Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng th...

Tài liệu Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng thông mã vĩ ở lục ngạn - bắc giang làm cơ sở chuyển hoá rừng thông thuần loài thành rừng hỗn loài bền vững

.PDF
84
496
65

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM -------------------------------- LÊ ĐẮC THẮNG ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY BẢN ĐỊA TRỒNG DƢỚI TÁN RỪNG THÔNG Mà VĨ (Pinus massoniana Lamb) Ở LỤC NGẠN - BẮC GIANG LÀM CƠ SỞ CHUYỂN HOÁ RỪNG THÔNG THUẦN LOÀI THÀNH RỪNG HỖN LOÀI BỀN VỮNG LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP THÁI NGUYÊN - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM -------------------------------- LÊ ĐẮC THẮNG ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SINH TRƢỞNG CỦA MỘT SỐ LOÀI CÂY BẢN ĐỊA TRỒNG DƢỚI TÁN RỪNG THÔNG Mà VĨ (Pinus massoniana Lamb) Ở LỤC NGẠN - BẮC GIANG LÀM CƠ SỞ CHUYỂN HOÁ RỪNG THÔNG THUẦN LOÀI THÀNH RỪNG HỖN LOÀI BỀN VỮNG Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC T.S Nguyễn Huy Sơn THÁI NGUYÊN - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 ĐẶT VẤN ĐỀ Tính đến 31/12/2009, tổng diện tích rừng nƣớc ta đã tăng lên hơn 13 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên chiếm hơn 10,34 triệu ha và rừng trồng 2,92 triệu ha, độ che phủ của rừng tăng lên 39,1% [1]. Tuy diện tích cũng nhƣ độ che phủ của rừng tăng lên khá rõ nhƣng chất lƣợng của rừng còn thấp, phần lớn rừng tự nhiên là rừng nghèo kiệt, trữ lƣợng thấp dƣới 90m3/ha, những loài cây gỗ có giá trị kinh tế còn lại rất ít, khả năng tái sinh kém, tăng trƣởng rất chậm, bình quân mỗi năm đạt 3 - 4m3/năm [17]. Rừng trồng hiện nay chủ yếu là rừng trồng thuần loài với các loài cây ƣa sáng mọc nhanh nhƣ Thông, Keo, Bạch đàn..., do trồng thuần loài nên gần đây đã xuất hiện dịch sâu, bệnh hại hàng loạt nhƣ dịch sâu róm và bệnh tuyến trùng ở Thông, bệnh đốm và cháy lá ở Bạch đàn và bệnh phấn hồng ở Keo.... Đặc biệt, đối với loài Thông thì việc trồng rừng thuần loài đã chứng tỏ không bền vững, thƣờng xuyên bị sâu bệnh hại mà điển hình là sâu róm Thông đã xảy ra ở nhiều nơi trong những năm vừa qua. Để phát triển rừng theo hƣớng bền vững, đa dạng hoá nguồn sản phẩm từ việc trồng nhiều cây gỗ có giá trị khác nhau, hạn chế đƣợc sự bùng phát dịch bệnh, cải thiện môi trƣờng sinh thái, việc gây trồng một số loài cây bản địa dƣới tán rừng Thông nhằm chuyển hoá rừng Thông thuần loài thành hỗn loài bền vững là cần thiết. Dự án trồng rừng Việt - Đức đã đƣợc đầu tƣ ở nhiều nơi, trong đó có Lục Ngạn - Bắc Giang, đã trồng đƣợc là 3.313,48 ha [2] nhƣng chủ yếu là trồng thuần loài Thông mã vĩ (Pinus massoniana) và trồng hỗn loài Thông mã vĩ (Pinus massoniana) với Keo lá tràm (A.auriculifomis), sau 5 - 7 năm chặt Keo lá tràm trở thành rừng Thông thuần loài. Chính vì vậy, với mục tiêu xây dựng các mô hình rừng trồng hỗn loài giữa Thông mã vĩ với các loài cây lá rộng bản địa để phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trƣờng sinh thái ở các địa phƣơng thực hiện dự án là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 một chủ trƣơng đúng đắn. Dự án đã tiến hành trồng một số loài cây bản địa nhƣ Lim xanh (Erythrophleum fordii), Trám trắng (Canarium album), Re gừng (Cinamomum ilcidioides), Sồi phảng (Lithocarpus fissus), Giẻ cau (Quecus platycalyx), Kh¸o vµng (Machilus bonii). Kết quả bƣớc đầu cho thấy các loài cây này đã tỏ ra sinh trƣởng khá tốt dƣới tán rừng Thông mã vĩ. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đặt ra, việc “Đánh giá khả năng sinh trưởng của một số loài cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ ở Lục Ngạn - Bắc Giang làm cơ sở chuyển hoá rừng Thông thuần loài thành rừng hỗn loài bền vững” là cần thiết và cấp bách, có ý nghĩa cả khoa học và thực tế sản xuất hiện nay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Chƣơng 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. TRÊN THẾ GIỚI 1.1.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài Kết quả nghiên cứu ở nhiều nƣớc trên thế giới cho thấy rừng trồng thuần loài đã bộc lộ nhiều nhƣợc điểm. Vì vậy, các nhà khoa học trên thế giới đã quan tâm nghiên cứu xây dựng các mô hình rừng trồng hỗn loài nhằm kinh doanh rừng theo hƣớng bền vững, nhất là trong giai đoạn biến đổi khí hậu toàn cầu hiện nay. Nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài đã đƣợc các nƣớc Châu Âu tiến hành từ những năm đầu thế kỷ 19. Điển hình là công trình nghiên cứu của Tikhanop (1872), tác giả đã sử dụng 2 loài cây là: Quercus sp và Ulmus campestris với kiểu hỗn loài có tên gọi là Donsk. Tuy nhiên, sự phối hợp giữa hai loài cây này có phù hợp với nhau hay không thì chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu, do đó loài Ulmus campestris với đặc tính sinh trƣởng nhanh hơn nên sau khi trồng vài năm đã lấn át loài Quercus sp. Để giải quyết mối quan hệ này, Polianxki (1884) đã cải tiến kiểu hỗn loài Donsk, song vẫn chƣa thành công [15]. Một số tác giả khác nhƣ Kharitonovis (1950); Grixenco (1951); Timofeev (1951); Encova (1960) và các cộng sự đã phân tích nguyên nhân thất bại của kiểu Donsk và chỉ ra rằng các Phitonxit của loài Ulmus campestris đã tác động xấu tới loài cây Quercus sp nên chúng sinh trƣởng rất kém. Nghiên cứu về ảnh hƣởng tƣơng hỗ giữa các loài, các tác giả cho rằng sự cảm nhiễm tƣơng hỗ là yếu tố quan trọng khi lý giải cơ chế cạnh tranh sinh học của thực vật [28]. Trên cơ sở nghiên cứu tạo rừng hỗn loài giữa Quercus sp và Fraxnus sp, JB.Ball, T.J Wormald (1994) cho thấy sinh trƣởng của Quercus sp trồng hỗn loài tốt hơn Quercus sp trồng thuần loài. Ngoài ra, khi trồng Quercus sp hỗn loài với các loài cây khác theo băng hẹp (3 - 4 hàng) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 hoặc theo hàng cũng thấy Quercus sp sinh trƣởng tốt hơn khi trồng thuần loài [29]. Ở Kasma Forest Technology Centre (Nhật Bản) [27] đã thiết lập hàng loạt các mô hình rừng nhiều tầng tán bao gồm nhiều loài cây và ở nhiều cấp tuổi, trồng ở một số mật độ khác nhau, đặc biệt ở vùng Tsucuba với độ cao dƣới 876m so với mực nƣớc biển đã trồng loài cây Tuyết tùng (Japanese ceder) để tạo ra các lâm phần bền vững có giá trị, các nhà nghiên cứu ở đây nhận thấy có ảnh hƣởng lẫn nhau giữa các loài cây khi trồng rừng hỗn giao với nhau và ảnh hƣởng của môi trƣờng tới từng loài cây trồng. Khi nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài, các tác giả trên đều cho rằng việc bố trí các loài cây trong mô hình rừng trồng hỗn loài thƣờng có ảnh hƣởng khá rõ tới sinh trƣởng của chúng tuỳ theo đặc điểm từng loài và cự ly trồng từng cá thể. Đặc điểm nổi bật của rừng hỗn loài là có kết cấu nhiều tầng tán. Vì thế nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng đã đƣợc một số nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Khi nghiên cứu về cấu trúc tầng tán của lâm phần hỗn loài, Bernar Dupuy (1995) đã cho thấy rằng kết cấu tầng tán của rừng trồng hỗn loài phụ thuộc vào đặc điểm sinh trƣởng và tính hợp quần của các loài cây trong lâm phần [25]. Điều này cho thấy để tạo đƣợc các mô hình rừng trồng hỗn loài có cấu trúc hợp lý, tận dụng đƣợc tối đa không gian dinh dƣỡng thì cần phải dựa vào đặc điểm sinh thái cũng nhƣ phải quan tâm đến mối quan hệ qua lại giữa các loài cây để lựa chọn các loài cây trồng cho phù hợp. Đây là những cơ sở quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của các mô hình rừng trồng hỗn loài. Ở Malaysia (1999) đã nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng bằng nhiều phƣơng thức khác nhau. Tuỳ theo các đối tƣợng khác nhau là rừng tự nhiên hay rừng trồng Keo tai tƣợng (Acacia mangium) 10 - 15 tuổi hoặc rừng trồng Keo tai tƣợng 2 - 3 tuổi mà mở các băng chặt và băng chừa khác nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Chiều rộng băng chặt và chừa từ 6m (chặt 1 hàng) đến 60m (chặt 20 hàng). Thời gian đƣa các loài cây bản địa vào trồng hỗn loài trong các băng chặt cũng rất khác nhau, từ 1 - 7 năm sau khi mở băng chặt. Các loài cây bản địa đƣa vào trồng trong các băng chặt tƣơng đối phong phú, từ 14- 23 loài cây khác nhau với số hàng từ 3 đến 16 hàng. Kết quả cho thấy các loài cây bản địa đƣợc trồng trong các băng có 3 loài cây khả năng sinh trƣởng chiều cao và đƣờng kính tốt nhất là Shorea roxburrghii; Shorea ovalis; Shorea leprosula. Sinh trƣởng chiều cao của các loài cây trồng trong băng 10m và 40m tốt hơn băng 20m. Khu trồng theo băng có sinh trƣởng chiều cao tốt nhất ở công thức trồng 1 hàng Keo xen 1 hàng cây bản địa. Kết quả nghiên cứu này còn đƣa ra khuyến nghị điều chỉnh quá trình sinh trƣởng của các mô hình thí nghiệm theo 8 thời điểm từ 2 - 47 năm sau khi trồng [30]. Nhƣ vậy, đây là một trong những công trình nghiên cứu tạo rừng hỗn loài ở nƣớc ngoài tƣơng đối toàn diện về các biện pháp kỹ thuật, từ việc chọn loài cây trồng đến nghiên cứu phƣơng thức trồng, thời điểm trồng và sự điều chỉnh mô hình theo quá trình sinh trƣởng trong thời gian dài. Do đó những mô hình thí nghiệm này hứa hẹn nhiều thành công trong tƣơng lai và có thể áp dụng mở rộng trong sản xuất. Qua những nghiên cứu trên cho thấy cây bản địa đã đƣợc nhiều tác giả quan tâm và đã đƣợc lựa chọn để trồng rừng, về phƣơng thức trồng có thể trồng theo băng hoặc theo đám để tận dụng không gian dinh dƣỡng, các nghiên cứu về ảnh hƣởng lẫn nhau khi trồng rừng hỗn giao. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chƣa đề cập đến ảnh hƣởng của độ tàn che của tầng cây cao đến sinh trƣởng của loài cây khác trồng dƣới tán. Chính vì vậy, việc nghiên cứu ảnh hƣởng của độ tàn che đến sinh trƣởng của cây bản địa trồng dƣới tán và biện pháp gây trồng một số loài cây bản địa là cần thiết, đặc biệt đối với loài cây bản địa tại Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 1.1.2. Những nghiên cứu về rừng Thông thuần loài Nghiên cứu rừng Thông thuần loài cũng đã đƣợc nhiều tác giả trên thế giới quan tâm và đã đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác nhau, điển hình một số công trình nghiên cứu sau: Bolstad và cộng sự (1988) [24] cũng đã tìm thấy một vài loại phân bón mang lại hiệu quả tích cực cho rừng trồng thông P. caribeae ở Colombia nhƣ potassium, phosphate, boron và magnesium. Khi nghiên cứu phân bón cho trồng rừng thông P. caribeae ở Cu ba, Herrero và cộng sự (1988) [26] cũng cho thấy bón phosphate nâng cao sản lƣợng rừng từ 56 lên 69m3/ha sau 13 năm trồng. Ở Thái Lan từ năm 1969 – 1974 ngƣời ta đã nghiên cứu ảnh hƣởng của đất, phân bón và kỹ thuật lâm sinh đến khả năng sinh trƣởng của loài Thông nhựa kết quả cho thấy điều kiện lập địa, phân bón và kỹ thuật trồng có ảnh tới khả năng sinh trƣởng loài cây Thông nhựa [31]. Ở Swaziland cũng đã chọn đƣợc giống Pinus patuna sau 15 năm tuổi trồng thuần loài đạt 19m3/ha/năm [32]. Điểm qua một vài công trình nghiên cứu trên cho thấy các công trình nghiên cứu chủ yếu tập chung vào vấn đề ảnh hƣởng của phân bón và điều kiện lập địa nhằm nâng cao năng xuất chất lƣợng rừng Thông trồng thuần loài. Các nghiên cứu trên chƣa đề cập tới việc phối hợp các loài Thông với cây trồng khác, đặc biệt là trồng một số loài cây bản địa dƣới tán rừng Thông. 1.2. Ở VIỆT NAM 1.2.1. Những nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa Ở Việt Nam, vấn đề trồng rừng hỗn loài đã đƣợc các nhà khoa học quan tâm từ rất sớm, điển hình là công trình nghiên cứu của Maurand (ngƣời Pháp) ở Đồng Nai vào những năm 30 của thế kỷ trƣớc, tác giả đã sử dụng các loài Sao đen (Hopea odorata), Dầu rái (Dipterocarpus alatus) và Vên vên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 (Anisoptera costata) để xây dựng các mô hình trồng rừng hỗn loài, cho đến nay các mô hình này vẫn còn giá trị tham khảo nhất định. Trong giai đoạn 1930-1980 có rất ít các công trình nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài và nghiên cứu chọn loài cây trồng cũng chỉ tập trung cho một số loài cây thuộc họ Dầu. Từ năm 1985 đến nay, việc nghiên cứu trồng rừng hỗn loài bằng các loài cây bản địa đƣợc triển khai nhiều hơn kể cả số lƣợng loài cây và diện tích rừng trồng. Trong giai đoạn này nhiều loài cây lá rộng bản địa đã đƣợc lựa chọn để nghiên cứu cho các vùng sinh thái trong cả nƣớc. Các loài cây lá rộng bản địa đƣợc lựa chọn để nghiên cứu trồng rừng hỗn loài chủ yếu là các loài có giá trị kinh tế cao. Một số loài cây bản địa đƣợc lựa chọn cho vùng Tây nguyên và Nam bộ nhƣ: Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Cẩm lai (Dalbergia oliveri), Căm xe (Xylia xylocarpa), Tếch (Tectona grandis) ... và đƣợc trồng chủ yếu tại các trạm thực nghiệm Trảng Bom tỉnh Đồng Nai, Lang Lanh và Măng Linh tỉnh Lâm Đồng, Ekmat tỉnh Đắc Lắc, Tân Tạo Thành Phố Hồ Chí Minh. Ở miền Bắc, các loài cây chủ yếu đƣợc lựa chọn để trồng rừng hỗn loài là Lim xanh (Erythurophleum fordii), Lim xẹt (Peltophorum tonkinnensis), Giổi xanh (Mechelia mediocris), Re gừng (Cinamomum ilcidioides), Mỡ (Manglietia conifera), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Lát hoa (Chukrasia tabularis), Ràng ràng mít (Ormosia balansae), Xoan đào (Prunus arborea), Vạng trứng (Endospermum chinense) ... Nguyễn Bá Chất (1995) [4], khi nghiên cứu rừng phục hồi ở Sông Hiếu (1981 - 1985) đã thí nghiệm gây trồng rừng hỗn loài Lát hoa (Chukrasia tabularis) với các loài cây bản địa lá rộng khác nhƣ: Lim xẹt (Peltophorum tonkinnensis), Giổi (Michelia sp), Thôi chanh (Evodia bodinieri), Lõi thọ (Gmelia arbores) ... nhằm tạo ra cấu trúc hợp lý. Sau 10 năm, kết quả cho thấy Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn khi trồng thuần loài ... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 Trần Ngũ Phƣơng (2000) [23] cũng đã nghiên cứu xây dựng các mô hình trồng rừng hỗn loài tạo ra rừng nhiều tầng tán nhằm mục đích cho phòng hộ và sản xuất thông qua các phƣơng thức hỗn loài khác nhau nhƣ hỗn loài giữa cây cao với cây bụi, hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Căn cứ kết quả của các công trình nghiên cứu các quy luật chủ yếu ở rừng tự nhiên ở miền Bắc Việt Nam, tác giả đã chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nƣớc ta đều phân thành nhiều tầng, từ 2 đến 3 tầng cây gỗ chƣa kể tầng cây nhỡ và thảm tƣơi. Dựa trên quy luật đó tác giả đã đề xuất mô hình trồng rừng hỗn loài đáp ứng mục tiêu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó có 2 mô hình hỗn loài nổi bật là mô hình rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và rừng sản xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng. Một thí nghiệm trồng rừng hỗn loài khác là trồng theo đám ở Trƣờng đại học Lâm nghiệp (Phạm Xuân Hoàn, 2004) [11], đã sử dụng 165 loài cây bản địa trồng dƣới tán của Thông và Keo, trong đó dƣới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus massoniana) là 27 loài, dƣới tán rừng Keo lá tràm (Acacia auriculifomis) là 21 loài, số còn lại trồng dƣới tán của trạng thái rừng hỗn giao Thông mã vĩ với Keo lá tràm, Thông mã vĩ với Keo tai tƣợng, Bạch đàn ... tỉ lệ sống của các loài cây bản địa dƣới tán rừng Thông đƣợc đánh giá đạt 93,2% và dƣới tán rừng Keo đạt 91,2%. Tăng trƣởng thƣờng xuyên và tăng trƣởng bình quân của cây bản địa có sự phân hoá khác nhau khá rõ ràng ở các loài. Đặc biệt, đáng chú ý một số loài thƣờng đƣợc đánh giá sinh trƣởng chậm nhƣ: Re hƣơng (Cinnammomun inners), Lim xanh (Erythurophleum fordii)... nhƣng ở giai đoạn còn nhỏ có khả năng chịu bóng tốt dƣới tán rừng Thông, Keo lại sinh trƣởng tốt và rất có triển vọng. Mô hình trồng rừng hỗn loài Keo trắng (Paraserianthes falcataria) và Lõi thọ (Gmelia arboria) ở Lƣơng Sơn – Hoà Bình cũng đã đƣợc Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) [18] nghiên cứu và kết quả cho thấy sau nƣơng rẫy, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 có độ dốc từ 150 đến 200, trồng hỗn giao theo băng, cả Keo trắng và Lõi thọ đều sinh trƣởng tốt, chƣa thấy xuất hiện sâu bệnh hại và Lõi thọ hiện nay đã bắt đầu ra hoa và có thể chuyển hoá thành rừng giống. Xác định loài cây bản địa cho từng vùng sinh thái cũng là nội dung quan trọng trong xây dựng rừng hỗn loài. Ở Việt Nam nghiên cứu các loài cây bản địa cho mỗi vùng sinh thái cũng đã đƣợc một số tác giả quan tâm, một số công trình nghiên cứu điển hình có thể kể đến nhƣ sau: Phùng Ngọc Lan (1994) [12] nghiên cứu đặc tính của loài lim xanh (Erythurophleum fordii) đã xác nhận vùng phân bố của loài Lim xanh rất rộng có mặt hầu hết ở các tỉnh trong cả nƣớc với độ cao phân bố từ 900m trở xuống ở phía Nam và 500m trở xuống ở phía Bắc. Sinh trƣởng thích hợp ở đồi bát úp, độ dốc nhỏ hơn 200 hoặc ở chân đồi, chân núi dốc tụ. Theo Hoàng Hoè và Trần Xuân Thiệp (1999) thì ở nƣớc ta có khoảng 250 loài cây bản địa và nhập nội đã và đang đƣợc sử dụng để trồng rừng [19]. Nhƣ vậy, việc tạo lập các lâm phần rừng trồng nói chung và các lâm phần rừng trồng hỗn loài nói riêng ở nƣớc ta đã chọn ra đƣợc nhiều loài cây trồng phù hợp cho các vùng sinh thái trong cả nƣớc. Đó là cơ sở khoa học quan trọng cho việc xây dựng và nâng cao năng suất chất lƣợng rừng trồng ở nƣớc ta. Qua nhiều năm nghiên cứu, Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (2000) [21] đã đƣa ra trên 100 loài cây bản địa cho các chƣơng trình trồng rừng phục hồi cả 3 loại rừng là rừng sản xuất, phòng hộ và đặc dụng. Ngoài các công trình nghiên cứu đã nêu, Chƣơng trình 327, Dự án 661 cũng tạo ra nhiều mô hình trồng rừng hỗn loài với các loài cây bản địa lá rộng, trong đó chủ yếu là tạo rừng phòng hộ cho các vùng xung yếu trong cả nƣớc. Trong c¸c m« h×nh nµy hÇu hÕt ®Òu sö dông c¸c loµi c©y phï trî nhKeo tai t-îng (Acacia mangium), Keo L¸ trµm (Acacia auriculiformis), Keo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 lai (Acacia mangium x Acaccia auriculiformis), Muång ®en (Cassia siamea), víi tû lÖ hçn loµi lµ 600 c©y b¶n ®Þa vµ 1000 c©y phï trî/ha. Tuy nhiªn, viÖc ®iÒu chØnh t¸n che cña c¸c loµi c©y phï trî trong c¸c m« h×nh rõng trång hçn loµi ®· ch-a ®-îc quan t©m nghiªn cøu vµ ®iÒu chØnh kÞp thêi nªn c¸c loµi c©y trång chÝnh cã tû lÖ sống rất thÊp vµ th-êng sinh tr-ëng kém. §©y còng lµ tån t¹i chung cña hÇu hÕt các mô hình trong các dự án 327 và 661. Nghiên cứu phƣơng thức và phƣơng pháp hỗn loài cũng đang đƣợc nhiều tác giả quan tâm. Thực tế cho thấy các mô hình rừng trồng hỗn loài ở nƣớc ta đến nay chủ yếu là áp dụng theo phƣơng thức trồng rừng hỗn loài giữa cây cao với cây cao. Điển hình là thí nghiệm trồng rừng hỗn loài theo hàng giữa Mỡ (Manglietia conifera) với các loài cây Lim xanh (Erythurophleum fordii), Xà cừ (Khaya senegalensis), Tếch (Tectona grandis) [22]. Trong một công trình nghiên cứu khác trồng rừng gỗ lạng ở Tây Nguyên, Nguyễn Xuân Quát và cộng sự (1990) đã sử dụng cây Đậu tràm (Indigofera teysmanii) nhƣ là một cây phù trợ cho Tếch (Tectona grandis), kết quả cho thấy Tếch trồng xen với cây Đậu tràm giai đoạn đầu sinh trƣởng khá tốt, hình thân đẹp và thẳng, khả năng phân cành ít. Hơn nữa, cỏ dại dƣới tán rừng trồng cũng hạn chế phát triển hơn nơi Tếch trồng thuần loài [14]; Nghiên cứu tạo rừng hỗn loài giữa cây lá kim (Thông đuôi ngựa) và cây lá rộng (Keo lá tràm và Bạch đàn trắng) ở Núi Luốt - Xuân Mai của Phùng Ngọc Lan (1986) [13]; Nghiên cứu thiết lập rừng trồng hỗn loài giữa các loài cây ƣa sáng Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldu) và Keo lá tràm (Acaccia auriculiformis) của Nguyễn Hữu Vĩnh và các cộng tác viên (1991-1993) [20]. Hầu hết các công trình nghiên cứu này đều áp dụng phƣơng pháp trồng hỗn loài theo hàng hoặc theo băng. Các kết quả nghiên cứu của các công trình này cho thấy dù đƣợc xây dựng theo phƣơng thức và phƣơng pháp nào thì rừng trồng hỗn loài đều tạo điều kiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 cho các loài cây bản địa sinh trƣởng tốt hơn và rừng trồng có tính bền vững cao hơn cả về kinh tế và môi trƣờng so với rừng trồng thuần loài. Khi nghiên cứu các phƣơng thức phục hồi rừng thứ sinh nghèo kiệt, Nguyễn Bá Chất (1981-1985) [6] đã cho thấy sinh trƣởng của Lát hoa (Chukrasia tabularis) trồng hỗn loài tốt hơn rừng Lát hoa trồng thuần loài. Hơn nữa, các loài cây khác trong rừng thứ sinh cũng có khả năng tái sinh phục hồi tốt hơn. Dù ¸n trång rõng hçn loµi c¸c loµi c©y gç gi¸ trÞ cao ®Ó cung cÊp gç vµ t¨ng c-êng c¸c dÞch vô céng ®ång giữa ViÖt Nam vµ Australia (2002-2006) ®· thiÕt lËp rõng trång hçn loµi gi÷a c¸c loµi c©y nhËp néi vµ c©y b¶n ®Þa víi c¸c thêi ®iÓm hçn loµi kh¸c nhau t¹i 3 ®Þa ®iÓm: i) §oan Hïng - Phó Thä: trång cïng thêi ®iÓm c¸c loµi B¹ch ®µn urophylla, gåm cã Giæi xanh (Mechelia mediocris), L¸t hoa (Chukrasia tabularis) vµ Tr¸m tr¾ng (Canarium album); ii) V-ên quèc gia Tam §¶o: trång hçn loµi gi÷a Sấu (Darcontomelon duperrea), Xµ cõ (Khaya senegalensis), Lim xanh (Erythurophleum fordii) víi Keo lai vµo cïng mét thêi ®iÓm; iii) ĐÌo H¶i V©n - HuÕ t¹o rõng hçn loµi gi÷a Keo tai t-îng (Acacia mangium) víi Sao ®en (Hopea odorata), DÇu r¸i (Dipterocarpus alatus) vµ Chß chØ (Parashorea chinensis), trong ®ã Keo tai t-îng ®-îc trång tr-íc 7 n¨m sau ®ã ®-îc chÆt theo b¨ng ®Ó ®-a c¸c loµi c©y b¶n ®Þa vµo trång d-íi t¸n víi mËt ®é 250 c©y/ha. KÕt qu¶ sau 3 n¨m cho thÊy c¸c loµi c©y trång ®Òu cã tû lÖ sèng cao, sinh tr-ëng tèt vµ cã nhiÒu triÓn väng. Tuy nhiªn, ®©y míi chØ lµ kÕt qu¶ b-íc ®Çu. MÆt kh¸c khi thiÕt kÕ x©y dùng m« h×nh, viÖc nghiªn cøu mèi quan hÖ gi÷a c¸c loµi c©y ch-a ®-îc chó ý. V× vËy, víi c¸c m« h×nh nµy cÇn ph¶i theo dâi ®Ó cã biÖn ph¸p t¸c ®éng kÞp thêi, ®iÒu chØnh sù c¹nh tranh gi÷a c¸c loµi, ®Æc biÖt lµ c¸c loµi c©y mäc nhanh nh- B¹ch ®µn vµ Keo lai, t¹o ®iÒu kiÖn ®Ó c©y b¶n ®Þa sinh tr-ëng, ph¸t triÓn tèt. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Hiện nay nhiều đối tƣợng rừng trồng thuần loài đều tuổi ở nƣớc ta đã và đang đƣợc nghiên cứu để chuyển hoá thành rừng hỗn loài khác tuổi, có cấu trúc ổn định và bền vững hơn thông qua việc đƣa thêm một số loài cây mục đích vào trồng theo các thời điểm khác nhau. Điển hình là dự án trồng rừng Việt - Đức ở các tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn và Quảng Ninh. Ban đầu rừng trồng của dự án ở các tỉnh này là rừng thuần loài Thông mã vĩ, Keo lá tràm, hoặc Thông mã vĩ xen Keo lá tràm. Sau 7 năm dự án đã thí nghiệm chuyển hoá rừng Thông mã vĩ thuần loài và rừng hỗn loài Thông mã vĩ xen Keo lá tràm thành rừng hỗn loài với một số loài cây lá rộng bản địa khác bằng cách chặt tỉa Thông mã vĩ và Keo lá tràm, mở thành các rạch rộng 6m sau đó đƣa các loài cây lá rộng bản địa vào trồng. Nhƣ vậy, xét về thời điểm hỗn loài thì đây có thể coi là một trong những thí nghiệm điển hình và có tính thực tiễn cao, phần lớn diện tích rừng trồng của nƣớc ta hiện nay đều là rừng trồng thuần loài hoặc hỗn loài không bền vững là đối tƣợng cần đƣợc chuyển hoá thành rừng hỗn loài bền vững nhằm kinh doanh rừng theo hƣớng ổn định, bền vững hơn. 1.2.2. Các nghiên cứu về trồng rừng Thông 1.2.2.1. Các loài Thông có giá trị khoa học và kinh tế phổ biến ở Việt Nam Hiện nay trên Thế giới ngƣời ta đã xác định đƣợc hơn 100 loài Thông và ở Việt Nam đã xác định đƣợc 33 loài Thông. Tuy nhiên, một số loài có nguy cơ bị tuyệt chủng cũng nhƣ những loài có giá trị kinh tế đã đƣợc các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu nhiều hơn, điển hình là một số loài sau đây: * Thông đỏ Lâm Đồng (Taxus wallichiana Zuce; hoặc Taxus baccata ssp. Wllichiana (Zuce) Pilg); tên gọi khác là Sam hạt đỏ lá dài, hay Thông đỏ Himalaya; thuộc Họ Thông đỏ: Taxaceae. Thông đỏ Lâm Đồng là loài cây gỗ lá kim, có kích thƣớc lớn cao tới 30m, đƣờng kính thân cây đạt tới 160cm. Lecomte (1905) đã phát hiện loài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 thông này ở Đà Lạt và Nha Trang, phân bố ở độ cao 1500m so với mực nƣớc biển; hiện nay chỉ còn 150 cây. Thông đỏ Lâm Đồng có chứa chất Taxol là nguyên liệu để chế tạo thuốc chống ung thƣ. * Thông 5 lá Đà Lạt (Pinus dalatensis de Ferre); thuộc Họ Thông: Pinaceae. Thông 5 lá Đà Lạt là loại cây gỗ lá kim, thƣờng xanh, cây có kích thƣớc tƣơng đối lớn, cao tới 20m với đƣờng kính thân cây đạt tới 70 – 90cm. Phân bố tại Đà Lạt, ở độ cao ≥ 1600m so với mực nƣớc biển, ngƣời ta còn gặp Thông 5 lá Đà Lạt phân bố ở Măng Giang và Kon Ka Kinh tỉnh Gia Lai. * Thông ba lá (Pinus kesiya Royle ex Gardon); thuộc Họ Thông: Pinaceae. Thông ba lá là loài cây gỗ lá kim, có kích thƣớc lớn; cao tới 30m – 45m, với đƣờng kính thân cây đạt tới 70 – 90cm. Vỏ thân cây dày mầu nâu, nứt dọc theo trục thân và tạo thành các rãnh sâu dạng lƣới, cành cây thƣờng có màu nâu đỏ, lá hình kim, hợp thành từng túm 3 lá, nên có tên gọi là Thông 3 lá, lá mọc đầu cành dài từ 12 - 20cm, mảnh, mềm, màu xanh thẫm. Hoa đơn cùng gốc, quả hình nón - trứng, dài 5 - 8cm, quả thƣờng quặp suống, đôi khi hơi vẹo, cuống quả ngắn dài không quá 1cm. Phân bố ở độ cao 1000 – 2000m so với mực nƣớc biển, với diện tích khá rộng ở Đà Lạt. Từ nhựa thông chế biến ra côlôphan, dầu thông, tùng tiêu và các dẫn xuất của tinh dầu thông dùng để xuất khẩu và sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp nhƣ sơn, giấy, dƣợc. Rừng thông đẹp, có môi trƣờng trong lành, thƣờng là thắng cảnh phục vụ khách thăm quan, du lịch và điều dƣỡng. * Thông hai lá dẹt (Pinus krempffi H.Lec hoặc Ducampopinus krempffi (Lec) A.Chev); thuộc Họ Thông: Pinaceae. Là cây gỗ lá kim, thƣờng xanh, cây có kích thƣớc lớn: cao tới 30m và đƣờng kính thân cây đạt tới 150 – 200cm. Thông hai lá dẹt phân bố tự nhiên ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 vùng núi cao trung bình và núi cao tại tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa với độ cao: 1200 – 1800m so với mực nƣớc biển. Hiện nay ở Khu bảo tồn thiên nhiên Bidoup, núi Bà có diện tích 10.000ha, là nơi phân bố tự nhiên nhiều Thông hai lá dẹt. * Thông nhựa (Pinus merkussi Jungh & de Vries); Còn gọi là Thông hai lá); thuộc Họ Thông : Pinaceae. Cây có kích thƣớc tƣơng đối lớn, cao tới 30 – 35m, với đƣờng kính thân cây đạt tới 60 – 70cm, thân cây thẳng và tròn, vỏ thân cây dầy có mầu nâu đỏ nhạt, nứt dọc sâu. Cành 1 năm có mầu nâu nhạt, không có phấn trắng nhẵn, gốc lá hình vẩy tồn tại nâu trên cành. Phân bố nhiều ở Nam Tây Nguyên (tỉnh Lâm Đồng) trên độ cao thấp hơn 1000m so với mực nƣớc biển, có đặc điểm khí hậu nhiệt đới. Cây cho nhiều nhựa, đƣợc trồng trên diện tích khá rộng ở các tỉnh từ Bắc vào Nam. * Thông tre (Podocarpus neriifolius P Don hoặc Podocarpus annamiensis N Gray); còn gọi là Thông trúc đào; thuộc Họ Kim Giao: Podocarpaceae. Cây có kích thƣớc nhỏ, cao khoảng 25m. Phân bố ở độ cao 600 – 1500m trên núi đất tại các tỉnh Sơn La, Yên Bái, Tuyên Quang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên Huế (Bạch mã), Kon Tum (Kôn Plông), Lâm Đồng (Đà Lạt). Gỗ Thông tre bền, ít mối mọt, dùng làm nguyên liệu đóng tàu thuyền, và làm đồ gia dụng. * Thông tre lá ngắn (Podocarpus pilgeri Foxw, Podocarpus brevifolius (stapf) Foxw và Podocarpus nerriifolius D.Don var brevifolius stapf); còn gọi là Thông la hán); thuộc Họ Kim giao: Podocarpaceae. Cây có kích thƣớc nhỏ, chỉ khoảng 10 – 15m, phân bố trên núi đất, có độ cao từ 500 – 1500m tại Lào Cai, Hà Giang (Đồng Văn, Quảng Bạ), Quảng Ninh (Yên Tử), Hòa Bình ( Pà Cò), Vĩnh Phúc (Tam Đảo). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 * Thông đỏ Pà Cò (Taxus chinensis (Pilg) Rehd, Taxus ssp cuspidata Sieb et Zucc var chinensis Pilg và Taxus celebrica auct non (warb) H.L.Li); còn có tên: Sam hạt đỏ lá ngắn, Thông đỏ Trung Quốc; thuộc Họ Thông đỏ: Taxaceae. Thuộc cây gỗ lá kim, thƣờng xanh, có kích thƣớc nhỏ, cao 9 – 10m, đƣờng kính thân cây 30 – 35cm, phân bố ở núi đá vôi Thái Phìn Tùng thuộc tỉnh Hà Giang, ở độ cao 1500m so với mực nƣớc biển. Ngƣời ta còn phát hiện thấy loài Thông đỏ Pà Cò ở núi đá vôi Mai Châu (tỉnh Hòa Bình). * Thông Pà Cò (Pinus Kwangtungenssis Chun ex Tsiang) còn gọi là thông năm lá Pà Cò; thuộc Họ Thông: Pinaceae. Cây có kích thƣớc trung bình, cao 15 – 20m, đƣờng kính thân cây: 50 70cm, phát hiện Thông Pà Cò phân bố trên núi đá vôi ở huyện Mai Châu (Hòa bình), với độ cao trên 1000m so với mực nƣớc biển. * Thông mã vĩ (Pinus massoniana); thuộc Họ Thông: Pinaceae. Thông mã vĩ là cây thân gỗ lá kim có kích thƣớc tƣơng đối lớn. Cây có thể cao tới 30m, đƣờng kính 50 – 60cm, thân thẳng vỏ mầu nâu đỏ, gốc có mầu thẫm hơn, khi già vỏ bong thành từng mảng (đây cũng là một đặc điểm để phân biệt với các loài Thông nhựa). Lá Thông mã vĩ có mầu xanh tƣơi, tập trung ở đầu cành, lá mềm và rủ xuống. Thƣờng có 2 lá kim trong một bẹ lá. Lá hình kim dài 12 – 20cm. Khi cây Thông mã vĩ từ 5 – 10 tuổi, tán lá có hình tháp, sau đó trở thành hình trứng và hình ô khi tuổi già Thông mã vĩ bắt đầu ra hoa, kết quả ở tuổi 6 – 7, hoa đơn tính cùng gốc. Nón quả khi non có hình tròn, khi già có hình trứng, dài từ 4 – 7cm, đƣờng kính 2,5 – 4cm. Khi chín nón quả có mầu hạt Dẻ, mặt vẩy hình thoi, dẹt, mép lá phía trên tròn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 Gỗ Thông mã vĩ có lõi và giác phân biệt. Lõi có màu vàng, thớ gỗ thô, thẳng. Gỗ nhẹ, thƣờng đƣợc làm trụ mỏ, làm cột điện, sản xuất giấy, sợi celluloso.... Nhựa Thông mã vĩ dùng để sản xuất tùng hƣơng và tinh dầu Thông, phục vụ cho ngành công nghiệp và xuất khẩu. Hiện nay, rừng Thông mã vĩ đƣợc trồng nhiều ở các tỉnh miền Bắc, nhƣ: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Ninh, Yên Bái và Lào Cai... 1.2.2.2. Các nghiên cứu về rừng trồng Thông mã vĩ Tính đến 2009, diện tích rừng Thông nƣớc ta có khoảng 327.212,3 ha [8] phần lớn diện tích rừng trồng chủ yếu là trồng thuần loài. Về vấn đề trồng rừng cho các loài Thông ở nƣớc ta cũng đã đƣợc các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu, có thể điểm qua kết quả của một số công trình nghiên cứu điển hình nhƣ sau: Các phƣơng thức trồng rừng nói chung trồng Thông mã vĩ nói riêng là trồng thuần loài hoặc trồng hỗn loài với một số loài cây khác. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Bình, Phạm Đức Tuấn (2009) [3] rừng Thông mã vĩ 7 năm tuổi với mật độ để lại 2000 cây/ha hàng năm trả lại cho đất 60,12 kg đạm và 19,54 kg lân, nhƣng thực tế khả năng nâng cao độ phì của đất dƣới tán rừng Thông mã vĩ không cao và diễn ra với mức độ tƣơng đối chậm. Ngoài ra, việc trồng Thông mã vĩ thuần loài thƣờng xẩy ra dịch sâu róm Thông, đồng thời cũng không hạn chế đƣợc nạn cháy rừng Thông trong mùa khô, đây là những nhƣợc điểm nổi bật của rừng Thông trồng thuần loài đã đƣợc các nhà khoa học khẳng định. Ngoài ra, các tác giả đã đƣa ra một số yêu cầu kỹ thuật trồng rừng Thông mã vĩ từ khâu chọn cây con đến khi trồng rừng và chăm sóc rừng trồng nhƣ sau: - Về hỗn hợp ruột bầu gồm 75% đất mùn tế guột, 15% đất vƣờn ƣơm, 9% phân chuồng hoai (không ủ vôi), 1% Sufe lân. Sau từ 6 đến 10 tháng tuổi, cây con đạt tiêu chuẩn xuất vƣờn với chiều cao trung bình từ 28 – 50cm, cây Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 18 cứng cáp, không cụt ngọn. Thời vụ trồng vụ xuân (tháng 2 đến tháng 3), vụ thu (tháng 8 đến tháng 10) - Kích thƣớc hố đào 30cm x 30cm x 30cm, đào hố trƣớc khi trồng một tháng. Mật độ trồng: 2500 cây/ha (2m x 2m). Tiêu chuẩn cây con xuất vƣờn: Tuổi cây, từ 6 đến 10 tháng tuổi, cây cao từ 28 - 50cm, cây cứng cáp, không bị sâu bệnh và không cụt ngọn. - Chăm sóc rừng trồng: Năm thứ nhất: 3 lần, năm thứ 2: 2 lần, năm thứ 3: 1 lần. Nội dung chăm sóc chủ yếu phát dọn thƣc bì lấn át cây thông, cuốc đất và xới sáo quanh gốc cây. - Tỉa thƣa lần đầu vào năm thứ 5 và năm thứ 6. Cƣờng độ tỉa thƣa 30% tổng số cây trong rừng. 1.2.3. Các nghiên cứu về trồng cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã vĩ Với các nhƣợc điểm của rừng Thông trồng thuần loài đã đƣợc các nhà khoa học xác định và đã phân tích ở phần trên. Để khắc phục vấn đề này, việc trồng rừng hỗn loài giữa các loài Thông nói chung và Thông mã vĩ nói riêng với các loài cây bản địa là rất cần thiết và có ý nghĩa cả khoa học và thực tiễn. Vấn đề này đã đƣợc một số nhà khoa học trong nƣớc quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây, có thể điểm qua một số công trình nghiên cứu điển hình sau đây: Gần đây nhất Lê Minh Cƣờng (2007) đã nghiên cứu trồng một số loài cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã vĩ ở Đại Lải Vĩnh Phúc [7], tác giả đã đề xuất đƣợc 3 loài cây bản địa có triển vọng để gây trồng dƣới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus massoniana) đó là: Lim xanh (Erythrophleum pordii), Re hƣơng (Cinnamomum iners), Sao đen (Hopea odorata). Trong đó, Lim xanh là loài cây có khả năng sinh trƣởng tốt nhất dƣới tán rừng Thông mã vĩ sau 7 năm trồng đƣờng kính gốc trung bình đạt từ 6,0cm - 6,4cm, chiều cao vút ngọn đạt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 19 từ 4,2m - 4,6m. Ngoài ra, tác giả đã đề xuất một số biện pháp kỹ thuật gây trồng cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã vĩ. Trƣờng đại học Lâm nghiệp Xuân Mai cũng đã xây dựng vƣờn sƣu tập vƣờn thực vật với gần 300 loài cây bản địa trồng dƣới tán rừng Thông mã vĩ (Pinus massoniana) và Keo tai tƣợng (Acacia mangium). Sau nhiều năm nghiên cứu đã tìm ra một số loài cây thích nghi dƣới tán rừng nhƣ Đinh thối (Fernandoa brilletii), Máu chó (Knema pierrei), Tai chua (Garcinia cowa), Re hƣơng (Cinnamomun iners), Long não (Cinnamomun camphora)... (dẫn theo Lê Minh Cƣờng 2007)[7]. Cũng trên nền tảng rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm tại Núi Luốt, Xuân Mai, Đỗ Thị Quế Lâm (2003) [12] đã nhận định các loài Lim xanh (Erythrophleum pordii), Đinh thối (Fernandoa brilletii), Re hƣơng (Cinnamomun iners), sinh trƣởng tƣơng đối tốt dƣới tán rừng Thông mã vĩ. Tuy nhiên, dƣới các độ tàn che khác nhau, khả năng sinh truởng của các loài cây bản địa cũng rất khác nhau. Qua những nghiên cứu trên cho thấy việc trồng rừng hỗn loài giữa Thông và cây bản địa, đặc biệt là trồng các loài cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã vĩ đã và đang đƣợc nhiều tác giả trong và ngoài nƣớc quan tâm. Nhiều loài cây gỗ có giá trị đã đƣợc lựa chọn để trồng rừng nhƣ: Đinh thối, Lim xanh, Re hƣơng ... Tuy nhiên, các nghiên cứu chƣa đề cập đến biện pháp kỹ thuật gây trồng và tác động cụ thể vào tầng cây cao nhƣ thế nào, các biện pháp kỹ thuật gây trồng cây bản địa dƣới tán nhƣ thế nào. Hơn nữa, chƣa thấy có nghiên cứu nào về trồng cây bản địa dƣới tán rừng Thông mã vĩ ở Lục Ngạn - Bắc Giang. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật gây trồng cây bản địa dƣới tán rừng, đặc biệt là rừng Thông mã vĩ để làm cơ sở chuyển hoá rừng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất