Đánh giá hiệu quả của việc phân loại rác thải tại nguồn phường An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng
Đánh giá hiệu quả của việc phân loại rác thải tại nguồn phường An Biên, quận Lê
Chân, thành phố Hải Phòng
Mở đầu
Hơn ba mươi năm trôi qua kể từ Hội nghị Liên Hiệp Quốc về môi
trường tại Stockhom(Thuỵ Điển)-1972 và hơn mười năm sau Hội nghị
Thượng đỉnh trái đất về Môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro( Brazil)1992, Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại
Johannesburg được tổ chức để tìm sự đồng thuận của các quốc gia trên quy
mô toàn cầu về sự khẩn thiết các biện pháp hữu hiệu trong công tác bảo vệ
môi trường và sự phát triển bền vững, Chính phủ Việt Nam đang có những
nỗ lực tiến kịp sự phát triển trên thế giới trong định hướng phát triển mang
tính bền vững là xu thế mang tính phổ biến trên phạm vi toàn cầu. Chủ
trương của chúng ta là: " Phát triển kinh tế xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải
thiện môi trường, bảo đảm sự phát triển hài hoà giữa môi trường nhân tạo
với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học".
Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra với tốc dộ
nhanh chóng, đặc biệt là ở ba vùng kinh tế trọng điểm. Hải Phòng là thành
phố cảng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong những năm gần
đây, thành phố Hải Phòng đang từng ngày phát triển, nỗ lực phát huy các
tiềm lực của mình, bước phát triển trở thành đô thị loại một đã chứng tỏ điều
đó nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức của một thành phố lớn.
Trong bối cảnh chung của một nước Việt Nam đang phát triển , Hải Phòng
còn rất nhiều nhiệm vụ kinh tế xã hội cần giải quyết. Quản lí tốt rác thải rắn
đô thị cũng là một trong các nhiệm vụ kinh tế xã hội của thành phố, đây
cũng là chương trình hành động trọng điểm trong chiến lược bảo vệ môi
trường quốc gia đến năm 2010.
1
Hiện nay quản lí chất thải rắn đô thị ở Hải Phòng còn chưa đạt mức
hiệu qủa như mong muốn, chỉ đạt 70-75% lượng chất thải phát sinh hàng
ngày, đáng chú ý là lượng chất thải này chưa được tái chế , tái sử dụng cũng
như chế biến hiệu quả. Đặt trong xu thế hiện nay, kinh tế chất thải đang trở
thành ngành kinh tế đáng chú trọng trong việc góp phần vào sự phát triển
bền vững, thì công tác quản lí chất thải rắn đô thị ở Hải Phòng phải được
chú trọng là điều tất yếu. Khai thác tốt hình thức kinh tế này không chỉ có ý
nghĩa về mặt môi trường, cảnh quan đô thị mà còn có khả năng đem lại
nguồn lợi nhuận khổng lồ từ các nguồn thu từ chế biến rác.
Nhận thức được vấn đề đó, Chính quyền và các cơ quan chức năng
thành phố Hải Phòng đã thực hiện đầu tư có trọng điểm thông qua các dự án
về quản lí chất thải rắn đô thị. Phân loại chất thải tại nguồn cũng là một
trong các chương trình thu hút được nhiều dự án. Để đánh giá đúng hiệu quả
từ đó nhân rộng mô hình, thành phố đã tiến hành dự án thí điểm tại phường
An Biên quận Lê Chân về phân loại rác thải tại nguồn.
Qua quá trình học tập và thực tập tại Công ty Môi trường Đô thị Hải
Phòng, tôi đã thực hiện chuyên đề:"Đánh giá hiệu quả của việc phân loại
rác thải tại nguồn phường An Biên, quận Lê Chân, thành phố Hải
Phòng".
Chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Tổng quan chất thải, chất thải rắn rác thải sinh hoạt.
Chương II: Hiện trạng quản lý chất thải rắn của thành phố Hải
Phòng.
Chương III: Đánh giá hiệu quả của chương trình phân loại rác
thải tại nguồn thành phố Hải Phòng.
2
Chương I
Tổng quan chất thải, chất thải rắn,
rác thải sinh hoạt.
1. Chất thải.
1.1. Khái niệm
Chất thải là một bộ phận vật liệu phát sinh trong quá trình sản xuất và
sinh hoạt của con người, không có hoặc không còn giá trị sử dụng nữa. Rác
thải tồn taị ở mọi dạng vật chất như: rắn, lỏng, khí có thể xác định khối
lượng rõ ràng. Một số chất thải tồn tại dưới dạng khó xác định như: nhiệt,
bức xạ, phóng xạ...Dù tồn tại dưới dạng nào thì tác động gây ô nhiễm của
chất thải là do các thuộc tính của chúng về lí, hoá, sinh của chúng trong đó
thuộc tính hoá học là quan trọng nhất. Chất thải mang tính tích luỹ dần, nên
từ một lượng nhỏ vô haị qua thời gian chúng tích luỹ thành lượng lớn gây
tác hại nguy hiểm. Các hoá chất có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác
hoặc kết hợp với nhau thành các chất nguy hiểm hơn hoặc Ýt nguy hiểm
hơn. Một số chát thải rắn, lỏng, khí còn có đặc thù sinh học nên thông qua
các quá trình biến đổi sinh học trong cơ thể sống hoặc qua các chất thải khác
mà biến đổi thành các sản phẩm tạo ra các ổ dịch bệnh nhất là các vùng có
khí hậu Èm nhiệt đới thích hợp.
1.2. Nguồn gốc chất thải.
1.2.1.Do sản xuất và tiêu thụ năng lượng.
3
Đây là ngành chiếm vị trí hàng đầu trong việc gây ô nhiễm môi
trường . các sản phẩm chính của đốt nhiên liệu là khí cacbonic. Tuy xảy ra
khủng hoảng vào những năm 70 nhưng tiêu thụ năng lượng trên phạm vi
toàn cầu vẫn không ngừng tăng lên. Sự giảm tiêu thụ dầu mỏ được bù lại
bằng sự tăng cường sử dụng than đá, khí thiên nhiên và năng lượng hạt
nhân. Vì các nguồn năng lượng mới và năng lượng hạt nhân chỉ mới chiếm
một phần rất bé trong tổng số này nên nguồn năng lượng chủ yếu vẫn lấy từ
đốt nhiên liệu hoá thạch. Như đã biết, một trong các sản phẩm chính của sự
đốt nhiên liệu là khí cacbonic.Theo các chuyên gia , lượng khí cacbonic
được giải phóng ra khi đốt khối lượng nhiên liệu này tương ứng với việc đốt
660 tỉ tấn cacbon.
Con số khổng lồ này cho thấy vai trò chính của ngành sản xuất năng
lượng trong việc làm ô nhiễm sinh quyển.
1.2.2.Sản xuất công nghiệp.
Công nghiệp hoá học, công nghiệp luyện kim và cả công nghiệp điện
tử hiện đại đã đưa vào sinh quyển vô số hợp chất hưũ cơ và vô cơ, thường là
những chất có độc tính cao, khó phân huỷ, đôi khi không thể bị phân huỷ
như thuỷ ngân, camidi, antimoan, …
Ngành công nghiệp tổng hợp hữu cơ đã và đang sản xuất ra một số
lượng lớn các hợp chất mới, hoàn toàn là sự sáng tạo của con người . Hậu
quả là một số lượng lớn các chất được thải vào môi trường tự nhiên và góp
phần làm ô nhiễm các hệ sinh thái khác.
1.2.3.Ngành sản xuất nông nghiệp.
Nông nghiệp hiện đại cũng là một nguồn gây ô nhiễm nghiêm
trọng.Việc sử dụng phân hoá học với khối lượng lớn và việc sử dụng rộng
rãi thuốc trừ cỏ đã cho tăng đáng kể năng suất nông nghiệp. Tuy nhiên, rất
tiếc là điều này lại kéo theo sự ô nhiễm nghiêm trọng đất canh tác và các
4
nguồn nước, cũng nh các sản phẩm thực vật và động vật bởi rất nhiều độc tố
vô cơ và hữu cơ khác nhau.
1.2.4.Giao thông vận tải.
Mét trong những nét đặc trưng của xã hội công nghiệp là sự cơ
giới hoá các phương tiện giao thông vận tải. Trong các phương tiện giao
thông đường bộ thì ô tô chiếm một vị trí đặc biệt. Hiện nay trên thế giới có
gần 500 triệu ô tô đang hoạt động và hầu nh là đang dùng động cơ đốt trong
với nhiên liệu là xăng hay dầu Diezen. Trong các khí thải của động cơ đốt
trong có khí cacbonic, cacbonmono oxit, nitơ oxit…,hiđrocacbua chưa cháy,
các hợp chất của chì. Tất cả các chất này đều là chất gây ô nhiễm đối với khí
quyển, thuỷ quyển và thạch quyển.
1.2.Các thuộc tính của chất thải
- Chất thải tồn tại ở mọi dạng vật chất nh rắn, lỏng, khí có thể xác
định khối lượng rõ ràng. Một số chất thải tồn tại ở dưới dạng khó xác định
như nhiệt, bức phóng xạ … Dù tồn tại dưới dạng nào thì tác động gây ô
nhiễm của chất thải là do các thuộc tính về lý học, hoá học, sinh học của
chúng trong đó thuộc tính hóa học là quan trọng nhất. Ta chó ý đến các
thuộc tính cơ bản của chất thải về mặt hoá học.
- Thuộc tính tích luỹ dần do các hoá chất bền vững và sự bảo tồn vật
chất nên từ một lượng nhỏ vô hại qua thời gian chúng tích luỹ thành lượng
đủ lớn gây tác hại nguy hiểm, đó là các kim loại nặng As,Hg,Zn.
- Các hoá chất có thể chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác hoặc
kết hợp với nhau thành chất nguy hiểm hơn hoặc Ýt nguy hiểm hơn.
2. Chất thải rắn đô thị.
2.1. Khái niệm.
Chất thải rắn đô thị(MSW- Municipal Solid Waste) là một loại chất
thải rắn tổng hợp ở khu vực đô thị, bao gồm cả chất thải sinh hoạt của các
5
hộ gia đình thải ra, chất thải rắn của hoạt động thương mại và dịch vụ, chất
thải rắn của hoạt động công nghiệp, chất thải rắn từ hoạt động xây dựng,
chất thải bệnh viện... Chúng có một đặc thù riêng và đang trở thành mối
quan tâm đặc biệt của mỗi quốc gia trong việc thu gom, vận chuyển, tái chế
tái sử dụng và chôn lấp.
Cùng với quá trình đô thị hoá, MSW gia tăng không ngừng. Ở Việt
Nam chỉ tính riêng lượng chất thải sinh hoạt ở đô thị, theo số liệu thống kê
từ năm 1996 đến năm 1999, lượng chất thải sinh hoạt bình quân khoảng 0,6
đến 0.8 kg/người/ngày. Một số đô thị nhỏ, lượng chất thải sinh hoạt phát
sinh dao động khoảng 0,3 đến 0,5kg/người/ngày.
Việc thu gom và quản lí chất thải rắn đô thị còn rất hạn chế, theo số
liệu năm 1999 thu gom MSW ở các đô thị trong cả nước mới chỉ đạt khoảng
40-70%(Hà Nội 65%, Hải Phòng 64%, Hạ Long 50%, Vinh 60%, Việt Trì
30%, Huế 60%, Đà Nẵng 66%, Biên Hoà 30%, Vũng Tàu 70%, Thành phố
Hồ Chí Minh 70-75%. Nhiều thị xã, tỉ lệ thu gom chất thải rắn trung bình
chỉ đạt từ 20-40%, thậm chí có nhiều thị trấn và thị xã còn chưa có tổ chức
thu gom chất thải rắn , chưa có bãi tổ chức thu gom chất thải rắn và chưa có
bãi đổ rác chung của cả đô thị. ở các thành phố lớn, chất thải từ các đường
phố chủ yếu được công ty môi trường đô thị, dịch vụ công cộng hoặc công
ty vệ sinh thu gom tới các bãi rác hoặc các xí nghiệp chế biến rác .
Trong công tác xử lí chất thải rắn đô thị người ta quan tâm tới các
đặc tính của rác thải rắn đô thị, đặc biệt là nhấn mạnh tới thuộc tính có thể
chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác của nó.
2.2.Ảnh hưởng của rác thải.
Cùng với sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá,
chất lượng cuộc sống ngày càng tăng, quy mô sản xuất ngày càng mở rộng,
thì con người ngày càng thải vào môi trường tự nhiên hàng triệu tấn rác thải.
6
Rác thải nếu không được xử lí an toàn sẽ gây ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi trường đất, môi trường nước.
Rác thải rắn trong quá trình phân huỷ sẽ tạo ra các khí độc như: mê tan, các
dẫn xuất của nitơ, hidrocacbua, các dẫn xuất của lưu huỳnh...làm vẩn đục
môi trường không khí...Quá trình chôn lấp rác thải nếu không được xử lí
chặt chẽ và triệt để thì rác phân huỷ sẽ thấm vào môi trường nước làm ô
nhiễm cả nguồn nước mặt lẫn mạch nước ngầm.Rác thải lẫn với đất làm cho
chất lượng đất xấu đi, đất bị bạc màu, thoái hoá, biến chất, xấu hơn nữa có
thể dẫn tới hiện tượng hoang mạc hoá.
Môi trường không khí, môi trường nước bị ô nhiễm là nguyên nhân
chính gây ra các căn bệnh về đường hô hấp, tuần hoàn, đường ruột, lao, ung
thư...đặc biệt con số những người mắc bệnh ung thư đang ngày một tăng lên
trở thành vấn nạn cho loài người.
2.3.Các biện pháp xử lí rác thải rắn đô thị.
Rác thải rắn đô thị đang trở thành vấn đề quan tâm của thế giới nói
chung, của mỗi quốc gia nói riêng. Nếu chúng ta không có hành vi can thiệp
kịp thời thì chỉ trong nay mai thôi rác sẽ ngập đầy trái đất, làm mất mĩ quan,
gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng, thậm chí còn đe doạ tính mạng con
người. Vì thế, cùng với quá trình phát triển của mình, chúng ta cần có thái
độ đối xử công bằng với môi trường. Tuỳ theo khả năng phát triển kinh tế, ý
thức và trình độ nhận thức về môi trường, thành phần chính của rác thải mà
mỗi quốc gia, mỗi vùng có biện pháp xử lí rác thải rắn khác nhau. Tuy
nhiên, hiện nay trên thế giới đang tồn tạiphổ biến các biện pháp chính sau:
-Chôn lấp.
-Thiêu đốt.
-Chế biến phân hữu cơ.
-Hoá rắn.
2.3.1.Chôn lấp.
7
Chôn lấp rác trong các bãi thải đã được chuẩn bị trước(có thể được lót
thành xung quanh và đày bằng các vật liệu chống thấm nh đất sét, chất dẻo)
là phương pháp truyền thống xưa nay. Rác được đổ thành từng lớp có chiều
dày khoảng 0,5 đến 1 mét, sau đố đầm nén chặt và phủ lên trên lớp đất hay
cát. Độ cao đổ rác trong bãi chôn lấp tuỳ thuộc vào thiết kế, thông thường ở
nước ta chiều cao đổ rác từ 5 đến 10 m.
Chọn phương pháp chôn lấp rác thải trước hết phải dựa vào đặc tính
của chất thải . Thành phần, cấu tạo chất thải phát sinh ở các nước đang phát
triển cho thấy cần phải có cáh tiếp cận thích hợp.
Dành sẵn các khu đất là điều kiện tiên quyết đối với tất cả các hình
thức chôn lấp chất thải rắn. Do vẫn còn chất cặn thừa trong mọi loại hình xử
lí, cho nên đối với đất đai cần giảm đảng kể các chất cặn thừa bằng các
phương pháp xử lí dùng năng lượng và các phương pháp xử lí có chi phí
lớn.
Hầu hết các phương pháp xử lí và chôn lấp chất thải ở các nước
đang phát triển là chôn lấp hợp vệ sinh, làm phân ủ, thiêu đôt(nhiệt phân) và
huỷ kị khí.
2.3.2.Thiêu đốt.
Đốt rác trong các loại lò đốt thường sử dụng nhiên liệu là dầuvà kết
hợp với việc thu nhiệt khi đốt rác để sản xuất ra nhiệt năng hay điện
năng...Tro và các thành phần không cháy đựơc sau khi đốt đem đi chôn lấp.
Tuy nhiên thiêu đốt không phải là một giải pháp quan trọng về kinh
tế và phù hợp về kỹ thuật đối với các thành phố ở các nước đang phát triển,
xét về khía cạnh giá trih calo thấp và nồng độ hơi nước cao trong chất thải,
Trong nhiều trường hợp , công đoạn cuối cùng của quá trình thiêu đốt cần
phải có thêm nhiên liệu bổ xung. Hơn nữa, thiêu đốt là quá trình cần phải có
vốn cũng như chi phí vận hành dễ vượt quá khả năng của hầu hết các thành
phố ở các nướ đang phát triển.
8
2.3.3.Chế biến phân hữu cơ.
Rác được ủ thành đống hay luống, nhờ các vi sinh vật có trong rác
hay được bổ xung từ bên ngoài vào để phân huỷ các chất gluxit, lipit và
prôtêin trong rác thành mùn hữu cơ. Tuỳ thuộc vào việc phân huỷ vi sinh vật
hiếu khí hay kị khí mà có bố trí việc cung cấp không khí cho các bãi hay
luống rác hay không .
Điều kiện thích hợp để ủ phân nh là một phương pháp chôn lấp chất
thải phụ thuộc vào ba yếu tố chính là:
*Đặc tính của chất thải.
*Điều kiện có thể áp dụng hệ thống ủ.
*Tiềm năng của thị trường địa phương đối với phân Compot.
Những vùng có tiềm năng ủ phân bao gồm các vùng trồng cây
cảnh, trồng nho, làm vườn, nông nghiệp, rừng, trồng trọt ở vùng đất hoang.
Tiềm năng thị trường ở các nước đang phát triển là đáng kể. Giới cầm quyền
địa phương đã chuẩn bị các bước để tuyên truyền vấn đề này, thông qua
thông tin đại chúng, hội thảo, hợp tác giữa các chủ trang trại.
Chất thải ở các nước đang phát triển, chứa tới 70 đến 80 % chất thực
vật dễ thối rữa, lại có tiềm năng thị trường đáng kể đối với Compot nhờ có
các phương pháp canh tác nông nghiệp phong phú và giá cả phân hữu cơ
cao, có sức lao động rẻ, thuận tiện và tiết kiệm trong việc ủ phân
2.3.4.Một số công nghệ đúc Ðp hoá rắn.
Công nghệ đúc Ðp hoá rắn nhưhyđromex, pasta là công nghệ sử
dụng việc nén Ðp các chất polime và rác thải thành các tấm hay khối...có thể
sử dụng làm vật liệu xây dựng.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về vật liệu xây dựng càng lớn.
Nguồn nguyên liệu để sản xuất ra các sản phảm này là đá vôi, đất sét, cao
lanh.. trước đây cứ tưởng là vô tận thì nay cũng cạn kiệt dần, đó là chưa kể
việc khai thá đất sét làm thu hẹp diện tích trồng trọt và do đó sảnh hưởng
9
trực tiếp đến nền kinh tế một cách tiêu cực. Trong nhiều trường hợp chất
thải của các xí nghiệp công nghiệp có thành phần hoá học và thành phần
khoáng gần như các nguyên liệu tự nhiên, trong một số trường hợp thậm chí
còn tốt hơn nữa, do đó nhiều nhà khoa học khảng định có thể dùng chất thải
công nghiệp này để thay thế một phần cho cá nguyên liệu nói trên, và trong
thực tế điều này đã được thực hiện ở một số xí nghiệp vật liệu xây dựng với
kết quả tốt đẹp.
3.Chất thải sinh hoạt.
3.1.Khái niệm.
Thuật ngữ chất thải sinh hoạt dùng để chỉ tất cả các loại chất thải
còn lại xuất phát từ moị khía cạnh của hoạt động của con người trong cuộc
sống hàng ngày, từ phân, nước tiểu của các hoạt động sinh lÝ tự nhiên đến
thức ăn thừa, rác quét nhà... cho đến xác ô tô hỏng, đồ gỗ bị thay thế...
3.2.Ảnh hưởng của chất thải sinh hoạt.
Do trong chất thải sinh hoạt có chứa những chất hữu cơ có thể lên
men, là môi trường phát triển của các vi sinh vật gây bệnh nên đây được coi
là loại chất thải nguy hiểm nhất. Các chất thải còn lại chỉ ảnh hưởng đến môi
trường ở khía cạnh mỹ quan và lấn chiếm đất canh tác. Trong nhiều trường
hợp chất thải sinh hoạt còn gọi là rác thải.
Sự ô nhiễm môi trường bởi các chất thải sinh hoạt liên quan chủ yếu
đến các thành phố và khu công nghiệp đông dân cư, ở đó dân số đông, mật
độ dân số cao, do đó lượng chất thải lớn và tập trung.Vấn đề ô nhiễm môi
trường bởi các chất thải sinh hoạt đã có từ thời tiền sử. Nó là nguyên nhân
chính của các vụ dịch bệnh từ trước đến nay trên thế giới.
10
II. Kinh tế chất thải.
1.Khái niệm.
Kinh tế chất thải bao gồm tất cả các khía cạnh của hoạt động kinh tế
liên quan đến phát sinh, thu gom, phân loại, tái chế, tái sử dụng,vận chuyển,
chôn lấp hoặc thiêu đốt chất thải.
2.Mô hình thị trường cho dịch vụ quản lí chất thải.
Trong thị trường cho dịch vụ MSW, các hàng hoá có liên quan thực
sự là kết hợp của một vài hoạt động đặc trưng riêng biệt -bao gồm thu gom,
vận chuyển và phân huỷ rác thải đô thị. Dựa trên cơ sở đầu ra này, mô hình
thị trường các dịch vụ MSW đã được xác định, trong đó sử dụng đường cầu
giả thuyết(D) hoặc đường lợi Ých cá nhân cận biên(MPB) và đường cung
(S) hoặc đường cung chi phí cá nhân cận biên(MPC). Hai đường này xác
định giá cân bằng cạnh tranh hoặc chi phí cho dịch vụ MSW, Pc và lượng
cân bằng Qc.
P
S'=MPC'
S=MPC
Pc'
Pc
D=MPB
Qc' Qc
Lîng cña dÞch vô MSW)Qc)
Hình2.1: Mô hình thị trường cho các dịch vụ rác thải đô thị.
11
2.1.Đường cung thị trường.
Đường cung thị trường của dịch vụ MSW là đường đại diện các
quyết định về sản xuất của công ty theo hợp đồng đã kí với các thành phố
hoặc thị trấn hoặc chính quyền các khu đô thị nơi cung cấp các dịch này trực
tiếp cho cộng đồng. Trong thị trường này, các chi phí cho sản xuất phản ánh
bao gồm chi phí thu gom rác, vận hành đội xe chở rác, quản lí bãi rác hoặc
thiêu huỷ rác và tất cả các chi phí về nhân công. Theo giả định thông thường
về sản xuất và hoàn trả giảm dần, đường MPC có dạng dốc lên. Trong các
yếu tố chi phí giá cả có ảnh hưởng tới đường cung trong thị trường này có cả
diện tích đất và các quy định của Chính Phủ.
Ví dụ, do diện tích đất chôn lấp rác bị hạn chế, các khu đô thị, thành
phố lớn phải cắt giảm các bãi chôn lấp hoặc chuyển đi xa, do vậy giá cả cho
việc chôn lấp buộc phải tăng lên, hình 2.1 cho thấy kết quả thể hiện trên mô
hình và việc dịch chuyển của đường MPC đã làm tăng mức giá lên điểm Pc'
và giảm lượng cân bằng xuống Qc'.
2.2.Đường cầu các dịch vụ MSW.
Đường cầu của thị trường các dịch vụ MSW đại diện các quyết
định trả giá của các cơ sỏ tạo rác thải MSW. Trong bối cảnh này, lượng cầu
phản ánh các thay đổi về giá cả sẽ có một ý nghĩa rất quan trọng cho thấy
rác thải đưọc quản lí như thế nào. Để hiểu được điều này, chúng ta xem xét
lại việc giảm lượng cầu từ Qc đến Qc', do vậy việc tăng giá gây ra bởi quy
định của chính quyền thành phố như đã nêu ở trên. Vậy làm thế nào để các
cơ sở tạo rác thải có khả năng thay đổi hành vi của họ để đạt được việc giảm
lượng rác thải về mức này? Một khả năng có thể tạo ra là họ vẫn tạo ra một
lượng rác thải như vậy nhưng cần Ýt dịch vụ hơn bởi vì họ sẽ tái chế rác
thải.Cuối cùng, họ cũng có thể duy trì được mức sản sinh rác như cũ như
cùng một mức độ tái chế, nhưng lại có thể tiến hành tiêu huỷ rác thải không
đúng theo quy định của pháp luật nhằm trành phải chi trả giá cao cho dịch
12
vụ MSW, hiện tượng này đã tững sảy ra ở một số doanh nghiệp ở Việt Nam
là việc đốt rác trong bức tường rào của doanh nghiệp sản xuất. Vậy giải
pháp nào được chọn phụ thuộc vào tính sãn có của nó đối với cơ sở sản sinh
ra rác thải và các mức giá của giải pháp đó tương đương hay ngang bằng với
mức giá các dịch vụ MSW. Nhận ra được phản ứng thị trường tự nhiên của
các cơ sở có nhu cầu đối với các dịch vụ MSW giá cao hơn, chính quyền địa
phương có thể khuyến khích tái chế bàng cáh đưa ra một chương trình chi
phí hiệu quả cho dân cư ở khu vức đó. Nếu thiếu một chương trình như vậy,
một số cơ sở sản xuất sinh ra rác thải có thể có đọng cơ tiêu huỷ rác thải của
họ một cách bất hợp pháp.
Đường cầu D hay MPB của các dịch vụ rác thải đô thị cũng có phản
ứng đối với sự thay đổi giá cả nhất định. Ví dụ, những cá nhân giàu có ở dô
thị có xu hướng sản sinh ra một lượng rác thải lớn hơn, vì họ mua nhều
hàng hóa hơn và thay đổi thường xuyên hơn. Như vậy, cầu về dịch vụ MSW
có thể sẽ dịch chuyển sang bên phải khi thu nhập của cộng đồng tăng lên,
với điều kiện các yếu tố khác giữ nguyên. Một nhân tố phi giá cả khác của
nhu cầu là sở thích và thị hiếu. Khi các cơ sửo sản sinh rác thải có trách
nhiệm hơn với môi trường, chúng ta có thể hi vọng nhu cầu của họ về dịch
vụ này sẽ giảm, vì họ điều chỉnh mua bán những sản phẩm Ýt cần bao gói
hơn. Nói tóm lại, các cơ sở sản sinh rác thải ở mỗi cộng đồng có thể sẽ có
một đường cầu với hình dáng riêng của mình theo các thay đổi về các yếu tố
giá cả cũng như phi giá cả.
Nếu các thị trường MSW thực sự hành động theo mô hình này và
không có ngoại ứng, chúng ta có thể kết luận rằng thị trường MSW đạt hiệu
quả tại điểm mà MPC=MPB.
13
14
Chương II
Hiện trạng quản lí chất thải rắn của
thành phố Hải Phòng
I.Tổng quan về công ty Môi trường Đô thị Hải Phòng.
1.Chức năng nhiệm vụ
Công ty môi trường đô thị Hải Phòng là một doanh nghiệp trực thuộc
uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, hoạt động dưới dạng doanh nghiệp
làm dịch vụ lợi Ých công cộng, đảm nhiệm các công tác: thoát nước, chiếu
sáng,công viên, vệ sinh môi trường trên địa bàn thành phố Hải Phòng cụ thể
là :
+Vệ sinh, thu gom, vận chuyển, xử lí rác thải ở các phường trên địa
bàn thành phố, khu vực giáp danh, khu tập thể cao tầng, các cơ quan, xí
nghiệp đóng trên địa bàn huyện.
+Nạo vét, khơi thông cống rãnh, mương thoát nước. Công ty còn quản
lí, duy trì các hồ điều hoà, mương đất, mương xây, các cống ngầm và nhiều
tuyến cống ngang. Mỗi năm nạo vét hàng nghìn mét khối bún đất đảm bảo
tiêu thoát nước cho các phường, các trục đường giao thông và các xã ven đô.
+Trồng tỉa cây xanh( mỗi năm công ty trồng thêm hàng nghìn cây
xanh. Đến nay, các trục đường đường phố đã được phủ xanh tạo cảnh quan
môi trường đô thị.
2.Tư cách pháp nhân và khả năng tài chính.
2.1.Tư cách pháp nhân.
Công ty môi trường đô thị Hải Phòng được thành lập theo quyết định
số:393/QĐ-UB ngày 28/5/1994 của UBND thành phố Hải Phòng và quyết
định số 1175/QĐ ngày 29/6/2000 của UBND thành phố Hải Phòng về việc
chuyển đổi Công ty Môi trường đô thị Hải Phòng thành doanh nghiệp Nhà
nước hoạt động công Ých.
15
2.2.Khả năng tài chính.
Với vai trò là doanh nghiệp Nhà nước hoạt động phục vụ lợi Ých
công nên toàn bộ ngân sách hoạt động của công ty do nhà nước cấp để chi
phí cho việc chi trả lương cho 1090 công nhân thực hiện việc quản lí rác thải
trên địa bàn 3 quận Hồng Bàng, Lê Chân, Ngô Quyền và các loại rác thải
trên sông trên biển thuộc địa bàn Hải Phòng, các hoạt động thu gom, vận
chuỷên, vận hành bãi rác Tràng Cát cũng như đầu tư và duy tu, bảo dưỡng
trang thiết bị và các chi phí phát sinh khác của công ty.
3. Các họat động chủ yếu của công ty
3.1. Quản lí rác thải
*Thu gom, vận chuyển, xử lí rác thải trên địa bàn các quận nội thành
và trên sông trên biển
Trong một vài năm gần đây, phạm vi hoạt động của công ty liên tục
được mở rộng, phương thức thu gom vận chuyển rác cũng được cải tiến
không ngừng để đáp ứng những yêu cầu cao hơn của xã hội.Từ năm 2001
đến nay, công ty chương trình phân loại rác thải tại nguồn như một hình
thức xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường làm cho việc thu gom rác trên
địa bàn triệt để hơn.
Song song với công tác duy trì VSMT theo quy trình của Sở giao
thông công chính, công ty Môi trường đô thị Hải Phòng thực hiện chương
trình”Phân loại rác tại nguồn “ . Về chất lượng, công tác phân loại rác được
đánh giá có hiệu quả, tỉ lệ phân loại đạt được phổ biến chung cho 3 quận là
85-90%.
3.2.Quản lí bãi chôn lấp Tràng Cát.
Năm 2002 , bãi chôn lấp Tràng Cát đã chôn lấp và xử lí hàng nghìn
tấn rác đảm bảo yêu cầu của quy trình công nghệ quản lí vận hành bãi chôn
lấp của Sở Giao thông công chính.
16
3.3.Các chương trình trọng điểm của công ty.
3.3.1.Chương trình phân loại rác tại nguồn
Trong những năm gần đây , do tốc độ đô thị hóa tăng nhanh nên
lượng rác thải sinh hoạt trên địa bàn tăng nhanh và thành phần rác cũng
phức tạp hơn. Rác thải sinh hoạt bao gồm nhiều hợp phần khác nhau và
nhiều loại trong số đó có thể có thể tái chế để hạn chế việc chôn lấp. Kim
loại, nilon là những vật liệu dễ tái sử dụng hiện đã có đội quân thu nhặt phế
liệu, còn lại đa phần là rác hữu cơ trong rác thải sinh hoạt . Đây là nguồn
nguyên liệu dồi dào cho việc làm phân bón hữu cơ nhất là trong giai đoạn
hiện nay do lạm dụng phân bón hóa học quá nhiều làm ô mhiễm nước, cứng
hóa đất trồng . Tuy nhiên , để xử lí rác thải phân bón thì phải phân loại rác;
các loại nilon ,cao su, gạch đá , kim loại , hữu cơ ...lẫn lộn làm tăng kinh phí
đầu tư cho nơi chế biến rác thành phân bón mà hơn nữa việc phân loại tại
nơi chế biến cũng khó khăn và không triệt để . Vì vậy, để góp phần giải
quyết những khó khăn cũng như nâng cao ý thức của cộng đồng đối với việc
xử lí rác của gia đình mình.UBND và Hội phụ nữ thành phố Hải Phòng đã
phát động chương trình “Phân loại rác tại gia đình “, hướng dẫn các gia đình
phân rác thành hai lọại :rác vô cơ và rác hữu cơ . Để đạt được hiệu quả các
ban ngành cùng đoàn thể cùng tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân trước khi
thực hiện, tiếp tục tuyên truyền để phân loại rác trở thành thói quen. Lượng
rác hữu cơ đến bãi tăng dần với số dân tham gia chương trình.
Toàn bộ rác hữu cơ được xử lí riêng tại bãi chôn lấp Tràng Cát .
Trong khi chưa có xưởng xử lí rác theo quy mô công nghiệp , công ty đã ủ
rác tại mặt bằng ô chôn lấp rác sẵn có và đưa thêm EM và Bokashi để khử
mùi rác,mùi nước rác . Hiện nay, tại bãi chôn lấp rác Tràng Cát cũng có một
bộ phận công nhân chuyên trách làm công tác sàng tuyển rác phân hủy lấy
mùn.Do sàng tuyển bằng thủ công nên công suất chưa cao. Tuy nhiên , từ
17
năm 2001 đến nay dã góp phần đáng kể vào việc quay vòng ô chôn lấp tại
bãi . Lượng rác hữu cơ nh vậy chưa lớn nhưng ý nghĩa về mặt xã hội lại
không nhỏ vì nó khẳng định việc phân loại rác thải tại nguồn trên địa bàn
thành phố Hải Phòng là có khả năng thực hiện được. Phân loại rác tại gia
đình không chỉ là việc phân chia rác thành 2 loại làm cho việc xử lí rác được
dễ dàng mà còn giảm hẳn lượng rác vứt không đúng nơi quy định tại các
điểm công cộng nhất là đối với các khu dân cư tập trung thành xóm, khu tập
thể . Phân loại rác cũng tạo điều kiện cho việc thu phí vệ sinh thuận lợi hơn .
3.3.2.Xã hội hóa công tác vệ sinh môi trường
Công ty cùng hội phụ nữ mở đợt tuyên truyền sâu rộng về tầm
quan trọng của việc bảo vệ mô trường sinh thái cũng như tác hại của việc rác
thải đổ xuống ao hồ, nơi công cộng .Đồng thời mở lớp tập huấn với cán bộ
cơ sở về việc xử lí rác thải tại cơ sở.Tứng bước triển khai công tác xã hội
hóa VSMT tới từng gia đình: Túi nilon thì đốt, rác hữu cơ một phần làm
thức ăn cho gia súc, phần còn lại ủ làm phân bón, phần rác cứng(kim loại,
nhựa, thủy tinh) gom lại làm phế liệu cho các đơn vị tái chế, đặc biệt các
phường thành lập các đội, tổ vệ sinh làm công tác quét, thu gom rác ở đường
phố.
Từ công tác xã hội hóa vệ sinh môi trường đã nâng cao được nhận
thức của người dân về vấn đề môi trường với sức khỏe đời sống
II. Hiệ n trạ ng quản lí chấ t thải đô thị thành phố Hải
Phòng.
1.Bối cảnh.
Hải Phòng, thành phố lớn thứ ba của Việt Nam, rộng 1.507,6 km2, có
dân số là 1.646.000 người(1995) nằm ở vùng Đông Bắc Đồng bằng Bắc Bộ ,
bên bờ Thái Bình Dương, cách Hà Nội 103 km theo hướng đưòng bộ cách
thành phố Hồ Chí Minh 1.200 km theo đường hàng không, Hải Phòng nằm
18
ở khu vực nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm23-24 độ , lượng
mưa trung bình hàng năm từ 1800-6000 mm.
Hải Phòng là thành phố cảng, trung tâm kinh tế công nghiệp thương
mại , dịch vụ và du lịch của vùng duyên hải Bắc Bộ, là đầu mối giao thông
quan trọng của miền Bắc và cả nước, là một trong các cực tăng trưởng quan
trọng của các vùng kinh tế Hà Nội-Hải Phòng-Quản Ninh.
Hải Phòng gồm ba quận nội thành; Ngô Quyền, Hồng Bàng, Lê
Chân và một quận mới Kiến An và sáu huyện ngoại thành là : An Hải, Thuỷ
Nguyên, KIến Thuỵ, An Lão, Tiên Lãng và Vĩnh Bảo.
Ngoài ra Hải Phòng còn có Thị xã Đồ Sơn, một khu du lịch tắm
biển nghỉ mát nổi tiếng của Vệt Nam và hai huyện đảo Cát Bà và Bạch
Long Vĩ.
Hiện nay ba quận nội thành đang trong quá trình đô thị hoá cao với
diện tích 20 km2, dân số trên 550.000 người, ngoài ra còn có hàng trăm
ngàn khách vãng lai.
Hải Phòng hiện có khoảng 500 nhà máy xí nghiệp sản xuất kinh
doanh, 17 bệnh viện, 16 trung tâm y tế, hàng trăm trạm y tế phường xã, tổng
số giường bệnh trên 5000, riêng ba quận nội thành có 19 chợ, quận Kiến An
và xã ven đô khoảng trên 20 chợ lớn nhỏ, 12 công ty xí nghiệp giày dép các
loại ngoài ra còn có hàng trăm nhà hàng khách sạn và các cơ sở thương mại
dịch vụ.
Hiện nay, Hải Phòng đang hình thành những cụm công nghiệp lớn
như khu công nghiệp Tây Bắc với nhà máy sản xuất thép, khu công nghiệp
Nomura. Khu công nghiệp non trẻ đầy triển vọng Bắc Thuỷ Nguyên với các
nhà máy xi măng ChinFong, nhà máy xi măng mới Hải Phòng, nhà máy sửa
chữa tàu biển, phá dỡ tàu cũ...Khu công nghiệp Đình Vũ-Hạ Đoạn, khu công
nghiệp đường 14 Đồ Sơn, khu vực bến trong và ngoài cảng...Đó là những
khu vực công thương nghiệp thương mại lớn nhất của Hải Phòng, những
19
khu vực này sẽ tạo ra các chất thải rắn là rác thải sinh hoạt và rác thải công
nghiệp .
Mỗi ngày trên địa bàn nội thành Hải Phòng thải ra khoảng 870 m3
đến 940 m3. Trong đó hơn 75 m3 phế thải công nghiệp và bệnh viện.
Khả năng cho phép của công ty Môi trường Đô thị Hải Phòng mới
thu gom vận chuyển được khoảng 75%.
Biểu đồ 2.1: Mức độ tăng lượng thải trung bình mỗi ngày qua các
năm( các quận nội thành)
900
800
700
866
787793
678712
n¨m 1999
n¨m 2000
600
500
n¨m 2001
400
300
n¨m 2002
200
n¨m 2003
100
0
Đơn vị: m3.
( Nguồn : Công ty môi trường Đô thị Hải Phòng )
2.Tổ chức quản lí.
Công ty Môi trường Đô thị Hải Phòng trực thuộc Sở GTCC Hải
Phòng, là doanh nghiệp công Ých có nhiệm vụ thu gom, vận chuyển và xử lí
toàn bộ chất thải trong nội thành. Nhưng thực tế hiện nay, khác với thành
phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng còn có công ty công
cộng Thị xã Đồ Sơn và quận Kiến An quản lí thu gom. Vận chuyển chất
thải. Thậm chí công ty thoát nước Hải Phòng là đơn vị tách ra từ Công ty
Môi trường cũ ra để chuyên quản lí hệ thống thoát nứơc, cũng tham gia quản
lí chất thải rắn trong thời gian qua.
Các huyện ngoại thành do các cơ sở môi trường trực thuộc UBND
huyện quản lí một phần nhiệm vụ này.
20
- Xem thêm -