BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN
-------------------
LÊ XUÂN HÒA
Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
SỬ DỤNG HỢP LÝ ĐẤT SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÙ NINH - TỈNH PHÚ THỌ
Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số : 60. 62. 16
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Thái Nguyên, năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
Công trình được hoàn thành tại
Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đàm Xuân Vận
Người phản biện 1: ……………………………………
……………………………………..
Người phản biện 2: ……………………………………
……………………………………..
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn cấp cơ sở
Họp tại: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM – ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
Vào hồi
giờ
ngày
tháng
năm 2011
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Thư viện Trường Đại học Nông lâm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
Phần 1
Mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tƣ liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế của sản xuất nông
nghiệp, là đối tƣợng lao động độc đáo, đồng thời cũng là môi trƣờng hoạt
động sản xuất ở nông thôn, một bộ phận quan trọng của môi trƣờng sống. Tuy
vậy, đất đai là một nguồn tài nguyên có giới hạn về số lƣợng, cố định về vị trí
không gian, không thể di chuyển theo sự sắp đặt chủ quan của con ngƣời. Do
sức ép của sự gia tăng dân số và nhu cầu khai thác, đất nông nghiệp đang
đứng trƣớc nguy cơ suy giảm về số lƣợng và chất lƣợng. Vì vậy, chiến lƣợc
sử dụng đất đai hợp lý, phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững là một vấn
đề cấp bách của tất cả các nƣớc trên thế giới cũng nhƣ của nƣớc ta hiện nay.
Nông nghiệp là một ngành sản xuất những sản phẩm thiết yếu nhƣ
lƣơng thực, thực phẩm, là hoạt động sản xuất cổ nhất và cơ bản nhất của loài
ngƣời. Hầu hết các nƣớc trên thế giới đều phải xây dựng nền kinh tế trên cơ
sở phát triển nông nghiệp, khai thác tiềm năng của đất, lấy đó làm bàn đạp để
phát triển các ngành khác. Mục đích của việc sử dụng đất đai là làm thế nào
bắt nguồn tƣ liệu có hạn này mang lại hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và
môi trƣờng cao nhất, đảm bảo lợi ích trƣớc mắt và lâu dài.
Theo Đào Châu Thu (1998) [33] phát triển nông nghiệp bền vững đƣợc
định nghĩa nhƣ là việc quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, định hƣớng
các thay đổi về công nghệ và thể chế nhằm thoả mãn các nhu cầu của con
ngƣời cho thế hệ ngày nay và mai sau.
Theo Tổ chức lƣơng thực và nông nghiệp của Liên hiệp quốc (FAO),
tuy đã đạt đƣợc một số kết quả sử dụng đất nông nghiệp, năng suất lúa mỳ đã
đạt 18 tạ/ha; năng suất lúa nƣớc bình quân 27,7 tạ/ha; năng suất ngô 30 tạ /ha.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
nhƣng hàng năm thế giới còn thiếu khoảng 150-200 triệu tấn lƣơng thực.
Trong khi đó, hàng năm có khoảng 6-7 triệu ha đất nông nghiệp bị mất đi do
tình trạng thoái hoá hoặc bị huỷ hoại vì sử dụng không đúng mức. (World
Development Report, WB - 1992) [46]. Do mỗi loại đất có những yếu tố thuận
lợi và hạn chế khác nhau (địa hình, thành phần cơ giới, hàm lƣợng các chất
dinh dƣỡng, chế độ nƣớc, độ chua, độ mặn), nên phƣơng thức sử dụng đất
cũng phải khác nhau ở mỗi vùng, mỗi khu vực, mỗi điều kiện kinh tế xã hội
cụ thể.
Diện tích đất tự nhiên của Việt Nam là 33.121.159 ha, trong đó đất
nông nghiệp chỉ có 24.822.560 ha; dân số là 80.902,4 triệu ngƣời, bình quân
đất tự nhiên trên đầu ngƣời là 4.093,9 m2 bằng 1/7 mức bình quân thế giới,
bình quân diện tích đất nông nghiệp là 3068 m2/ngƣời. So sánh với 10 nƣớc
khu vực Đông Nam Á, tổng diện tích tự nhiên của Việt Nam xếp thứ 2, bình
quân diện tích đất tự nhiên trên đầu ngƣời của Việt Nam đứng vị trí thứ 9
trong khu vực (Bộ TN&MT, 2007). Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng
đất nhằm thoả mãn nhu cầu cho xã hội về nông sản phẩm đang trở thành một
trong các mối quan tâm lớn nhất của ngƣời quản lý và sử dụng đất.
Thực tế, trong những năm qua, đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả nhƣ tiến hành giao quyền sử dụng đất lâu dài ổn định cho ngƣời sử
dụng đất, hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đƣa các
giống cây tốt năng suất cao vào sản xuất, nhờ đó mà năng suất cây trồng, hiệu
quả sử dụng đất đƣợc nâng lên. Trong đó, việc thay đổi cơ cấu cây trồng, sử
dụng giống mới với năng suất và chất lƣợng cao, áp dụng các tiến bộ khoa
học kỹ thuật, có biểu hiện ảnh hƣởng rõ rệt đến hiệu quả sử dụng đất.
Khai thác tiềm năng đất đai sao cho đạt hiệu quả cao nhất là việc làm
hết sức quan trọng và cần thiết, đảm bảo cho sự phát triển của sản xuất nông
nghiệp cũng nhƣ của sự phát triển chung của nền kinh tế đất nƣớc. Cần phải
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
có các công trình nghiên cứu khoa học, đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp, nhằm phát hiện ra các yếu tố tích cực và hạn chế, từ đó làm
cơ sở để định hƣớng phát triển sản xuất nông nghiệp, thiết lập các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Phù Ninh là một huyện miền núi mới đƣợc tái lập tháng 9/1999, nằm ở
phía Đông Bắc của tỉnh Phú Thọ, sản phẩm nông nghiệp là một nguồn thu
chính của nhân dân trong huyện. Những năm gần đây, kinh tế nông nghiệp,
nông thôn tuy có những bƣớc phát triển mới song nhìn chung vẫn còn lạc hậu,
sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, công cụ sản xuất phần đa là thủ
công, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế chƣa cao. V?i t?ng di?n tớch t?
nhiờn c?a huy?n là 15.648,01 ha, trong dú di?n tớch d?t nụng nghi?p
11.355,55 ha chi?m 72,56% t?ng di?n tớch t? nhiờn, dân số là 93.852 nghìn
ngƣời, bình quân đất tự nhiên trên đầu ngƣời là 1.667,3 m2 chƣa bằng 1/2
mức bình quân cả nƣớc, bình quân diện tích đất nông nghiệp là 1.209,9
m2/ngƣời, chƣa bằng 1/2 mức bình quân cả nƣớc (Theo báo cáo của phòng
thống kê năm 2010) [26].
Hiện nay, mặc dù đã qua nhiều năm đổi mới, song ngƣời nông dân vẫn
còn có tƣ tƣởng bao cấp, nhận thức của nhân dân về sản xuất hàng hoá trong
cơ chế thị trƣờng còn rất hạn chế, trong khi đó những chính sách về phát triển
nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là những chính sách cụ thể để phát triển các
ngành sản xuất còn đang bất cập, không đồng bộ.
Vì vậy, để giúp huyện có hƣớng đi đúng trong phát triển nền kinh tế
nông nghiệp bền vững, giúp ngƣời dân lựa chọn đƣợc phƣơng thức sản xuất
phù hợp trong điều kiện cụ thể của huyện, nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp, nhằm thoả mãn nhu cầu về lƣơng thực, phát triển nền nông
nghiệp bền vững là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
Xuất phát từ những vấn đề quan trọng nhƣ trên, chúng tôi thực hiện đề
tài: “Đánh giá hiệu quả và đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý đất sản xuất
nông nghiệp trên địa bàn huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng sử dụng đất, các yếu tố ảnh hƣởng đến hiệu quả
sử dụng đất sản xuất nông nghiệp. Đề xuất các giải pháp sử dụng đất sản
xuất nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp bền vững.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Nghiên cứu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội và thực trạng sử
dụng đất sản xuất nông nghiệp của huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trƣờng, phát hiện ƣu,
nhƣợc điểm của các loại hình sử dụng đất đang đƣợc áp dụng trên địa
bàn huyện.
- Đề xuất các giải pháp khắc phục những tồn tại trong quá trình sử
dụng đất sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả và phù hợp điều kiện thực
tế ở địa phƣơng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Vấn đề sử dụng đất nông nghiệp
2.1.1. Tổng quan về quỹ đất nông nghiệp
Theo báo cáo của World Bank (1995) [47], hàng năm sản xuất lƣơng
thực trên toàn thế giới so với nhu cầu sử dụng vẫn thiếu hụt từ 150 - 200 triệu
tấn nhƣng có từ 6 - 7 triệu ha đất nông nghiệp đã bị loại bỏ do thoái hoá.
Trong số 1200 triệu ha đất bị thoái hoá hiện nay có tới 544 triệu ha đất canh
tác bị mất khả năng sản xuất do sử dụng không hợp lý.
Trên toàn thế giới có khoảng 3,3 tỉ ha đất nông nghiệp, trong đó đã khai
thác 1,5 tỉ ha, còn lại phần lớn là đất xấu, gặp nhiều khó khăn đối với sản xuất
nông nghiệp. Phân bố đất nông nghiệp trên các châu lục nhƣ sau: châu Mĩ
35%, châu á 26%, châu Âu 13%, châu Phi 20%, châu Đại dƣơng 6%. Bình
quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu ngƣời toàn thế giới là 12000 m2/ngƣời
(Mĩ 2000 m2/ngƣời, Bungari 7000 m2/ngƣời, Nhật 650 m2/ngƣời...). Theo báo
cáo của UNDP năm 1995, khu vực Đông Nam Á, bình quân diện tích đất nông
nghiệp trên đầu ngƣời của các nƣớc nhƣ sau: Indonesia 0,12 ha/ngƣời,
Malaysia 0,27 ha/ngƣời, Philippin 0,13 ha/ngƣời, Thailand 0,42 ha/ngƣời, Việt
Nam 0,1 ha/ngƣời.
Theo Vũ Thị Phƣơng Thuỵ (2000) [34], dân số thế giới tăng trong vòng 25
năm (1965-1990) là 68,5% (từ 3.027 triệu ngƣời đến 5.100 triệu ngƣời) trong khi
đó diện tích đất canh tác chỉ tăng 9,7% (từ 1.380 triệu ha đến 1.520 triệu ha).
Nhƣ vậy, bình quân diện tích đất canh tác trên đầu ngƣời giảm 45,6% (từ 5.560
m2/ngƣời đến 2.960 m2/ngƣời). Dự kiến tính đến năm 2025 dân số thế giới tăng
lên 8.300 triệu ngƣời, đất canh tác tăng lên không đáng kể (1.650 triệu ha), do đó
diện tích đất canh tác bình quân trên đầu ngƣời sẽ tiếp tục giảm chỉ còn 1.990
m2/ngƣời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
Việt Nam là nƣớc có quỹ đất không lớn, đứng thứ 4 ở khu vực Đông Nam
Á, dân số đứng thứ 2, bình quân diện tích đất nông nghiệp trên đầu ngƣời thấp,
với gần 70% dân số làm nông nghiệp, hiện vẫn đang thuộc nhóm 40 nƣớc có
nền kinh tế kém phát triển. Theo số liệu thống kê (Tổng cục Thống kê năm
2000), diện tích đất nông nghiệp và diện tích đất canh tác của Việt Nam trong
những năm qua có sự biến động lớn: năm 1990 diện tích đất nông nghiệp
9.940.000 ha, diện tích đất canh tác là 8.101.500 ha, bình quân đất canh tác trên
đầu ngƣời là 1.223 m2/ngƣời, đến năm 1998 diện tích đất nông nghiệp là
11.704.800 ha, diện tích đất canh tác là 10.001.300 ha, bình quân đất canh tác
trên đầu ngƣời 1.311 m2/ngƣời [32].
Theo luật đất đai (2003), đất đai đƣợc chia thành 3 nhóm theo mục đích
sử dụng là đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chƣa sử dụng. Đất
nông nghiệp là đất sử dụng chủ yếu để sản xuất nông nghiệp nhƣ đất trồng
cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng
đặc dụng, rừng trồng, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối hoặc nghiên cứu thí
nghiệm về nông nghiệp. Đất nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng
trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Đất nông nghiệp tham gia vào
quá trình sản xuất và làm ra sản phẩm cần thiết nuôi sống xã hội.
Đất đai là sản phẩm của thiên nhiên, là tƣ liệu sản xuất có những tính
chất đặc thù riêng khiến nó không giống bất kỳ một tƣ liệu sản xuất nào khác.
Đó là đất có độ phì, có giới hạn về diện tích, có vị trí cố định trong không
gian và vĩnh cửu với thời gian nếu biết sử dụng hợp lý.
Nhận thức đƣợc các vấn đề nêu trên sẽ giúp ngƣời sử dụng đất có định
hƣớng sử dụng tốt hơn đối với đất nông nghiệp, khai thác có hiệu quả tiềm
năng tự nhiên của đất đồng thời bảo vệ tốt môi trƣờng sinh thái đất.
Xét cho cùng, đất chỉ có giá trị thông qua quá trình sử dụng của con
ngƣời, giá trị đó tuỳ thuộc vào sự đầu tƣ trí tuệ và các yếu tố đầu vào khác
trong sản xuất. Hiệu quả của việc đầu tƣ này phụ thuộc rất lớn vào những lợi
thế của quỹ đất hiện có và các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
2.1.2. Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu sử
dụng của con ngƣời ngày càng tăng, mặt khác đất nông nghiệp ngày càng bị
thu hẹp do bị trƣng dụng sang các mục đích khác. Vì vậy, sử dụng đất nông
nghiệp phải đạt đƣợc mục tiêu nâng cao hiệu quả KT- XH trên cơ sở đảm bảo
an ninh lƣơng thực, thực phẩm, tăng cƣờng nguyên liệu cho công nghiệp và
hƣớng tới sản xuất hàng hoá. Sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp trên cơ
sở cân nhắc những mục tiêu phát triển KT-XH, tận dụng đƣợc tối đa lợi thế so
sánh về điều kiện sinh thái, không làm ảnh hƣớng xấu đến môi trƣờng là
những nguyên tắc cơ bản và cần thiết đảm bảo khai thác sử dụng bền vững tài
nguyên đất. Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp là “đầy đủ và hợp lý”, dựa
trên quan điểm tiến bộ, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cụ thể.
Thực hiện nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp “đầy đủ và hợp lý” là
cần thiết vì:
- Sử dụng đất nông nghiệp hợp lý sẽ làm tăng nhanh khối lƣợng nông
sản trên 1 đơn vị diện tích, có cơ cấu cây trồng, chế độ bón phân hợp lý góp
phần bảo vệ độ phì nhiêu của đất.
- Sử dụng đất nông nghiệp đầy đủ và hợp lý là tiền đề để sử dụng có
hiệu quả các nguồn tài nguyên khác, nâng cao đời sống của nông dân.
- Sử dụng đất nông nghiệp đầy đủ và hợp lý trong cơ chế kinh tế thị
trƣờng phù hợp với quy luật tự nhiên của nó, gắn với các chính sách vĩ mô
nhằm nâng cao hiệu quả và phát triển nền nông nghiệp bền vững.
2.1.3. Sử dụng đất nông nghiệp theo quan điểm phát triển bền vững
2.1.3.1. Vấn đề suy thoái đất nông nghiệp
Hiện tƣợng suy thoái đất, suy kiệt dinh dƣỡng có liên quan chặt chẽ đến
chất lƣợng đất và môi trƣờng. Để đáp ứng nhu cầu lƣơng thực, thực phẩm cho
con ngƣời, con đƣờng duy nhất là thâm canh tăng năng suất cây trồng trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
điều kiện hầu hết đất canh tác đều bị nghèo về độ phì, đòi hỏi phải bổ sung
một lƣợng dinh dƣỡng cần thiết qua con đƣờng sử dụng phân bón.
Báo cáo của Viện Tài nguyên Thế giới (dẫn theo ESCAP/FAO/UNIDO)
[42] cho thấy, gần 20% diện tích đất đai châu á bị suy thoái do những hoạt
động của con ngƣời. Hoạt động sản xuất nông nghiệp là nguyên nhân làm suy
thoái đất do thông qua quá trình thâm canh tăng vụ, phá huỷ cấu trúc đất, xói
mòn và suy kiệt dinh dƣỡng.
Dự án điều tra, đánh giá thoái hoá đất ở một số nƣớc vùng nhiệt đới châu
á nhằm phát triển nông nghiệp bền vững trong chƣơng trình môi trƣờng của
Trung tâm Đông Tây và khối các trƣờng Đại học Đông Nam Châu Á [42] đã
tập trung nghiên cứu những thay đổi dinh dƣỡng trong hệ sinh thái nông
nghiệp. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng các yếu tố dinh dƣỡng N, P, K của
hầu hết các hệ sinh thái đều bị giảm. Nguyên nhân của của sự thất thoát dinh
dƣỡng trong đất là do thâm canh thiếu phân bón và đƣa các sản phẩm của cây
trồng, vật nuôi ra khỏi hệ thống.
ở Việt Nam, các kết quả nghiên cứu cho thấy đất ở vùng trung du miền
núi đều nghèo các chất dinh dƣỡng P, K, Ca, Mg; đất phù sa sông Hồng có
hàm lƣợng dinh dƣỡng khá song quá trình thâm canh với hệ số sử dụng đất từ
2 - 3 vụ/ năm nên lƣợng dinh dƣỡng mà cây lấy đi lớn hơn nhiều so với lƣợng
dinh dƣỡng bón vào đất. Để đảm bảo đủ dinh dƣỡng, đất không bị suy thoái
thì N, P là hai yếu tố cần đƣợc bổ sung thƣờng xuyên (ESCAP/FAO/UNIDO)
[42]. Trong quá trình sử dụng đất, nếu chƣa tìm đƣợc các loại hình sử dụng
đất hợp lý hoặc chƣa có công thức luân canh hợp lý cũng gây ra hiện tƣợng
thoái hoá đất, đặc biệt đối với vùng đất dốc trồng cây lƣơng thực có dinh
dƣỡng thấp lại không luân canh với cây họ đậu. Suy thoái đất còn liên quan
tới điều kiện kinh tế, xã hội của vùng. Trong điều kiện kinh tế khó khăn ngƣời
dân chỉ tập trung trồng cây lƣơng thực là chủ yếu cũng gây ra hiện tƣợng xói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
mòn, suy thoái đất. Điều kiện kinh tế và sự hiểu biết của con ngƣời thấp dẫn
tới việc sử dụng phân bón hạn chế hoặc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá
nhiều, ảnh hƣởng tới môi trƣờng đất.
2.1.3.2. Quan điểm phát triển bền vững
Do sự gia tăng dân số, nhu cầu phát triển kinh tế đã gây áp lực rất lớn đối
với đất nông nghiệp. Mục tiêu của con ngƣời là sử dụng đất một cách khoa
học và hợp lý [30]. Trong quá trình sử dụng lâu dài với nhận thức còn hạn chế
dẫn tới nhiều vùng đất đai đang bị thoái hoá, ảnh hƣởng tới môi trƣờng sống
của con ngƣời. Những diện tích đất đai thích hợp cho sản xuất nông nghiệp
ngày càng bị thu hẹp, do đó con ngƣời phải mở mang diện tích canh tác trên
các vùng đất không thích hợp, hậu quả đã gây ra quá trình thoái hoá, rửa trôi
đất một cách nghiêm trọng (theo Fleischhaure) [41].
Trƣớc những năm 1970, trong nông nghiệp ngƣời ta nói nhiều đến
giống mới năng suất cao và kỹ thuật thâm canh cao. Từ sau năm 1970 một
khái niệm mới xuất hiện và ngày càng có tính thuyết phục là khái niệm về
tính bền vững và nông nghiệp bền vững.
Theo Lê Viết Ly, Bùi Văn Chính, nông nghiệp bền vững không có nghĩa
là khƣớc từ những kinh nghiệm truyền thống mà phải phối hợp, lồng ghép
những sáng kiến mới từ các nhà khoa học, từ nông dân hoặc cả hai. Điều trở
nên thông thƣờng đối với những ngƣời nông dân, bền vững là sử dụng những
công nghệ và thiết bị vừa mới đƣợc phát kiến, những mô hình canh tác tổng
hợp mới nhất để giảm giá thành. Đó là những công nghệ mới về chăn nuôi,
những kiến thức sâu về sinh thái để quản lý sâu hại và thiên địch.
Theo Lê Văn Khoa [15], để phát triển nông nghiệp bền vững cũng phải
loại bỏ ý nghĩ đơn giản rằng sản xuất nông nghiệp công nghiệp hoá sẽ đầu tƣ
từ bên ngoài vào. Phạm Chí Thành [40] cho rằng, có 3 điều kiện để tạo ra nền
nông nghiệp bền vững đó là công nghệ bảo tồn tài nguyên, những tổ chức từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
10
bên ngoài và những tổ chức từ các nhóm địa phƣơng. Tác giả cho rằng xu thế
phát triển nông nghiệp bền vững đƣợc các nƣớc phát triển khởi xƣớng đã trở
thành đối tƣợng để các nƣớc đang phát triển nghiên cứu theo hƣớng kế thừa,
chắt lọc các tinh tuý của các nền nông nghiệp, chứ không chạy theo cái hiện
đại mà bác bỏ những cái truyền thống. Trong sản xuất nông nghiệp bền vững
vấn đề chọn cây gì, con gì trong một hệ sinh thái tƣơng ứng không thể áp đặt
theo ý muốn chủ quan mà phải điều tra, nghiên cứu để hiểu biết thiên nhiên.
Không có ai hiểu biết hệ sinh thái nông nghiệp ở một vùng bằng chính
những ngƣời sinh ra và lớn lên ở đó. Vì vậy, xây dựng nền nông nghiệp bền
vững cần phải có sự tham gia của nông dân trong vùng nghiên cứu. Phát triển
bền vững là việc quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, định hƣớng thay
đổi các công nghệ và thể chế theo một phƣơng thức sao cho đạt đến sự thoả
mãn một cách liên tục những nhu cầu của con ngƣời thế hệ hôm nay và mai
sau [43].
Fetry [43] cho rằng phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp
chính là sự bảo tồn đất, nƣớc, các nguồn động và thực vật không bị suy thoái,
kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận đƣợc về mặt xã hội. FAO đã
đƣa ra các chỉ tiêu cụ thể trong nông nghiệp bền vững là:
- Thoả mãn nhu cầu lƣơng thực cơ bản của các thế hệ hiện tại và tƣơng
lai về số lƣợng và chất lƣợng và các sản phẩm nông nghiệp khác.
- Cung cấp lâu dài việc làm, thu nhập và điều kiện sống, điều kiện làm
việc tốt cho mọi ngƣời trực tiếp làm nông nghiệp.
- Duy trì và chỗ nào có thể, tăng cƣờng khả năng sản xuất của tài nguyên
thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các tài nguyên tái tạo đƣợc mà không
phá vỡ bản sắc văn hoá xã hội của các cộng đồng sống ở nông thôn, hoặc
không gây ô nhiễm môi trƣờng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
11
- Giảm thiểu khả năng bị tổn thƣơng trong nông nghiệp, củng cố lòng tin
trong nông dân [28].
Năm 1992, thế giới kỷ niệm 20 năm thành lập chƣơng trình Bảo vệ môi
trƣờng của Liên hợp quốc (UNEP), lần đầu tiên hội nghị thƣợng đỉnh về môi
trƣờng và phát triển đã họp tại Rio De Janerio, Brazin (gọi tắt là Rio – 92),
định hƣớng cho các quốc gia, các tổ chức quốc tế chiến lƣợc về môi trƣờng và
phát triển bền vững để bƣớc vào thế kỉ 21 [35]. Trong bối cảnh đó, quan điểm
sử dụng đất bền vững đã đƣợc triển khai trên thế giới.
Các nguyên tắc sử dụng đất bền vững:
Theo Smith và Dumanski [41] sử dụng đất bền vững phải tuân theo 5
nguyên tắc:
- Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất (năng suất).
- Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất (an toàn).
- Bảo vệ tiềm năng các nguồn tài nguyên tự nhiên chống lại sự thoái hoá
đối với chất lƣợng đất và nƣớc (bảo vệ).
- Khả thi về mặt kinh tế (tính khả thi).
- Đƣợc sự chấp nhận của xã hội (sự chấp nhận).
5 nguyên tắc nêu trên đƣợc coi là những trụ cột của sử dụng đất đai
bền vững và là những mục tiêu cần phải đạt đƣợc. Nếu thực tế diễn ra
đồng bộ so với các mục tiêu trên thì khả năng bền vững sẽ đạt đƣợc. Nếu
chỉ đạt một hay một vài mục tiêu mà không phải tất cả thì khả năng bền
vững chỉ mang tính bộ phận.
Mollison B. và Holmgren D. tác giả của hai cuốn sách Permaculture One
(1978) và Permaculture Two (1994) [5] đã đề xuất học thuyết về phát triển
nông nghiệp bền vững, đồng thời cho triển khai ở Australia và một số nƣớc
trên thế giới. Theo Mollison B, nông nghiệp bền vững là một hệ thống thiết kế
để chọn môi trƣờng bền vững cho con ngƣời, liên quan đến cây trồng, vật
nuôi, các công trình xây dựng và hạ tầng cơ sở (nƣớc, năng lƣợng, đƣờng xá).
Tuy vậy, nông nghiệp bền vững không hẳn là những yếu tố đó mà chính là
mối liên quan giữa các yếu tố do con ngƣời tạo ra, sắp đặt và phân bố chúng
trên bề mặt trái đất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
12
Mục tiêu của nông nghiệp bền vững là xây dựng một hệ thống ổn định về
mặt sinh thái, có tiềm lực kinh tế, có khả năng thoả mãn những nhu cầu của con
ngƣời mà không bóc lột đất, không gây ô nhiễm môi trƣờng. Nông nghiệp bền
vững sử dụng những đặc tính vốn có của cây trồng, vật nuôi, kết hợp với đặc
trƣng của cảnh quan và cấu trúc trên diện tích đất sử dụng một cách thống nhất.
Nông nghiệp bền vững là một hệ thống mà nhờ đó con ngƣời có thể tồn tại
đƣợc, sử dụng nguồn lƣơng thực và tài nguyên phong phú của thiên nhiên mà
không liên tục huỷ diệt sự sống trên trái đất. Đạo đức của nông nghiệp bền
vững bao gồm 3 phạm trù: chăm sóc trái đất, chăm sóc con ngƣời và dành thời
gian, tài lực, vật lực vào các mục tiêu đó. Nông nghiệp bền vững là một hệ
thống nông nghiệp thƣờng trực, tự xây dựng bền vững, thích hợp cho mọi tình
trạng ở đô thị và nông thôn với mục tiêu đạt đƣợc sản lƣợng cao, giá thành hạ,
kết hợp tối ƣu giữa sản xuất cây trồng, cây rừng, vật nuôi, các cấu trúc và hoạt
động của con ngƣời.
Gần đây xuất hiện khuynh hƣớng “nông nghiệp hữu cơ”, chủ trƣơng
dùng máy cơ khí nhỏ và sức kéo gia súc, sử dụng rộng rãi phân hữu cơ, phân
xanh, phát triển cây họ đậu trong hệ thống luân canh cây trồng, hạn chế sử
dụng các loại hoá chất để phòng trừ sâu bệnh.
Anbert K. và Voisin A. đã hình thành trƣờng phái “Nông nghiệp sinh
học”, bác bỏ việc sản xuất và sử dụng nhiều loại phân hoá học vì nhƣ thế sẽ
ảnh hƣởng đến chất lƣợng nông sản và sức khoẻ ngƣời tiêu dùng.
Theo Đỗ Ánh [1], Phần Lan đã đƣa ra thị trƣờng những sản phẩm nông
nghiệp sản xuất theo “Green way” hoàn toàn không dùng phân hoá học.
ở Việt Nam đã hình thành nền văn minh lúa nƣớc hàng ngàn năm nay, có
thể coi là một mô hình nông nghiệp bền vững ở vùng đồng bằng, thích hợp trong
điều kiện thiên nhiên ở nƣớc ta. Trong những năm gần đây, nhiều mô hình VAC
(vƣờn - ao - chuồng), mô hình nông - lâm kết hợp trên đất đồi thực chất là những
kinh nghiệm truyền thống đƣợc đúc rút ra đƣợc từ quá trình đấu tranh lâu dài, bền
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
13
vững với thiên nhiên khắc nghiệt của con ngƣời để tồn tại và phát triển. Thực chất
của nông nghiệp bền vững là phải thực hiện đƣợc khâu cơ bản là giữ độ phì nhiêu
của đất đƣợc lâu bền. Độ phì nhiêu của đất là tổng hoà của nhiều yếu tố vật lý, hoá
học và sinh vật học để tạo ra môi trƣờng sống thuận lợi nhất cho cây trồng tồn tại
và phát triển.
2.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.1.4.1. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên (đất, nƣớc, khí hậu, thời tiết, địa hình, thổ nhƣỡng...)
có ảnh hƣởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp, các yếu tố này là tài nguyên
để sinh vật tạo nên sinh khối. Vì vậy, khi xác định vùng sản xuất nông nghiệp
cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên, trên cơ sở đó xác định cây trồng vật
nuôi chủ lực phù hợp, định hƣớng đầu tƣ thâm canh đúng.
Theo N.Borlang ngƣời đƣợc giải Nobel về giải quyết lƣơng thực cho
các nƣớc đang phát triển cho rằng, yếu tố duy nhất, quan trọng nhất, hạn chế
năng suất cây trồng ở tầm cỡ thế giới trong các nƣớc đang phát triển, đặc biệt
đối với nông dân thiếu vốn là độ phì đất.
2.1.4.2. Nhóm các yếu tố kinh tế, kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là các tác động của con ngƣời vào đất đai,
cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của các quá trình
sản xuất để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những
tác động thể hiện sự hiểu biết sâu sắc về đối tƣợng sản xuất, về thời tiết, về
điều kiện môi trƣờng và thể hiện những dự báo thông minh và sắc sảo. Lựa
chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng đầu vào
nhằm đạt các mục tiêu sử dụng đất đề ra. Theo Frank Ellis và Douglass C.
North [34], ở các nƣớc phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ thuật, giống
mới, thuỷ lợi, phân bón, tƣới tiêu thì cũng đặt ra yêu cầu mới đối với tổ chức
sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ là một đảm bảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
14
vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trƣởng nhanh. Cho đến giữa thế kỷ 21,
quy trình kỹ thuật có thể góp phần đến 30% của năng suất kinh tế, trong nền
nông nghiệp nƣớc ta. Nhƣ vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình khai thác đất đai theo chiều sâu và nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
2.1.4.3. Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức
- Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất:
Thực hiện phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa vào điều kiện tự nhiên
(khí hậu, địa hình, tính chất đất, khả năng thích hợp của cây trồng đối với đất,
nguồn nƣớc và thực vật) làm cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng, vật nuôi
hợp lý, nhằm khai thác đất đai một cách đầy đủ, hợp lý, tạo điều kiện thuận
lợi để đầu tƣ thâm canh và tiến hành tập trung hóa, chuyên môn hoá, hiện đại
hoá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
- Hình thức tổ chức sản xuất:
Cần phát huy thế mạnh của các loại hình tổ chức sử dụng đất trong từng cơ
sở sản xuất, thực hiện đa dạng hoá các hình thức hợp tác trong nông nghiệp, xác lập
một hệ thống tổ chức sản xuất phù hợp và giải quyết tốt mối quan hệ giữa các hình
thức đó.
2.1.4.4. Nhóm các yếu tố xã hội
Nhóm yếu tố này bao gồm :
- Hệ thống thị trƣờng và sự hình thành thị trƣờng đất nông nghiệp, thị
trƣờng nông sản phẩm. Ba yếu tố chủ yếu ảnh hƣởng đến hiệu quả sử dụng
đất là: năng suất cây trồng, hệ số quay vòng đất và thị trƣờng cung cấp đầu
vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra. (Nguyễn Duy Tính, 1995) [27].
- Hệ thống chính sách.
- Sự ổn định chính trị- xã hội và các chính sách khuyến khích đầu tƣ
phát triển sản xuất nông nghiệp của Nhà nƣớc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
15
- Những kinh nghiệm, tập quán sản xuất nông nghiệp, trình độ năng lực
của các chủ thể kinh doanh, trình độ đầu tƣ.
2.1.5. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.1.5.1. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả
Việc nâng cao hiệu quả là mục tiêu chung, chủ yếu xuyên suốt mọi quá
trình sản xuất của xã hội. Tuỳ theo nội dung của hiệu quả mà có những tiêu
chuẩn đánh giá hiệu quả khác nhau ở mỗi thời kỳ phát triển KT - XH khác
nhau. Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là một vấn đề phức tạp và có nhiều ý
kiến chƣa thống nhất. Tuy nhiên, đa số các nhà kinh tế đều cho rằng tiêu chuẩn
cơ bản và tổng quát khi đánh giá hiệu quả là mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội và
sự tiết kiệm lớn nhất về chi phí và tiêu hao các nguồn tài nguyên, sự ổn định
lâu dài của hiệu quả.
Trên cơ sở đó, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có
thể xem xét ở các mặt sau:
+ Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả đối với toàn xã hội là khả năng thoả
mãn nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng cho xã hội bằng của cải vật chất sản
xuất ra. Đối với nông nghiệp, tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là mức đạt
đƣợc các mục tiêu KT - XH, môi trƣờng do xã hội đặt ra nhƣ tăng năng suất
cây trồng, vật nuôi, tăng chất lƣợng và tổng sản phẩm hƣớng tới thoả mãn tốt
nhu cầu nông sản cho thị trƣờng trong nƣớc và xuất khẩu, đồng thời đáp ứng
yêu cầu bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.
+ Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có đặc thù riêng, trên 1
đơn vị đất nông nghiệp nhất định có thể sản xuất đạt đƣợc những kết quả cao
nhất với chi phí bỏ ra ít nhất, ảnh hƣởng ít nhất tới môi trƣờng. Đó là phản
ánh kết quả quá trình đầu tƣ sử dụng các nguồn lực thông qua đất, cây trồng,
thực hiện quá trình sinh học để tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của
thị trƣờng xã hội với hiệu quả cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
16
+ Các tiêu chuẩn đó đƣợc xem xét với việc ứng dụng lý thuyết sản xuất
cơ bản theo nguyên tắc tối ƣu hoá có ràng buộc. Sử dụng đất phải đảm bảo
cực tiểu hoá chi phí các yếu tố đầu vào, theo nguyên tắc tiết kiệm khi cần sản
xuất ra một lƣợng nông sản nhất định, hoặc thực hiện cực đại hoá lƣợng nông
sản khi có một lƣợng nhất định đất nông nghiệp và các yếu tố đầu vào khác.
+ Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có ảnh hƣởng đến hiệu quả sản xuất
nông nghiệp, đến hệ thống môi trƣờng, đến những ngƣời lao động ngành nông
nghiệp. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất phải theo quan điểm sử dụng đất
bền vững hƣớng vào 3 tiêu chuẩn chung nhƣ sau:
* Bền vững về mặt kinh tế.
Loại cây trồng nào cho hiệu quả kinh tế cao, phát triển ổn định thì đƣợc
thị trƣờng chấp nhận. Do đó, phát triển sản xuất nông nghiệp là thực hiện tập
trung, chuyên canh kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm.
Hệ thống sử dụng đất phải có mức năng suất sinh học cao trên mức
bình quân vùng có cùng điều kiện đất đai. Năng suất sinh học bao gồm các
sản phẩm chính và phụ (đối với cây trồng là gỗ, củi, hạt, củ, quả,... và tàn dƣ
để lại). Một hệ thống nông nghiệp bền vững phải có năng suất trên mức bình
quân vùng, nếu không sẽ không cạnh tranh đƣợc trong cơ chế thị trƣờng. Mặt
khác, chất lƣợng sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa phƣơng, trong
nƣớc và hƣớng tới xuất khẩu tuỳ theo mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thƣớc đo quan trọng nhất
của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một
giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nếu dƣới mức của
vùng thì nguy cơ ngƣời sử dụng đất sẽ không có lãi, hiệu quả vốn đầu tƣ phải
lớn hơn lãi suất tiền vay vốn ngân hàng.
* Bảo vệ môi trƣờng:
Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ đƣợc độ phì đất, ngăn ngừa sự thoái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
17
hoá đất, bảo vệ môi trƣờng sinh thái. Độ phì nhiêu của đất tăng dần là yêu cầu
bắt buộc đối với việc quản lý và sử dụng đất nông nghiệp bền vững. Độ che
phủ phải đạt ngƣỡng an toàn sinh thái (>35%). Đa dạng sinh học biểu hiện
qua thành phần loài (đa canh bền vững hơn độc canh,...).
* Bền vững về mặt xã hội:
Thu hút đƣợc nguồn lao động trong nông nghiệp, tăng thu nhập, tăng
năng suất lao động, đảm bảo đời sống xã hội. Đáp ứng đƣợc các nhu cầu của
nông hộ là điều cần quan tâm trƣớc tiên nếu muốn họ quan tâm đến lợi ích lâu
dài (bảo vệ đất, môi trƣờng,..). Sản phẩm thu đƣợc phải thỏa mãn cái ăn, cái
mặc và nhu cầu hàng ngày của ngƣời nông dân. Đảm bảo sự hợp tác trong sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm, trong cung cấp tƣ liệu sản xuất, xử lý chất thải có
hiệu quả.
2.1.5.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Xác định chỉ tiêu đánh giá đúng sẽ định hƣớng phát triển sản xuất và
đƣa ra các quyết định phù hợp để tăng nhanh hiệu quả sử dụng đất.
- Cơ sở để lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp:
+ Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
+ Nhu cầu của địa phƣơng về phát triển hoặc thay đổi loại hình sử dụng
đất nông nghiệp.
+ Các khả năng về điều kiện tự nhiên, KT-XH và các tiến bộ kỹ thuật
mới đề xuất cho các thay đổi sử dụng đất đó.
- Nguyên tắc lựa chọn chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp:
+ Hệ thống chỉ tiêu phải có tính thống nhất, tính toàn diện và tính hệ
thống. Các chỉ tiêu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính so
sánh có thang bậc.
+ Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các chỉ tiêu chính,
các chỉ tiêu cơ bản, biểu hiện mặt cốt yếu của hiệu quả theo quan điểm và tiêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
18
chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu chính, làm cho nội
dung kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn.
+ Hệ thống chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật
và đúng đắn nhất theo tiêu chuẩn và quan điểm đã vạch ra ở trên để soi sáng
sự lựa chọn các giải pháp tối ƣu và phải gắn với cơ chế quản lý kinh tế, phù
hợp với đặc điểm và trình độ hiện tại của nền kinh tế.
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông
nghiệp ở nƣớc ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối
ngoại nhất là những sản phẩm có khả năng xuất khẩu.
+ Phải có tác dụng kích thích sản xuất phát triển.
Dựa trên cơ sở khoa học của hiệu quả, yêu cầu nghiên cứu hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi lựa chọn
các chỉ tiêu sau:
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế:
Có hai cách đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất biểu hiện bằng hai hệ
thống chỉ tiêu sau:
- Cách thứ nhất: hiệu quả kinh tế sử dụng đất phải tính đƣợc các chỉ tiêu:
+ Giá trị sản xuất (GO - Gross Output): là giá trị toàn bộ sản phẩm sản
xuất ra trong kỳ sử dụng đất (một vụ, một năm, tính cho từng cây trồng và có
thể tính cho cả công thức luân canh hay hệ thống sử dụng đất)
+ Chi phí trung gian (IC - Intermediate Cost): Là toàn bộ chi phí vật
chất và dịch vụ sản xuất qui ra tiền sử dụng trực tiếp cho quá trình sử dụng
đất (giống, phân bón, thuốc hoá học, dụng cụ, nhiên liệu, nguyên liệu).
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả:
+ Giá trị gia tăng (VA - Value Added): Là giá trị sản phẩm vật chất mới
tạo ra trong qúa trình sản xuất, trong một năm hoặc một chu kỳ sản xuất, đƣợc
xác định bằng giá trị sản xuất trừ chi phí trung gian.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -