mở rộng chiến tranh ở Trung Lào và Hạ Lào, và có thể mở những cuộc tập kích bằng bộ binh ra Nam Quân khu 4” [183, tr.305]. Về chủ trương của Đảng giai đoạn này: “Tích cực kiềm chế và thắng địch trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” ở mức cao nhất ở miền Nam... chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay đến một trình độ ác liệt gấp bội hoặc chuyển nó thành một cuộc “chiến tranh cục bộ” ở cả miền Nam lẫn miền Bắc” [183, tr.295-296]. Cuốn Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975. Thắng lợi và bài học [5] là công trình tổng kết 30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nói về đường lối chiến tranh cách mạng Việt Nam, các tác giả viết: “Hạn chế không để địch đánh theo cách sở trường của chúng. Chúng ta đã biết điều khiển chiến tranh một cách đúng đắn, kiên quyết và khôn khéo, bắt địch phải lùi từng bước từ thấp đến cao” [5, tr.152]. Về đường lối kháng chiến chống Mỹ vào năm 1965 “Chủ trương trên cơ sở đánh lâu dài phải nắm lấy thời cơ, tìm mọi cách và kiềm chế và thắng địch trong cuộc “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam” [5, tr.152]. Trong cuốn Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 11 [20] các tác giả đã tái hiện những sự kiện lịch sử chính về cuộc chiến đấu của dân tộc Việt Nam trong 21 năm chống Mỹ giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Trong đó có đề cập việc Đảng xác định vị trí chiến trường miền Nam thời kỳ 1965 - 1973: “Kiên quyết đẩy mạnh đấu tranh, đánh bại đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai trên chiến trường chính miền Nam” [21, tr.212]; “Miền Nam Việt Nam được Bộ 20 Chính trị xác định là chiến trường quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ba nước Đông Dương” [21, tr. 284]. Từ đó Đảng đề ra một số biện pháp đấu tranh kiềm chế và đánh thắng Mỹ trên chiến trường chính. Tập 12 Lịch sử quân sự Việt Nam: Những nhân tố hợp thành sức mạnh Việt Nam thắng Mỹ [23] là những nghiên cứu luận giải về nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Các tác giả đã phân tích, làm rõ những nhân tố hợp thành sức mạnh Việt Nam chiến thắng Mỹ, từ đó khẳng định nhân tố đầu tiên và quyết định thắng lợi cuộc kháng chiến là sự lãnh đạo của Đảng. Về ý nghĩa của chủ trương kiềm chế, đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam, các tác giả viết: “Trong bối cảnh quốc tế phức tạp, chúng ta phải bằng hành động thực tiễn - chiến đấu và chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, không cho chiến tranh lan rộng, làm sáng tỏ chân lý chính nghĩa, để làm cho các bạn đồng minh gần gũi, cũng như các lực lượng kháng chiến khác hiểu, đi đến đồng tình, ủng hộ cuộc kháng chiến” [23, tr.209]. Đề cập đến sức mạnh ngoại giao quốc tế để kiềm chế Mỹ trên trường quốc tế: “Thực hiện thành công đoàn kết quốc tế với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã tạo cho cuộc kháng chiến của chúng ta một sức mạnh cần và đủ để hạn chế một phần sức mạnh của đế quốc Mỹ, bảo đảm chúng ta đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn của chúng” [23, tr.213]. Cuốn Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Tập 3 (1965 - 1968) [156] là sự trình bày một cách khái quát hoạt động và sự đóng góp trí tuệ, công sức của Bộ Tổng Tham mưu cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đánh bại chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Bộ Tổng Tham mưu nhận định về âm mưu của Mỹ giai đoạn này : “Kết hợp dùng không quân oanh tạc miền Bắc mạnh hơn, có thể dùng một bộ phận bộ binh đổ bộ đường biển tập kích vào Nam Quân khu 4” [156, tr.26]. Theo chủ trương của Đảng, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo “Ngăn chặn không để Mỹ đưa quân vào Lào, không để tình hình chiến trường bạn diễn biến phức tạp 21 hơn, nhất là ở Trung - Hạ Lào. Mặt khác, kiên quyết làm thất bại âm mưu mở rộng chiến tranh phá hoại và đề phòng Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ ra miền Bắc” [156, tr.49]. Về nội dung chỉ đạo đánh thắng Mỹ trên chiến trường chính miền Nam giai đoạn này, các tác giả đề cập việc Bộ Tổng Tham mưu xác định nhiệm vụ cụ thể và đề ra các biện pháp để quân dân miền Nam đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 của quân Mỹ. Lịch sử Bộ Tổng Tham mưu trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Tập 4 (1969 - 1972) [157] trình bày sự tham mưu, chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu trong giai đoạn 1969 - 1972 của cuộc kháng chiến. Bộ Tổng Tham mưu nhận định chiến trường giai đoạn này: “Miền Nam Việt Nam là chiến trường chính, Campuchia là chiến trường yếu nhất của địch, chiến trường Lào ngày càng có vị trí hiểm yếu, miền Bắc Việt Nam là hậu phương chung của chiến trường cả ba nước Đông Dương” [157, tr.571]. Đề phòng Mỹ mở rộng tiến công bằng bộ binh ra Nam Quân khu 4 “Bộ Tổng Tham mưu giao nhiệm vụ cho Binh đoàn 70 chuẩn bị kế hoạch tác chiến phối hợp với lực lượng vũ trang trong quân khu sẵn sàng tiêu diệt địch tấn công bằng bộ binh ra quân khu; Tăng cường cho các huyện ven biển từ Thanh Hóa đến Nam Hà 10 đại đội bộ đội địa phương sẵn sàng đánh địch tập kích đường biển”[157, tr.150]. Bộ sách Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975, gồm 9 tập do Viện Lịch sử quân sự nghiên cứu, biên soạn với sự góp ý, cung cấp tư liệu của nhiều đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội qua các thời kỳ chiến tranh cùng sự đóng góp trí tuệ của nhiều nhà khoa học. Các tác giả đã phản ánh tương đối toàn diện, sâu sắc toàn bộ cuộc kháng chiến, đồng thời làm nổi bật một số sự kiện trọng yếu, đánh giá những ưu, nhược điểm chính, phân tích làm rõ nguồn gốc chiến tranh, nguyên nhân thắng lợi, bài học kinh nghiệm, những thành công, cũng như chưa thành công qua từng giai đoạn của cuộc chiến. Bốn tập IV, V, VI, VII có liên quan gần đến đề tài luận án. Tập IV, “Cuộc đụng đầu lịch sử” [24] trình bày khá chi tiết diễn biến cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam trong những năm 1965-1967. Trong
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất