Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất mía nguyên liệu ở quy mô nông hộ tr...

Tài liệu đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất mía nguyên liệu ở quy mô nông hộ trên địa bàn xã châu hội, huyện quỳ châu, tỉnh nghệ an

.PDF
79
298
84

Mô tả:

PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Sự cần thiết của đề tài Trong thời kỳ hội nhập cùng với những chuyển biến tích cực của nền kinh tế Việt Nam thì ngành nông nghiệp luôn được coi là ngành quan trọng hàng đầu. Nhà nước ta đã chú trọng đầu tư và quan tâm nhiều hơn tới nông nghiệp. Song nông nghiệp đang gặp nhiều khó khăn và thách thức lớn như khả năng cạnh tranh so với các nước trong khu vực, gặp nhiều rủi ro, bất lợi do thời tiết, thị trường, thể chế chính sách...Những rủi ro bất lợi này tác động rất lớn tới người nông dân. Xét một cách toàn diện người nông dân luôn là những người chịu nhiều thiệt thòi và luôn gặp khó khăn nhất trong cuộc sống. Đối với nông dân Việt Nam hiện nay thu nhập của họ chủ yếu từ những cây trồng, vật nuôi phù hợp và dễ phát triển trên vùng đất của mình. Ngày xưa cây mía tạo ra thu nhập (TN) cho người nông dân với các sản phẩm mật mía, đường mía thì ngày nay, cây mía và ngành mía đường tại Việt Nam được xác định không chỉ là ngành kinh tế với mang lại lợi nhuận mà còn là một ngành kinh tế xã hội do nó có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống của hàng nghìn người nông dân. Trong những năm qua Chính Phủ đã triển khai nhiều chương trình, quyết định liên quan đến phát triển mía đường như “Chương trình quốc gia 1 triệu tấn đường”, Quyết định 80/2002/QĐ-TTg về việc tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Quyết định 28/2004/QĐ-TTg về việc tổ chức lại và thực hiện một số giải pháp xử lý khó khăn đối với các nhà máy, công ty đường và người trồng mía. Ngoài ra, Chính Phủ ban hành quyết định số 26/2007/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch phát triển mía đường đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 với tổng diện tích trồng mía 300.000 ha; sản lượng 19,5 triệu tấn/năm. Các chương trình quyết định nhằm tạo việc làm cho lao động nông nghiệp và lao động công nghiệp trong các nhà máy đường, các nhà máy cơ khí đường, góp phần xóa đói giảm nghèo (XĐGN) cho các vùng nông thôn, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân ở vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa. Qua đó thấy được vai trò của cây mía đối với người nông dân và nền kinh tế Việt Nam ngày một quan trọng. 1 Châu Hội với đơn vị hành chính bao gồm 13 thôn, hầu hết nông dân sống dựa vào nông nghiệp là chủ yếu. Trong những năm gần đây thì cây mía trở thành cây chủ đạo trong công tác XĐGN và nâng cao TN cho nông dân trong xã. Tuy nhiên, người trồng mía nguyên liệu vẫn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất do điều kiện thời tiết khí hậu của vùng khắc nghiệt, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm, giá cả thị trường không ổn định và giá cả vật tư nông nghiệp phục vụ hoạt động sản xuất mía tương đối cao. Do đó, người nông dân không dám mạnh dạn đầu tư thâm canh dẫn đến hiệu quả sản xuất mía thấp. Xuất phát từ thực tế đó, việc xem xét tình hình sản xuất mía của địa phương, đánh giá chính xác HQKT của cây trồng là một trong những cơ sở để đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả sản xuất mía để giúp nông hộ sản xuất mía có hiệu quả hơn. Đó là lý do chính mà người nghiên cứu chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất mía nguyên liệu ở quy mô nông hộ trên địa bàn xã Châu Hội, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An”. 2. Mục tiêu nghiên cứu Hệ thống hóa lý luận về HQKT hoạt động sản xuất mía nguyên liệu; Phân tích thực trạng sản xuất, tiêu thụ mía nguyên liệu của xã Châu Hội, qua đó đánh giá HQKT cây mía ở địa bàn nghiên cứu; Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao HQKT cây mía nguyên liệu tại địa bàn xã. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Các hộ sản xuất mía nguyên liệu trên địa bàn xã Châu Hội - Phạm vi nghiên cứu: Do năng lực và điều kiện nên người nghiên cứu chọn điều tra 2 thôn tại xã là Bản Lè và Việt Hương. 4. Phương pháp nghiên cứu.  Phương pháp điều tra chọn mẫu: trong tất cả các thôn có tiến hành trồng mía trên địa bàn xã thì Việt Hương và Bản Lè là hai thôn tiêu biểu trong hoạt động sản xuất mía chiếm diện tích lớn hơn so với các thôn khác.  Phương pháp thống kê kinh tế: Từ số liệu sơ cấp và thứ cấp thu thập được, xây dựng hệ thống bảng biểu để phân tích, đánh giá tình hình sản xuất mía của thế giới, Việt Nam, cũng như tình hình sản xuất mía của xã Châu Hội  Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp so sánh kết quả và hiệu quả sản xuất mía của các hộ nông dân trên góc độ so sánh kết quả và hiệu quả sản xuất mía của 2 nhóm hộ dân tộc Kinh và Thái. 2 PHẦN II NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Cơ sở lý luận 1.1.1 Khái quát chung về hộ nông dân 1.1.1.1 Khái niệm về hộ nông dân Hộ nông dân là đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khoa học nông nghiệp và phát triển nông thôn. Có rất nhiều định nghĩa về hộ nông dân: Theo giáo sư Frank Ellis Trường Đại học Cambridge (1988): “Hộ nông dân là các nông hộ, thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn chỉnh không cao” [1]. Lý thuyết của Tchayanov coi hộ nông dân là một doanh nghiệp không dùng lao động làm thuê, chỉ sử dụng lao động gia đình. Do đó, các khái niệm kinh tế thông thường không áp dụng được cho kiểu doanh nghiệp này. Do không thuê lao động nên trong hộ nông dân không có khái niệm tiền lương và tiếp theo là không thể tính được lợi nhuận, địa tô và lợi tức. Hộ nông dân chỉ có thu nhập chung của tất cả các hoạt động kinh tế gia đình, đó là sản lượng hàng năm trừ đi chi phí. Mục tiêu của hộ nông dân là có thu nhập cao, không kể thu nhập ấy có nguồn gốc nào: trồng trọt, chăn nuôi hay ngành nghề dịch vụ. Đó là kết quả chung của lao động gia đình[2]. Hộ nông dân là đơn vị xã hội làm cơ sở cho phân tích kinh tế. Các nguồn lực đất đai, tư liệu sản xuất, vốn sản xuất, sức lao động...được góp thành vốn chung, cùng chung một ngân sách; cùng chung sống dưới một mái nhà, ăn chung, mọi người đều hưởng phần thu nhập và mọi quyết định dều dựa trên ý kiến chung của các thành viên là người lớn trong hộ gia đình. 1.1.1.2 Đặc điểm của hộ nông dân Theo tạp chí ngân hàng số 75/2003, quan điểm của giáo sư Frank Ellis và quan điểm của Giáo sư Đào Thế Tuấn thì hộ nông dân có những đặc điểm sau: 3 - Hộ nông dân là một đơn vị khinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là một đơn vị tiêu dùng. - Quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng biểu hiện ở trình độ phát triển của hộ từ tự cung tự cấp hoàn toàn đến sản xuất hàng hóa hoàn toàn. Trình độ này quyết định quan hệ giữa hộ nông dân với thị trường. - Các hộ nông dân ngoài hoạt động nông nghiệp còn tham gia vào hoạt động phi nông nghiệp với các mức độ khác nhau, khiến cho khó có giới hạn thế nào là một hộ nông dân. - Khả năng của hộ nông dân chỉ có thể thỏa mãn nhu cầu tái sản xuất giản đơn nhờ sự kiểm soát tư liệu sản xuất nhất là ruộng đất và lao động. - Sản xuất kinh doanh chịu nhiều rủi ro, nhất là rủi ro khách quan trong khi khả năng khắc phục lại hạn chế. - Người nông dân với ruộng đất chính là một yếu tố hơn hẳn các yếu tố sản xuất khác vì giá trị của nó; nó là nguồn đảm bảo lâu dài đời sống cho gia đình nông dân trước những thiên tai. - Sự tín nhiệm đối với lao động của gia đình là một đặc tính nổi bật của hộ nông dân. Người “lao động gia đình” là cơ sở của các nông trại, là yếu tố phân biệt chúng với các doanh nghiệp tư bản. - “Người nông dân làm công việc của gia đình chứ không phải làm công việc kinh doanh thuần túy” (Woly, 1966) 1.1.2 Hiệu Quả kinh tế 1.1.2.1 Khái niệm hiệu quả kinh tế HQ là một phạm trù kinh tế chung nhất, liên quan trực tiếp đến nền kinh tế sản xuất hàng hóa. HQ là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn các phương án hành động. HQ được xem xét dưới nhiều giác độ và quan điểm khác nhau: HQ tổng hợp, HQKT, HQ chính trị xã hội, HQ trực tiếp, HQ gián tiếp, HQ tương đối và HQ tuyệt đối...Ngày nay, khi đánh giá HQ đầu tư của các dự án phát triển, nhất là những dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn, đòi hỏi phải xem xét HQKT trên nhiều phương diện. 4 Theo GS.TS Ngô Đình Giao: “HQKT là tiêu chuẩn cao nhất cho mọi sự lựa chọn kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”[3]. Còn theo P.samuelson và W.Nordhaus: “HQ sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hàng hóa mà không cắt giảm sản lượng của một loại hàng hóa khác. Một nền kinh tế có HQ nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó”[4]. Thực chất của hai quan điểm này đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp, cũng như nền sản xuất xã hội. Trên giác độ này rõ ràng phân bổ các nguồn lực kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực trên đường giới hạn khả năng sản xuất thì sản xuất có HQ. Theo Farell (1957) và một số nhà kinh tế học khác thì chúng ta chỉ tính được HQKT một cách đầy đủ theo nghĩa tương đối: “HQKT là một phạm trù kinh tế trong đó sản xuất đạt được cả HQ kỹ thuật và HQ phân phối”. HQ kỹ thuật là số lượng sản phẩm có thể đạt được trên một đơn vị chi phí đầu vào hay nguồn lực sử dụng vào sản xuất trong những điều kiện cụ thể về kỹ thuật hay công nghệ áp dụng vào sản xuất nông nghiệp. Như vậy HQ kỹ thuật liên quan đến phương diện vật chất của sản xuất, nó chỉ ra một đơn vị nguồn lực dùng vào sản xuất đem lại thêm bao nhiêu đơn vị sản phẩm. HQ phân phối (hiệu quả giá) là chỉ tiêu HQ trong đó các yếu tố giá sản phẩm và giá đầu vào được tính để phản ánh giá trị sản phẩm thu thêm trên một đồng chi phí thêm về đầu vào. Khi nắm được giá của các yếu tố đầu vào, đầu ra, người ta sẽ sử dụng các yếu tố đầu vào theo một tỷ lệ nhất định để đạt được lợi nhuận tối đa. Thực chất của HQ phân phối, chính là HQ kỹ thuật có tính đến giá của các yếu tố đầu vào và đầu ra, hay chính là HQ về giá. Theo TS Nguyễn Tiến Mạnh: "HQKT là phạm trù kinh tế khách quan phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã xác định". Mục tiêu ở đây có thể tùy vào từng lĩnh vực sản xuất, tùy vào từng doanh nghiệp. Tuy nhiên mục tiêu cao nhất của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Để làm được điều này doanh nghiệp cần phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực sản xuất (lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, vốn...). 5 Như vậy, mặc dù còn có nhất nhiều những quan điểm khác nhau về khái niệm HQKT nhưng chung quy lại chúng ta có thể hiểu: HQKT chính là phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất (lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, tiền vốn) trong quá trình tiến hành các hoạt động kinh doanh của DN để tối đa hoá lợi nhuận. 1.1.2.2 Nội dung và bản chất của hiệu quả kinh tế Trong nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường đang khuyến khích mọi ngành, mọi lĩnh vực sản xuất tham gia sản xuất kinh doanh để tìm kiến cơ hội với yêu cầu, mục đích khác nhau nhưng mục đích cuối cùng là tìm kiếm lợi nhuận. Nhưng làm thế nào để có HQKT cao nhất, đó là sự kết hợp các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra trong điều kiện sản xuất, nguồn lực nhất định. Ngoài ra còn phụ thuộc vào mục đích, yêu cầu khoa học kỹ thuật và việc áp dụng vào trong sản xuất, vốn, chính sách...quy luật khan hiếm nguồn lực trong khi đó nhu cầu của xã hội về hàng hóa, dịch vụ ngày càng tăng và trở nên đa dạng hơn, có như vậy mới nâng cao được HQKT. Quá trình sản xuất là sự liên hệ mật thiết giữa các yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra, là biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và HQ sản xuất. Kết quả là một đại lượng vật chất được biểu hiện bằng nhiều chỉ tiêu, nhiều nội dung tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Khi xác định HQKT không nên chỉ quan tâm đến hoặc là quan hệ so sánh (phép chia) hoặc là quan hệ tuyệt đối (phép trừ) mà nên xem xét đầy đủ mối quan hệ kết hợp chặt chẽ giữa các đại lượng tuyệt đối. HQKT Ở đây được biểu hiện bằng giá trị tổng sản phẩm, thu nhập, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. HQKT trong sản xuất nông nghiệp chủ yếu do hai quy luật chi phối: - Quy luật cung - cầu - Quy luật năng suất cận biên giảm dần. HQKT là một đại lượng để đành giá, xem xét đến hiệu quả hữu ích được tạo ra như thế nào, có được chấp nhận hay không. Như vậy, HQKT liên quan trực tiếp đến yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Việc vận dụng các chỉ tiêu đánh giá HQKT trong sản xuất nông nghiệp là rất đa dạng vì ở một mức sản xuất nhất định cần phải làm thế nào để có chi phí vật chất, lao 6 động trên một đơn vị sản phẩm là thấp nhất. Việc đánh giá phần lớn phụ thuộc vào quy trình sản xuất là sự kết hợp giữa các yếu tố đầu vào và khối lượng đầu ra, nó là một trong những nội dung hết sức quan trọng trong việc đánh giá HQKT. Tùy thuộc vào từng ngành, quy mô, đặc thù của ngành sản xuất khác nhau thì HQKT được xem xét dưới góc độ khác nhau, cũng như các yếu tố tham gia sản xuất. Xác định các yếu tố đầu ra: các mục tiêu đạt được phải phù hợp vời mục tiêu chung của nền kinh tế quốc dân, hàng hóa sản xuất ra phải được trao đổi trên thị trường, các kết quả đạt được là: Khối lượng, sản phẩm, lợi nhuận...Xác định các yếu tố đầu vào: đó là những yếu tố chi phí về vật chất, công lao động, vốn... Phân tích HQKT trong sản xuất nông nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường việc xác định các yếu tố đầu vào, đầu ra gặp các trở ngại sau: - Khó khăn trong việc xác định các yếu tố đầu vào: Tính khấu hao, phân bổ chi phí, hạch toán chi phí...Yêu cầu này phải chính xác và đầy đủ. - Khó khăn trong việc xác định các yếu tố đầu ra: Việc xác định các kết quả về mặt xã hội, môi trường sinh thái, độ phì của đất...không thể lượng hóa được. Bản chất của HQKT xuất phát từ mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế xã hội là thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng về vật chất, tinh thần của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Muốn như vậy thì quá trình sản xuất phải phát triển không ngừng cả về chiều sâu và chiều rộng như: Vốn, kỹ thuật, tổ chức sản xuất sao cho phù hợp nhất để không ngừng nâng cao HQKT của quá trình sản xuất. Để hiểu rõ phạm trù HQKT chúng ta cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù kết quả và HQ: Kết quả là phạm trù phản ánh những cái thu được sau một quá trình kinh doanh hay một khoảng thời gian kinh doanh nào đó [5]. Như vậy kết quả có thể biểu hiện bằng đơn vị hiện vật hoặc đơn vị giá trị. Các đơn vị hiện vật cụ thể được sử dụng tùy thuộc vào đặc trưng sản phẩm mà quá trình kinh doanh tạo ra, nó có thể là tấn, tạ, kg, m2, m3, lít… các đơn vị giá trị có thể đồng, triệu đồng, ngoại tệ… Trong khi đó HQ là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất.Trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất không thể đo lường bằng các đơn vị 7 hiện vật và đơn vị giá trị mà nó mang tính tương đối. Ta có thể tính toán trình độ lợi dụng nguồn lực bằng số tương đối: Tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực. Chênh lệch giữa kết quả và chi phí luôn là số tuyệt đối: Phạm trù này chỉ phản ánh mức độ đạt được về một mặt nào đó nên cũng mang bản chất là kết quả của quá trình kinh doanh không bao giờ phản ánh được trình độ lợi dụng nguồn lực sản xuất. 1.1.2.3 Phân loại hiệu quả kinh tế Hoạt động sản xuất của nền kinh tế - xã hội được diễn ra ở các phạm vi khác nhau, đối tượng tham gia vào các quá trình sản xuất và các yếu tố sản xuất càng khác nhau thì nội dung nghiên cứu HQKT càng khác nhau. Do đó, để nghiên cứu HQKT đúng cần phân loại HQKT. Có thể phân loại HQKT theo các tiêu chí sau: * Phân loại theo phạm vi và đối tượng xem xét. HQKT được phân theo các khía cạnh sau: - HQKT quốc dân: là HQKT tính chung cho toàn bộ nền sản xuất xã hội của một quốc gia. - HQKT ngành: là HQKT tính riêng cho từng ngành sản xuất vật chất nhất định như công nghiệp, nông nghiệp... - HQKT theo lãnh thổ: Tính riêng cho từng vùng, từng địa phương. - HQKT của từng quy mô tổ chức sản xuất – kinh doanh: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hộ gia đình... - HQKT từng biện pháp kỹ thuật, từng yếu tố đầu vào sản xuất. * Phân loại hiệu quả theo bản chất, mục tiêu: - HQKT phản ánh mối quan hệ tương quan giữa kết quả hữu ích về mặt kinh tế và chi phí bỏ ra, nó đánh giá chủ yếu về mặt kinh tế của hoạt động kinh tế mang lại. - HQ xã hội: phản ánh mối tương quan giữa kết quả của các lợi ích về mặt xã hội do hoạt động sản xuất mang lại. - HQ kinh tế - xã hội: phản ánh mối tương quan giữa kết quả tổng hợp về mặt kinh tế - xã hội với các chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó như bảo vệ môi trường, lợi ích công cộng... 8 - HQ phát triển và bền vững: là HQ kinh tế - xã hội có được do tác động hợp lý để tạo ra nhịp độ tăng trưởng tốt nhất và bảo đảm những lợi ích kinh tế - xã hội lâu dài. * Nếu căn cứ vào các yếu tố cơ bản của sản xuất các nguồn lực và hướng tác động vào sản xuất thì chia HQKT thành: - HQ sử dụng đất đai. - HQ sử dụng lao động. - HQ sử dụng các yếu tố tài nguyên như năng lượng, vốn... - HQ việc áp dụng khoa học – kỹ thuật như HQ làm đất, HQ bón phân...[6] 1.1.2.4 Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh tế Trong khi các nguồn lực sản xuất xã hội là một phạm trù khan hiếm: Càng ngày người ta càng sử dụng nhiều các nguồn lực sản xuất vào các hoạt động sản xuất phục vụ cho nhu cầu khác nhau của con người. Trong khi các nguồn lực càng giảm thì nhu cầu của con người càng đa dạng và tăng không giới hạn. Điều này phản ánh quy luật khan hiếm buộc người sản xuất phải trả lời chính xác ba câu hỏi: Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Vì thị trường chỉ chấp nhận các doanh nghiệp nào sản xuất đúng loại sản phẩm với chất lượng và số lượng phù hợp, giá cả hợp lý. Mặt khác, kinh doanh trong cơ chế thị trường, mở cửa và ngày càng hội nhập DN phải chấp nhận và đứng vững trong cạnh tranh. Muốn chiến thắng trong cạnh tranh DN cần phải luôn tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh: Chất lượng và sự khác biệt hoá, giá cả và tốc độ cung ứng. Để duy trì lợi thế về giá cả, DN phải tiết kiệm các nguồn lực sản xuất hơn các doanh nghiệp khác. Chỉ trên cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao, DN mới có khả năng đạt được điều này. HQKT là phạm trù phản ánh tính tương đối của việc sử dụng tiết kiệm các nguồn lực sản xuất xã hội nên là điều kiện để thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài của DN. HQ kinh doanh càng cao, càng phản ánh việc sử dụng tiết kiệm nguồn lực sản xuất. Vì vậy, nâng cao HQKT là đòi hỏi khách quan để DN thực hiện mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. 1.1.2.5 Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế Phương pháp xác định HQKT bắt nguồn từ bản chất HQKT, đó là mối tương quan so sánh giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó, hay nó là 9 mối quan hệ giữa các yếu tố đầu ra và đầu vào. Mối tương quan đó cần so sánh cả về giá trị tuyệt đối và tương đối giữa hai đại lượng. Có thể biểu hiện chỉ tiêu hiệu quả bằng 4 công thức sau: * Công thức 1: H = Q - C Trong đó H: HQKT Q: Kết quả thu được C: Chi phí bỏ ra Chỉ tiêu này thường được tính cho một đơn vị chi phí bỏ ra như tổng chi phí, chi phí trung gian, chi phí lao động…chỉ tiêu này càng lớn hiệu quả càng cao. Tuy nhiên ở cách tính này quy mô sản xuất lớn hay nhỏ chưa được tính đến, không so sánh được HQKT của các đơn vị sản xuất có quy mô khác nhau. Hơn nữa chỉ tiêu này chỉ cho biết quy mô của HQ chứ không chỉ rõ được mức độ HQKT, do đó chưa giúp cho các nhà sản xuất có những tác động cụ thể đến các yếu tố đầu vào để giảm chi phí nguồn lực, nâng cao HQKT. * Công thức 2: H = Q/C hoặc ngược lại H = C/Q Khi so sánh HQ thì việc sử dụng số tương đối là cần thiết bởi nó nói lên mặt chất lượng của hiện tượng. Cách tính này có ưu điểm là phản ánh được mức độ sử dụng các nguồn lực, xem xét được một đơn vị nguồn lực mang lại kết quả là bao nhiêu. Vì vậy, nó giúp cho việc đánh giá HQKT của các đơn vị sản xuất một cách rõ nét. Tuy nhiên, Cách tính này cũng có nhược điểm là chưa thể hiện được quy mô HQKT vì trên thực tế những quy mô khác nhau nhưng lại có hiệu suất sử dụng vốn như nhau. Trong thực tế khi đánh giá HQKT người ta thường kết hợp giữa công thức 1 và công thức 2 để chúng bổ sung cho nhau, qua đó sẽ đánh giá được HQKT một cách sâu sắc và toàn diện. * Công thức 3: H = ∆Q - ∆C Trong đó H: HQKT tăng thêm ∆Q: Kết quả tăng thêm ∆C: Chi phí tăng thêm 10 Chỉ tiêu này càng lớn thì HQ càng cao. Công thức này thể hiện rõ mức độ HQ của đầu tư thêm và nó được dùng kết hợp với công thức 4 để phản ánh toàn diện HQKT hơn. * Công thức 4: H = ∆Q/∆C Hoặc ngược lại H =∆C/∆Q Công thức này thể hiện rõ HQKT của việc đầu tư thêm hay tăng thêm chi phí, nó thường được sử dụng để xác định HQKT theo chiều sâu hoặc của việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Tỷ suất này giúp cho các nhà sản xuất xác định được điểm tối đa hóa lợi nhuận để đưa ra những quyết định sản xuất tối ưu nhất. Tuy nhiên, chỉ tiêu này chưa phân tích được tác động, ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên như đất đai, khí hậu… Trong thực tế sản xuất khi đánh giá HQKT ta thường kết hợp các công thức lại với nhau để chúng bổ sung cho nhau. Như vậy, việc đánh giá HQKT sẽ chính xác và toàn diện hơn. Tùy thuộc vào từng trường hợp mà ta lựa chọn chỉ tiêu cho phù hợp với điều kiện của sản xuất. 1.1.3 Đặc điểm kinh tế - Kỹ thuật cây mía nguyên liệu 1.1.3.1 Đặc điểm sinh học của cây mía Mía có tên khoa học là Sacharumof feiniruml, là nghành có hạt, lớp 1 là mầm, thuộc họ hoa thảo, chu kỳ sinh trưởng của cây mía từ hom đến thu hoạch kéo dài 1 năm. Trường hợp đặc biệt là 2 năm như ở Hawoai (Mỹ). Thời gian sinh trưởng mía kéo dài 5 giai đoạn: nảy mầm, đẻ nhánh, vươn cao, chín công nghiệp và giai đoạn treo cờ. Mía có một số đặc điểm sinh học cụ thể như sau: - Mía có chỉ số diện tích lá lớn và khả năng lợi dụng cao ánh sáng mặt trời. Trong thời gian 10 – 12 tháng, 1ha mía có thể cho năng suất hàng trăm tấn mía cây và một khối lượng lớn lá xanh, gốc rễ để lại trong đất. - Mía có khả năng lưu gốc được nhiều năm: Tức một lần trồng thu hoạch được nhiều vụ và giảm chi phí sản xuất. - Cây mía có khả năng thích ứng rộng: Có thể trồng trên nhiều vùng sinh thái khác nhau (khí hậu, đất đai, khô hạn hoặc úng ngập…), chống chịu tốt với các điều kiện khắc nghiệt của tự nhiên và môi trường. 11 1.1.1.3.2 Yêu cầu sinh thái của cây mía - Nhiệt độ: Nhiệt độ bình quân thích hợp nhất cho cây mía sinh trưởng là 250C – 260C. Cây mía sinh trưởng chậm khi nhiệt độ thấp hơn 210C và ngừng sinh trưởng ở 130C, dưới 50C cây bị hại. - Ánh sáng: Cây mía có bộ lá xanh lớn, khả năng tích lũy chất khô cao. Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, cây mía cần có cường độ ánh sáng mạnh. Thiếu ánh sáng, cây sẽ phát triển yếu, hàm lượng đường thấp, dễ bị sâu bệnh. Trong suốt chu kỳ, cây mía cần từ 2000 – 3000 giờ chiếu sáng, tối thiểu là 1200 giờ. - Lượng mưa: Mía là cây cần nhiều nước, nhưng sợ úng nước.Cây mía yêu cầu lượng mưa hữu hiệu trong năm là 1500mm tức tổng số lượng mưa phải từ 2000– 2500mm/năm. Ở giai đoạn sinh trưởng cây mía yêu cầu 100–170mm/tháng; Khi chín yêu cầu khô ráo, mía thu hoạch sau một khoảng thời gian khô ráo khoảng 2 tháng sẽ cho trữ đường cao. - Độ cao: Độ cao có liên quan đến cường độ chiếu sáng cũng như mức chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm, do đó ảnh hưởng đến khả năng tích tụ đường trong mía. Giới hạn về độ cao cho cây mía sinh trưởng và phát triển ở vùng xích đạo là 1600m, ở vùng nhiệt đới là 700-800m... - Đất trồng: Mía là loại cây công nghiệp khoẻ, dễ tính, không kén đất, vậy có thể trồng mía trên nhiều loại đất khác nhau, từ 70% sét đến 70% cát. Đất thích hợp nhất cho mía là những loại đất xốp, tầng canh tác sâu, có độ phì cao, giữ ẩm tốt và dễ thoát nước. Có thể trồng mía có kết quả trên cả những nơi đất sét rất nặng cũng như trên đất than bùn, đất hoàn toàn cát, đất chua mặn, đất đồi, khô hạn ít màu mỡ. Yêu cầu tối thiểu với đất trồng là có độ sâu, độ thoáng nhất định, độ PH không vượt quá giới hạn từ 4-9, độ PH thích hợp là 5,5-7,5. Độ dốc địa hình không vượt quá 150 , đất không ngập úng thường xuyên. Những vùng đất đai bằng phẳng cơ giới vận tải tương đối thuận lợi đều có thể bố trí trồng mía. Ngoài ra, người ta có thể canh tác mía ở cả những vùng gò đồi có độ dốc không lớn lắm ở vùng trung du miền núi. Tuy nhiên, ở những vùng địa bàn này cần bố trí các rãnh mía theo các đường đồng mức để tránh xói mòn đất. Ngành trồng mía chỉ có thể cho HQKT cao khi hình thành những vùng chuyên canh có qui mô lớn. 12 - Gió: Mía sợ gió mạnh và khô. Gió bão làm cây đổ ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng của cây mía, đồng thời tăng thêm chi phí thu hoạch. - Giống mía: Giống mía đóng vai trò quan trọng trong sản xuất mía, giống mía có thể sử dụng phần ngọn của cây mía khi thu hoạch hoặc sử dụng toàn bộ cây mía để làm giống. Giống mía tốt là giống cho năng suất cao, hàm lượng đường nhiều, thích hợp với điều kiện sinh thái, trồng trọt và chế biến của từng vùng. Yêu cầu này thể hiện ở các tiêu chuẩn chung là năng suất cao, tốc độ sinh trưởng nhanh, tỷ lệ đường cao,có khả năng chống chịu sâu bệnh, thích hợp với điều kiện sinh thái và đất đai của từng vùng, để gốc tốt, không hoặc ít ra hoa, thích hợp với điều kiện chế biến của mỗi nơi. Hiện nay, nhờ tiến bộ kỹ thuật, nước ta đã sản xuất ra các loại giống mía mới cho năng suất và chất lượng cao. Giai đoạn từ những năm 2000 tới nay, công tác nghiên cứu, chuyển giao giống mía và biện pháp thâm canh tiếp tục được nhà nước, các Bộ, ngành mía đường, các địa phương, các doanh nghiệp mía đườngvà người trồng mía quan tâm. Trong những năm qua, trung tâm nghiên cứu và phát triển mía đường Việt Nam đã lai tạo và đưa được nhiều loại giống mía có năng suất cao và cho trữ lượng đường với tỷ lệ cao như: Giống mía VN84-422, ROC10, MI, F156, VN85-1427, DLM24, MI55-14, K84-200, VN841437…những giống này có NS cao, ổn định và có HQKT cao. Cho đến năm 2008, trên toàn quốc đã đưa vào sử dụng nhiều giống mía phù hợp với từng địa phương [7]. 1.1.3.3 Kỹ thuật gieo trồng - Thời vụ gieo trồng: Thời vụ trồng mía có thể kéo dài từ tháng 9 năm trước đến 30/03 năm sau. - Xử lý giống: Hom giống nên trồng ngay khi hom giống còn tươi, chỉ xử lý hoặc ngâm ủ đối với vùng trồng có nhiệt độ thấp, hoặc bị nấm bệnh. - Mật độ, khoảng cách trồng: Khoảng cách trồng mía và số lượng hom giống thay đổi tùy theo điều kiện khí hậu, đất đai, giống, trình độ tập quán canh tác từng nơi. Khoảng cách trồng mía dao động từ 0,9m đến 1,2m; Lượng hom trồng biến động từ 4 đến 8 tấn/ha. 13 - Cách trồng: Trên rãnh đặt hom trồng thành một hàng hay hai hàng so le, đặt mầm mía nằm ra hai bên, lấp đất dày mỏng tùy đất khô hay ẩm, nhiệt độ cao hay thấp (khô, rét lấp đất dày; ẩm lấp đất nông; trồng vụ thu chỉ cần lấp kín hom). - Làm đất trồng mía: Chuẩn bị đất trồng mía là khâu kỹ thuật đầu tiên rất quan trọng. Làm đất trồng mía có 2 bước: Cày bừa và hót luống (rạch hàng) Cày, bừa: Phải đảm bảo 2 tiêu chuẩn cơ bản là độ sâu và độ mịn. Cày được càng sâu càng tốt, vì bộ rễ mía ăn sâu đến 50 – 60cm. Hót luống: Rãnh trồng mía phải sâu 25cm, đáy rãnh có một lớp đất xốp 5cm – 10cm. - Chăm sóc: Bón phân: Nguyên tắc là đất xấu bón nhiều phân, đất tốt thì bón ít phân, đất nghèo loại phân gì thì bón loại phân ấy. Phân hữu cơ: Bón từ 8 đến 20 tấn/ha bón lót toàn bộ Phân tổng hợp sinh học: Bón từ 1500 - 2000kg/ha, bón lót 50%, bón thúc khi mía kết thúc đẻ 50%. Đạm urê: Bón lót từ 300kg đến 450kg, cá biệt có thể bón đến 550kg, bón lót 50%, bón thúc lúc mía kết thúc đẻ 50%. Phân lân: Bón từ 400kg đến 600kg/ha, cá biệt có thể bón 1000kg/ha, bón lót toàn bộ. Kali: Bón lót từ 200 đến 300kg/ha, bón lót toàn bộ hoặc bón lót 50% và bón thúc 50%. Vôi: Bón từ 500kg đến 1200kg/ha, đất quá chua phải bón liên tục cho nhiều năm để đưa độ pH lên xấp xỉ 6. - Diệt cỏ, phá váng, cày xới, dặm mầm, bóc bẹ già: Từ khi trồng đến trước khi mía giao tán phải thường xuyên diệt sạch cỏ dại bằng cuốc, bằng cày hoặc bằng thuốc trừ cỏ. Từ khi trồng đến trước khi mía đẻ nhánh, nếu mưa to phải xới phá váng, nếu thiếu mầm phải dặm kịp thời. Từ khi mía đẻ đến trước khi giao tán phải thường xuyên cày xới đất giữa 2 hàng mía, sau đó có điều kiện thì bóc bớt bẹ khô, bẹ già. 14 - Phòng trừ sâu bệnh: Mía bị rệp hại nặng sẽ hỏng ngọn, hỏng gốc và mất đường. Dùng OFATOX pha với nước tỷ lệ 1/700 - 1/1100 phun diệt rệp triệt để từ khi mới chớm phát sinh. - Thu hoạch: Khi thu hoạch phải chặt sát gốc và không được làm dập gốc, không được thu hoạch vào lúc đất quá ướt để khỏi ảnh hưởng xấu đến vụ lưu gốc. 1.1.3.4 Giá trị kinh tế của cây mía Mía là cây công nghiệp lấy đường quan trọng của ngành công nghiệp đường. Đường là một loại thực phẩm cần có trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày của nhiều quốc gia trên thế giới, cũng như là loại nguyên liệu quan trọng của nhiều ngành sản suất công nghiệp nhẹ và hàng tiêu dùng như bánh kẹo… Về mặt kinh tế chúng ta nhận thấy trong thân mía chứa khoảng 16–18% đường. Vào thời kỳ mía chín già người ta thu hoạch mía rồi đem ép lấy nước. Từ nước dịch mía được chế lọc và cô đặc thành đường Ngoài sản phẩm chính là đường những phụ phẩm chính của cây mía bao gồm: bã mía chiếm 25-30% trọng lượng mía đem ép. Trong bã mía chứa trung bình 49% là nước, 48% là xơ (trong đó chứa 45-55% xenlulo) 2,5% là chất hòa tan (đường). Bã mía có thể dùng làm nguyên liệu đốt lò, hoặc làm bột giấy, ép thành ván dùng trong kiến trúc, cao hơn là làm ra Furfural là nguyên liệu cho ngành sợi tổng hợp. Trong tương lai khi mà rừng ngày càng giảm nguồn nguyên liệu làm bột giấy, làm sợi thì mía là nguyên liệu quan trọng để thay thế. Mật gỉ chiếm 3-5% trọng lượng đem ép. Thành phần mật gỉ trung bình chứa 20% nước, đường saccaro 35%, đường khử 20%, tro 15%, protein 5%, sáp 1%, bột 4% trọng lượng riêng. Từ mật gỉ cho lên men chưng cất rượu Rhums, sản xuất men các loại. Một tấn mật gỉ cho một tấn men khô hoặc các loại axit axetic, hoặc có thể sản xuất được 300 lít tinh dầu và 3800 lít rượu. Từ một tấn mía tốt người ta có thể sản xuất ra 35-50 lít cồn 950, 1ha với kỹ thuật hiện đại của thế kỷ 21 có thể sản xuất 7000-8000 lít cồn để làm nhiên liệu. Vì vậy mà khi nguồn nhiêu liệu lỏng ngày càng cạn kiệt thì người ta đã nghĩ đến việc thay thế năng lượng của thế kỷ 21 là lấy từ mía. Bùn lọc chiếm 1,5-3% trọng lượng mía đem ép. Đây là sản phẩm cặn bã còn lại sau khi chế biến đường. Trong bùn lọc chứa 5%N, 3% protein thô và một lượng lớn 15 chất hữu cơ. Từ bùn lọc có thể rút ra sáp mía để sản suất nhựa xeerrin làm sơn, xi đánh giầy,vv…Sau khi lấy sáp, bùn lọc dùng làm phân bón rất tốt. Mía còn là loại cây có tác dụng bảo vệ đất rất tốt. Mía thường trồng từ tháng 9 đến tháng 3 hàng năm là lúc lượng mua rất thấp. Đến mùa mưa, mía được 4-5 tháng tuổi, bộ lá đã giao nhau thành tảm lá xanh dày, diện tích lá gấp 4-5 lần diện tích đất làm cho mưa không thể rơi trực tiếp xuống mặt đất có tác dụng tránh xói mòn đất cho các vùng đồi trung du. Hơn nữa mía là cây rễ chùm và phát triển mạnh trong tầng đất 0-60cm. Trong 1ha mía tốt có thể có 13-15 tấn rễ, sau khi thu hoạch bộ rễ để lại trong đất cùng với bộ lá là chất hữu cơ quý làm tăng độ phì của đất. Như vậy, nếu đầu tư có HQ ngành mía đường sẽ mở ra một tương lai mới đầy hy vọng cho vùng trồng mía, trước hết là người nông dân, sau đó là các nhà máy chế biến đường và các nhà máy phụ trợ khác. Khi phát triển được vùng chuyên canh có quy mô lớn, vấn đề việc làm cho người lao động nông nghiệp trên lãnh thổ sẽ được giải quyết cơ bản. Mặt khác, việc cung cấp mía nguyên liệu ổn định sẽ đảm bảo cho công nghiệp chế biến mía đường phát triển kéo theo các ngành công nghiệp chế biến khác như bánh kẹo, những ngành công nghiệp phụ phẩm sau đường phát triển. Giá trị kinh tế hàng hóa của cây mía tăng lên, cơ cấu kinh tế cây trồng cũng như cơ cấu kinh tế xã hội có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ. Khoảng cách về TN của lao động nông nghiệp và công nghiệp được rút ngắn và ổn định. (http://www.nongthon.net/apm) 1.1.1.3.5 Một số nhân tố ảnh hưởng đến năng suất mía * Nhân tố bên ngoài - Điều kiện thời tiết khí hậu: Mía là một cơ thể sống có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng. Chính vì vậy quá trình sinh trưởng và phát triển của cây mía chịu tác động rất lớn của điều kiện tự nhiên như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, lượng mưa… - Thị trường đầu vào, đầu ra: Giá cả đầu vào và giá cả đầu ra có ảnh hưởng rất lớn tới quyết định của người sản xuất. Giá cả đầu vào tăng cao sẽ hạn chế khả năng đầu tư dẫn đến việc giảm năng suất và chất lượng của cây mía. Một thị trường tiêu thụ ổn định, giá cả đầu ra có thể bù đắp được chi phí sản xuất và sinh lợi nhuận chính là điều kiện cần để các hộ tiếp tục đầu tư sản xuất mía. 16 - Cơ sở hạ tầng: Các yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, hệ thống thủy lợi, thông tin liên lạc, các dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất mía. Cơ sở hạ tầng phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy sản xuất phát triển và ngược lại cơ sở hạ tầng kém phát triển, chính là nhân tố kìm hãm sản xuất phát triển. - Cơ chế chính sách của Nhà nước, tỉnh, địa phương: Ảnh hưởng gián tiếp đến HQ sản xuất mía, đặc biệt là một số chính sách về đất đai, tín dụng, thuế… - Chính sách đầu tư hỗ trợ của công ty: Sự liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất và công ty chế biến chính là nhân tố ảnh hưởng đến tính bền vững của sản xuất mía. Bên cạnh đó, chính sách đầu tư hỗ trợ kịp thời của công ty, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các hộ trồng mía yên tâm sản xuất. * Các nhân tố bên trong - Quy mô và tính chất đất đai: Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được. Chính vì vậy, đất đai chính là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp. Quy mô đất đai có ảnh hưởng rõ rệt tới mức độ đầu tư, khả năng áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất của cây trồng. - Công nghệ kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật: việc áp dụng những thành tựu KHKT vào sản xuất sẽ làm tăng HQ sản xuất mía đặc biệt là việc đưa giống mới, mô hình trồng mía mới và cơ giới hóa vào sản xuất. - Mức độ đầu tư: Giống, phân bón, vôi, thuốc sâu, công chăm sóc ảnh hưởng tới NS và chất lượng của cây trồng. Mức độ đầu tư hợp lý, sẽ nâng cao HQKT của cây mía. 1.1.4 Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 1.1.4.1 Các chỉ tiêu phản ánh quy mô sản xuất mía của các hộ điều tra: - Diện tích gieo trồng, diện tích gieo trồng bình quân/ hộ - Mức đầu tư vốn cố định, vốn lưu động cho sản xuất và cho một ĐVDT trồng trọt. 1.1.4.2 Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất mía - GO: Toàn bộ giá trị tính bằng tiền của toàn bộ sản phẩm thu được trên 1ĐVDT canh tác trong một chu kỳ sản xuất. Hay GO chính là giá trị sản xuất bình quân/ĐVDT canh tác. 17 n GO   QiPi i 1 Trong đó: Qi: Khối lượng sản phẩm sản loại i xuất ra tính trên một ĐVDT canh tác. Pi: Đơn giá sản phẩm loại i ( mía ) - Giá trị gia tăng (VA) : Phản ánh giá trị tăng thêm sau khi lấy giá trị sản xuất bình quân trừ đi chi phí vật chất và dịch vụ mua ngoài VA  GO  IC - IC: Chi phí trung gian là chi toàn bộ chi phí vật chất thường xuyên và dịch vụ mua ngoài được đầu tư trong quá trình sản xuất như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. n IC   Cj j 1 Cj là chi phí thứ j trong quá trình sản xuất. - TN hỗn hợp (MI): là phần TN của người sản xuất bao gồm công lao động của hộ và lợi nhuận sau khi sản xuất trên một ĐVDT trong một vụ hay một năm. 1.1.4.3 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất mía GO/IC: Thể hiện cứ một đồng chi phí trung gian được đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất, hiệu suất càng lớn thì sản xuất càng có HQ. VA/IC: Thể hiện cứ một đồng chi phí trung gian được đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. MI/IC: Thể hiện cứ một đồng chi phí trung gian bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng TN hỗn hợp. 1.2 Cơ sở thực tiễn 1.2.1 Thực trạng mía đường thế giới Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 100 quốc gia sản xuất đường, trong đó 78% tập trung chủ yếu ở vùng nhiệt đới và tiểu nhiệt đới của khu vực phía nam bán cầu. Trong hơn 100 quốc gia sản xuất đường, các quốc gia đang phát triển chiếm tới 76% sản lượng đường thế giới và tập trung chủ yếu ở khu vực Châu Á, Bắc Mỹ và Caribê. Theo số liệu của FAO năm 2009, sản lượng đường của thế giới đạt 169.10 18 triệu tấn tăng 14.41% so với năm 2007. Trong đó châu Á không chỉ vươn lên trở thành khu vực sản xuất đường lớn nhất thế giới với 68.5 triệu tấn (chiếm 40.5% sản lượng đường thế giới) mà còn là khu vực tiêu thụ đường lớn nhất thế giới. Đứng thứ 2 là khu vực châu Mỹ Latinh và Caribê với sản lượng đường chiếm 31.15% sản lượng đường thế giới. Các quốc gia sản xuất và xuất khẩu đường lớn nhất thế giới có thể kể đến là Braxin (sản xuất 31355 triệu tấn và xuất khẩu 20957 triệu tấn), Ấn Độ (28804 triệu tấn, xuất khẩu 3298 triệu tấn), Trung Quốc (14.674 triệu tấn), Thái Lan (sản xuất 8033 triệu tấn, xuất khẩu 5288 triệu tấn).Theo thống kê của FAO mức tiêu thụ đường BQ toàn thế giới là 24kg/người/năm và mức tiêu thụ đường ở các nước là rất khác nhau. Các nước phát triển BQ tiêu thụ 30 – 40 kg/người/năm. Các quốc gia đang phát triển BQ tiêu thụ khoảng 15 -20kg/người/năm, Châu Á BQ tiêu thụ khoảng 14kg/người/năm. Năm 2009 mức tiêu thụ đường thế giới là 157 triệu tấn tăng 6.08 % so với năm 2007, mức tiêu thụ lớn nhất là khu vực Châu Á (70.3 triệu tấn), Châu Âu (30.8 triệu tấn) và Châu Mỹ Latinh (27.9 triệu tấn). 19 Bảng 1: Tình hình sản xuất và tiêu thụ mía của các khu vực trên thế giới Chỉ tiêu Sản xuất (Triệu tấn) 2007 2008 2009 Tiêu thụ (Triệu tấn) 2009/2007 +/- 147.80 164.50 169.10 21.30 14.41 Sản lượng đường mía 115.28 128.31 131.90 16.62 Sản lượng củ cải 32.52 37.20 4.68 2008 2009 % Thế giới 36.19 2007 2009/2007 +/- 148.00 153.50 158.00 9.00 % 6.08 14.40 112.36 119.58 123.00 10.64 9.47 14.39 24.30 26.82 30.09 5.79 23.8 Các nước đang phát triển 106.00 124.20 128.50 22.50 21.23 100.00 104.60 107.50 7.50 7.50 Các nước phát triển 41.80 40.30 40.60 -1.20 -2.87 48.00 48.90 49.50 1.50 3.13 Châu Á 50.00 64.20 68.50 18.50 37.00 64.60 64.80 70.30 5.70 8.82 Châu Phi 5.00 10.50 10.60 5.60 112.00 8.30 15.20 15.50 7.20 86.75 Mỹ Latinh và Caribê 50.70 52.60 52.70 2.00 3.94 27.00 27.10 27.90 0.90 3.33 Bắc Mỹ 8.00 7.80 7.90 -0.10 -1.25 10.40 10.70 10.90 0.50 4.81 Châu Âu 28.40 24.00 23.90 -4.50 -15.85 36.10 31.60 30.80 -5.30 -14.68 Châu Đại Dương 5.70 5.40 5.50 -0.20 -3.51 1.50 1.60 1.60 0.10 6.67 (Nguồn: FAO) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan