Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đánh giá sự biến động đất đai trong quá trình đô thị hóa thành phố thái nguyên g...

Tài liệu Đánh giá sự biến động đất đai trong quá trình đô thị hóa thành phố thái nguyên giai đoạn 2005- 2010

.PDF
121
24037
90

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM NGUYỄN LÊ DUY ĐỀ TÀI: ĐÁNH GIÁ SỰ BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2005-2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Quản lý đất đai Thái Nguyên – Năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG CHƢƠNG I: MỞ ĐẦU 1 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU 2 1.3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI 2 1.4. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 2 CHƢƠNG II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÔ THỊ HÓA 3 2.1.1. Khái niệm, phân loại và chức năng của đô thị 3 2.1.1.1. Khái niệm về đô thị 3 2.1.1.2. Phân loại đô thị 6 2.1.1.3. Chức năng của đô thị 7 2.1.1.4. Chức năng vùng ngoại thành, ngoại thị 8 2.1.1.5. Vai trò của đô thị trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội 8 2.1.2. Đô thị hoá 9 2.1.2.1. Khái niệm đô thị hoá 9 2.1.2.2. Tính tất yếu của đô thị hoá 11 2.1.2.3. Quan điểm của đô thị hoá 11 2.1.2.4. Mối quan hệ giữa quá trình đô thị hoá và quá trình 12 công nghiệp hoá 2.1.2.5 Tác động của đô thị hoá 14 2.2. THỰC TIỄN QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT 17 NAM 2.2.1. Tình hình đô thị hoá trên thế giới 2.2.2. Kinh nghiệm đô thị hoá ở một số nƣớc trên thế giới 2.2.2.1. Hà Lan 2.2.2.2. Trung Quốc 2.2.3. Tình hình đô thị hóa ở Việt Nam 2.2.4. Các công trình nghiên cứu về đô thị hóa trên thế giới và Việt Nam Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 21 21 22 24 28 http://www.lrc-tnu.edu.vn CHƢƠNG III: ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29 3.1. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 29 29 29 29 29 29 29 29 3.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu 3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 3.2. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU 3.2.1. Thời gian nghiên cứu 3.2.2. Địa điểm nghiên cứu 3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 3.3.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thành phố Thái Nguyên 3.3.2. Thực trạng công tác quản lý và biến động đất đai 3.3.3. Ảnh hƣởng của quá trình đô thị hóa đến sự biến động đất đai 3.3.4. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất trong quá trình đô thị hóa 3.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.4.1. Phƣơng pháp điều tra, thu thập tài liệu 3.4.2. Phƣơng pháp phỏng vấn và điều tra thực địa 3.4.3. Phƣơng pháp chuyên gia 3.4.4. Phƣơng pháp thống kê toán học 3.4.5. Phƣơng pháp ứng dụng công nghệ GIS CHƢƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. ĐÁNH GIÁ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - KINH TẾ XÃ HỘI 4.1.1. Điều kiện tự nhiên 4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 4.1.2.1. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 4.1.2.2.Tình hình dân số - lao động – và thu nhập 4.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ BIẾN ĐỘNG ĐẤT ĐAI 4.2.1. Thực trạng công tác quản lý đất đai 4.2.1.1. Công tác Quy hoạch, kế hoạch 4.2.1.2. Công tác trích đo bản đồ địa chính 4.2.1.3.Đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 30 30 30 30 30 31 31 31 32 32 32 40 40 52 55 55 56 59 60 http://www.lrc-tnu.edu.vn GCNQSD đất 4.2.1.4. Giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất 4.2.1.5. Công tác định giá đất 4.2.1.6. Công tác chuyển quyền sử dụng đất 4.2.1.7. Công tác đăng ký thế chấp và xoá thế chấp 4.2.1.8. Công tác Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo 4.2.2. Hiện trạng sử dụng đất thành phố Thái Nguyên năm 2010 4.2.3. Biến động sử dụng đất thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2005-2010 4.3 ẢNH HƢỞNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA ĐẾN SỰ BIẾN 60 62 62 62 63 63 67 71 ĐỘNG ĐẤT ĐAI 4.3.1. Quá trình hình thành và phát triển đô thị hoá 4.3.2. Ảnh hƣởng của đô thị hóa đối với kinh tế hộ 4.3.2.1. Tình hình cơ bản của các hộ điều tra 4.3.2.2. Tình hình biến động đất đai của các hộ điều tra 4.3.2.3. Tình hình chung và nghề nghiệp của hộ 4.3.2.4. Nguồn lực của hộ 4.3.2.5. Thu nhập của hộ 4.3.2.6. Tình hình sử dụng tiền đền bù đất của các hộ điều tra 4.3.3. Tác động của đô thị hoá đến sản xuất nông nghiệp 4.3.4. Tác động của đô thị hoá đến sản xuất phi nông nghiệp 4.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT 71 73 73 75 77 79 81 84 86 90 92 TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA 4.4.1. Nhóm giải pháp liên quan tới chính quyền Thành phố 4.4.1.1. Quy hoạch tổng thể 4.4.1.2. Giải pháp về lao động - việc làm 4.4.1.3. Giải pháp đối với ô nhiễm môi trường 4.4.2. Các giải pháp từ phía nhà nƣớc CHƢƠNG V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1. KẾT LUẬN 5.2. KIẾN NGHỊ TÀI LIỆU THAM KHẢO Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 92 92 94 94 98 98 100 101 http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 CHƢƠNG I MỞ ĐẦU 1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Quá trình công nghiệp hoá ở mỗi quốc gia là sự hình thành hệ thống cơ sở vật chất của các ngành kinh tế quốc dân mà trước hết là các ngành công nghiệp. Kết quả chính của quá trình này còn bao gồm hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trên phạm vi cả nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân. Kết quả trên đây của quá trình công nghiệp hóa tất yếu gắn liền sự hình thành các cơ sở, các khu công nghiệp các khu thương mại, dịch vụ và các khu dân cư mới. Điều đó dẫn tới sự hình thành các khu đô thị mới hoặc sự mở rộng quy mô của các khu đô thị đã có. Như vậy sự hình thành các khu đô thị mới và mở rộng các đô thị đã có bắt nguồn từ sự tác động của quá trình công nghiệp hoá và diễn ra song song với quá trình công nghiệp hoá. Nói cách khác, quá trình đô thị hoá là một quá trình bắt nguồn từ quá trình công nghiệp hoá và gắn liền với quá trình công nghiệp hoá. Do vậy, có thể khẳng định rằng đô thị hoá là một quá trình tất yếu và phổ biến của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo đường lối phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta, sự hình thành các đô thị mới và mở rộng các đô thị hiện có là một xu hướng tất yếu. Sự hình thành các khu đô thị mới, các tuyến giao thông mới những năm qua tại thành phố Thái Nguyên và sự hình thành các phường xã mới là xu thế tất yếu để hoà nhập với sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đồng thời với việc đô thị hoá thì vấn đề biến động đất đai trong quá trình đô thị hóa cũng là một vấn đề quan trọng liên quan đến việc sử dụng đất đai hiệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 quả. Nhận thức được tầm quan trọng đó, tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá sự biến động đất đai trong quá trình đô thị hóa thành phố Thái Nguyên giai đoạn 2005 - 2010”. 1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội trong quá trình đô thị hóa tại thành phố Thái Nguyên. - Phân tích, đánh giá thực trạng tình hình đô thị hóa trên địa bàn thành phố Thái Nguyên và sự ảnh hưởng của đô thị hóa tới biến động đất đai của thành phố Thái Nguyên. - Tìm ra những giải pháp nhằm sử dụng đất hiệu quả trong quá trình đô thị hóa thành phố Thái Nguyên. 1.3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI - Phản ánh sự biến động đất đai trong quá trình đô thị hóa của thành phố Thái Nguyên. - Xác định mối liên quan giữa đô thị hóa và sự biến động đất đai thành phố Thái Nguyên. - Các đề xuất và giải pháp nhằm sử dụng đất hiệu quả trong quá trình đô thị hóa thành phố Thái Nguyên. 1.4. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI Luận văn là công trình khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực, luận văn được nghiên cứu nhằm đánh giá sự ảnh hưởng của đô thị hoá tới kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Thái Nguyên đồng thời đưa ra một số giải pháp giúp phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện cuộc sống. 3 CHƢƠNG II TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÔ THỊ HÓA 2.1.1. Khái niệm, phân loại và chức năng của đô thị 2.1.1.1. Khái niệm về đô thị Khái niệm về đô thị hóa rất đa dạng, bởi vì đô thị hóa chứa đựng nhiều hiện tượng và biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển. Các nhà khoa học cũng xem xét và quan sát hiện tượng đô thị hóa từ nhiều góc độ khác nhau, phản ánh các đặc điểm của đô thị hóa quan sát được từ góc độ đó. Dưới đây là một số khái niệm đô thị hóa: Đô thị hóa (urbanization) là quá trình tập trung dân số các đô thị, và sự hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị trên cơ sở phát triển sản xuất đời sống. Theo khái niệm trên thì có thể hiểu đô thị hóa là quá trình mở rộng các đô thị hiện có và sự hình thành các đô thị mới. Đô thị hóa được diễn ra trên cơ sở phát triển đời sống sản xuất và đời sống. Có thể nói đô thị hóa là bạn đồng hành của công nghiệp hóa, bởi vì trong tiến trình phát triển đô thị hóa và công nghiệp hóa luôn tác động với nhau, hỗ trợ nhau. Trong quá trình đô thị hóa, diễn ra sự biến đổi sâu sắc về một số vấn đề sau: + Cơ sở sản xuất: Nếu như trước khi đô thị hóa diễn ra nền kinh tế chủ yếu là tự cung tự cấp thì sau đó sẽ là nền kinh tế hoạt động đa dạng hơn. + Cơ cấu nghề nghiệp: Cơ cấu nghề nghiệp sẽ có sự thay đổi mạnh theo hưóng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng tỷ lệ lao động phi nông ngiệp. + Cơ cấu tổ chức hoạt động xã hội: Sau khi đô thị hóa diến ra tất yếu sẽ có những thay đổi về cơ cấu tổ chức hoạt động xã hội, mà điều đầu tiên chúng ta Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 nhìn thấy đó là việc chuyển đổi từ “thôn”, “xóm”, “bản”, thành “phố”, “phường”, “quận”… + Cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc và hình thái xây dựng từ dạng nông thôn sang thành thị, Không gian kiến trúc sẽ trở nên gọn và đẹp, hiện đại hơn với hệ thống các công trình phúc lợi công cộng, hệ thống giao thông…tạo ra sự thuận tiện nhất cho sinh hoạt người dân. Theo từ điển Bách khoa toàn thư thì: Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị tính theo tỷ lệ phần trăm dân số đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích một vùng hay khu vực. Nó cũng có thể được tính tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố theo thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì nó được gọi là mức đô thị hóa; còn tính theo cách hai thì được gọi là tốc độ đô thị hóa. Khái niệm trên cung cấp cho chúng ta các cách tính mức độ đô thị hóa và tốc độ đô thị hóa. Để so sánh mức độ đô thị hóa giữa các vùng, khu vực với nhau thông thường người ta hay dùng tỷ lệ dân số đô thị làm thước đo. Tuy nhiên tỷ lệ phần trăm dân số đô thị cũng không phản ánh được đầy đủ mức độ đô thị hóa của một vùng hay khu vực mà phải xem xét chất lượng đô thị hóa. Ở các nước phát triển chất lượng đô thị hóa phát triển theo các nhân tố chiều sâu, nâng cao chất lượng cuộc sống, tận dụng tối đa những lợi ích và hạn chế tối thiểu những ảnh hưởng xấu của quá trình đô thị hóa, nhằm hiện đại hóa cuộc sống và nâng cao chất lượng môi trường đô thị. Ở các nước đang phát triển, hiện tượng bùng nổ dân số đô thị bên cạnh sự yếu kém của công nghiệp đã làm cho quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa mất cân đối. Sự mâu thuẫn của đô thị và nông thôn càng thêm sâu sắc. Sự chênh lệch về mức sống đã thúc đẩy dân số nông thôn ra thành thị một cách ồ ạt, làm cho dân số đô thị tăng lên một cách nhanh chóng, đặc biệt là đô thị 5 lớn, đô thị trung tâm, tạo nên các điểm dân cư đô thị cực lớn, mất cân đối trong sự phát triển hệ thống dân cư. Theo tiến sĩ Gouming Wen, đô thị hóa là một quá trình chuyển đổi mang tính lịch sử tư liệu sản xuất và lối sống của con người từ nông thôn vào thành phố, Thường quá trình này được nhìn nhận như là sự di cư của nông dân nông thôn đến các đô thị và quá trình tiếp tục của bản thân các đô thị. Ông cũng cho rằng, trong thực tế quá trình đô thị hóa là quá trình phức tạp hơn nhiều. Bởi tiến trình này đã bộc lộ không ít dấu hiệu của tình trạng quá nóng và những dấu hiệu tiềm ẩn, như áp lực gia tăng đối với việc làm và an ninh xã hội, tình trạng bong bóng xà phòng trong lĩnh vực bất động sản buộc chính phủ Trung Quốc phải hãm phanh xu hướng này thông qua việc xem xét một cách thận trọng và từng bước kiểm soát đối với quá trình đô thị hóa. Tiến sĩ Toshio Kuroda (Nhật Bản) cho rằng đô thị hóa trên tổng số dân cư trú ở thành phố hoặc dựa trên quan điểm về các vừng có mật độ dân cư đông. Nghiên cứu thực tế nước Nhật, ông cho rằng đô thị hóa không đơn thuần là một hiện tượng xảy ra sau chiến tranh ở Nhật Bản mà là một quá trình diến ra từ đầu thế kỷ XX. Sau năm 1945, quá trình đô thị hóa diễn ra ở Nhật Bản khá rõ do yêu cầu của việc tái thiết nhanh chóng và tăng trưởng kinh tế đã đẩy nhanh quá trình đô thị hóa. Sự di chuyển của một lượng lớn dân số trẻ từ nông thôn ra thành thị, chủ yếu là những người tản cư về. Quá trình diễn ra đặc biệt nhanh chóng từ cuối thập kỷ 50, đầu thập ký 60 do người nhập cư mong muốn có cuộc sống tốt đẹp hơn. Tiến sỹ Jung Duk (Hàn Quốc) cho rằng đô thị hóa là sự gia tăng dân số chủ yếu từ nông thôn ra thành thị mà trước đây, thế hệ trẻ rời bỏ nông thôn với mục đích tìm kiếm việc làm, cơ hội giáo dục và những thú vui, tiện nghi nơi đô thị, trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa (1967-1975). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Như vậy, đô thị hoá là quá trình chuyển đổi một khu vực, một vùng nào đó từ chưa "đô thị" thành "đô thị". Những vùng, khu vực có thể là vùng ven đô thị hay ngoại thành, có thể thị trấn, thị tứ khi có cơ hội đô thị hoá, từ đô thị mở rộng không gian và diện tích cũng như thu hút luồng di cư của dân không nhất thiết từ đô thị trung tâm mà cả những vùng khác nhất là nông thôn trong cả nước. Đô thị hoá biểu hiện dễ thấy là sự mở rộng không gian đô thị, không gian kiến trúc và sự tăng lên của dân nhập cư từ nhiều luồng khác nhau tạo nên sự tập trung dân cư lớn trong một thời gian nhất định. Do đó, về mặt dân cư có thể xem đô thị hoá là một quá trình phức tạp bố trí lại dân cư, sắp xếp lại lao động. Đô thị hoá nhanh chóng làm cho đô thị ổn định nhanh lại phải tiếp tục mở rộng không gian ra vùng ven. Đó là một quá trình liên tục. Quá trình này chỉ kết thúc khi đô thị đã đi vào ổn định. Đô thị hóa nông thôn cũng là một phần trong tiến trình đô thị hóa nói chung. Đô thị hóa nông thôn là việc thay đổi trật tự sắp xếp của một vùng nông thôn theo các điều kiện của thành phố. Đây là một trong những biện pháp biến nông thôn thành những nơi làm việc hấp dẫn, có điều kiện áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng những nhu cầu về nông sản phẩm cho xã hội góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân. Đô thị hóa nông dân có ý nghĩa rất lớn: Thứ nhất là tạo việc làm thu hút lao động dư thừa ở nông thôn, giúp người dân cải thiện cuộc sống. Thứ hai là làm giảm hiện tượng di cư vào các thành phố lớn như vậy là giảm sức ép cho các thành phố lớn. Thứ ba là tạo ra sự phát triển đồng đều cho đất nước và xóa dần khoảng cách giữa đô thị và nông thôn. 2.1.1.2. Phân loại đô thị Ngày 5/5/1990, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra quyết định về phân cấp, phân loại đô thị. Đô thị nước ta chia làm 5 loại. - Đô thị loại 1: là loại đô thị rất lớn, dân số từ 1 triệu người trở lên, 7 mật độ 15.000 người/km2. - Đô thị loại 2: là loại đô thị lớn, dân số từ 35 vạn đến 1 triệu người, mật độ 12.000 người/km2. - Đô thị loại 3: là đô thị trung bình lớn, dân số từ 10 vạn đến 35 vạn người, mật độ 10.000 người/km2. - Đô thị loại 4: là đô thị trung bình nhỏ, dân số từ 3 vạn đến 10 vạn người (vùng núi có thể thấp hơn), mật độ 8000 người/km2. - Đô thị loại 5: là đô thị loại nhỏ, là trung tâm tổng hợp kinh tế - xã hội, hoặc trung tâm chuyên ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp... có vai trò thúc đẩy sự phát triển của một huyện. Dân số từ 4 nghìn đến 3 vạn (vùng núi có thể thấp hơn). 2.1.1.3. Chức năng của đô thị Tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển mà đô thị có thể có các chức năng khác nhau, nhìn chung có mấy chức năng chủ yếu sau: * Chức năng kinh tế: Đây là chức năng chủ yếu của đô thị. Sự phát triển kinh tế thị trường đã đưa đến xu hướng tập trung sản xuất có lợi hơn là phân tán. Chính yêu cầu kinh tế ấy đã tập trung các loại hình xí nghiệp thành khu công nghiệp và cơ sở hạ tầng tương ứng, tạo ra thị trường ngày càng mở rộng và đa dạng hoá. Tập trung sản xuất kéo theo tập trung dân cư, trước hết là thợ thuyền và gia đình của họ tạo ra bộ phận chủ yếu của dân cư đô thị. * Chức năng xã hội: Chức năng này ngày càng có phạm vi lớn dần cùng với tăng quy mô dân cư đô thị. Những nhu cầu về nhà ở, y tế, đi lại... là những vấn đề gắn liền với yêu cầu kinh tế, với cơ chế thị trường. Chức năng xã hội ngày càng nặng nề không chỉ vì tăng dân số đô thị, mà còn vì chính những nhu cầu về nhà ở, y tế, đi lại... thay đổi. * Chức năng văn hoá: Ở tất cả các đô thị đều có nhu cầu giáo dục và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 giải trí cao. Do đó ở đô thị cần có hệ thống trường học, du lịch, viện bảo tàng, các trung tâm nghiên cứu khoa học ngày càng có vai trò lớn hơn. * Chức năng quản lý: Tác động của quản lý nhằm hướng nguồn lực vào mục tiêu kinh tế, xã hội, sinh thái và kiến trúc, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, vừa nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu công cộng, vừa quan tâm đến những nhu cầu chính đáng của cá nhân. Do đó chính quyền địa phương phải có pháp luật và quy chế quản lý về đô thị. 2.1.1.4. Chức năng vùng ngoại thành, ngoại thị Ngoại thành ngoại thị là vành đai chịu tác động ảnh hưởng trực tiếp của nội thị và nằm trong giới hạn hành chính thành phố, thị xã. Theo Nghị định 72/2001/NĐ - CP ngày 5/10/2001, vùng ngoại thành, ngoại thị là một phần đất đai của đô thị nằm trong giới hạn hành chính của đô thị. Vùng ngoại thành ngoại có các chức năng sau: Một là dự trữ đất đai để mở rộng, phát triển nội thành nội thị. Hai là sản xuất một phần lương thực, thực phẩm, rau quả tươi sống... phục vụ cho nội thành, nội thị. Ba là, bố trí công trình kỹ thuật đầu nối tập trung mà nội thị không bí trí được. Bốn là, xây dựng mạng lưới cây xanh, cân bằng hệ sinh thái, bảo vệ, môi sinh, môi trường. 2.1.1.5. Vai trò của đô thị trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội Đô thị thường đóng vai trò là trung tâm kinh tế, chính trị, thương mại, văn hoá của xã hội; là sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất kỹ thuật và văn hoá. Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, là điều kiện cho giao thương và sản xuất phát triển, tạo điều kiện thúc đẩy CNH nhanh chóng. Đô thị tối 9 ưu hoá việc sử dụng năng lượng, con người và máy móc, cho phép vận chuyển nhanh và rẻ, tạo ra thị trường linh hoạt, có năng suất lao động cao. Các đô thị tạo điều kiện thuận lợi phân phối sản phẩm và phân bố nguồn nhân lực giữa các không gian đô thị, ven đô, ngoại thành và nông thôn. Đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập quốc dân của cả nước. Đô thị luôn phải giữ vai trò đầu tàu cho sự phát triển, dẫn dắt các cộng đồng nông thôn đi trên con đường tiến bộ và văn minh. 2.1.2. Đô thị hoá 2.1.2.1. Khái niệm đô thị hoá Các nhà khoa học thuộc nhiều bộ môn đã nghiên cứu quá trình đô thị hóa (ĐTH) và đưa ra không ít định nghĩa cùng với những định giá về quy mô, tầm quan trọng và dự báo tương lai của quá trình này. “Đô thị hoá” được hiểu theo chiều rộng là sự phát triển của thành phố và việc nâng cao vai trò của đô thị trong đời sống của mỗi quốc gia với những dấu hiệu đặc trưng như: tổng số thành phố và tổng số cư dân đô thị. Theo khái niệm này thì quá trình ĐTH chính là sự di cư từ nông thôn vào thành thị. Đó cũng là quá trình gia tăng tỷ lệ dân cư đô thị trong tổng số dân của một quốc gia. Tuy nhiên, nếu chỉ hạn chế trong cách tiếp cận nhân khẩu học như trên thì sẽ không thể nào giải thích được toàn bộ tầm quan trọng và vai trò của ĐTH cũng như ảnh hưởng của nó tới sự phát triển của xã hội hiện đại. Các nhà khoa học ngày càng ngả sang cách hiểu ĐTH như một phạm trù kinh tế xã hội, phản ánh quá trình chuyển hoá và chuyển dịch chủ yếu sang phương thức sản xuất và tiêu dùng, lối sống và sinh hoạt mới - phương thức đô thị. Đây là một quá trình song song với sự phát triển công nghiệp hóa (CNH) và cách mạng khoa học công nghệ (CM KHCN). Tóm lại, ĐTH là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 và điều kiện sống theo kiểu đô thị đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa (HĐH) cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số. * Phân loại quá trình đô thị hóa Quá trình ĐTH diễn ra trên thế giới có thể phân chia thành 2 loại: - Quá trình ĐTH ở các nước đã phát triển: đặc trưng cho sự phát triển này là nhân tố chiều sâu và sự tận dụng tối đa những lợi ích, hạn chế những ảnh hưởng xấu của quá trình ĐTH. ĐTH diễn ra do nhu cầu công nghiệp phát triển, mang tính tự nhiên. - Quá trình ĐTH ở các nước đang phát triển: có đặc trưng là ĐTH không đi đôi với CNH (trừ một số nước công nghiệp mới - NIC). Sự bùng nổ dân số đô thị quá tải không mang tính tự nhiên mà do sức hấp dẫn từ sự cách biệt sâu sắc về chất lượng cuộc sống giữa đô thị và nông thôn. * Quá trình ĐTH diễn ra theo 2 xu hƣớng - ĐTH tập trung (ĐTH “hướng tâm”): đó chính là sự tích tụ các nguồn lực tư bản và chất xám hình thành nên các trung tâm đô thị công nghiệp tập trung cao độ, những thành phố toàn cầu như Tokyo, Seoul,... Điều này sẽ dẫn đến xu hướng “CNH co cụm”, khi đó, chỉ những khu vực đô thị trung tâm là nơi thu hút vốn đầu tư, tập trung các hoạt động công nghiệp, trong khi các lĩnh vực vẫn chỉ là nông thôn và sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm vai trò chủ đạo tạo ra sự đối lập giữa đô thị và nông thôn, đồng thời gây ra mất cân bằng sinh thái. - ĐTH phân tán (ĐTH “ly tâm”): là xu hướng dịch chuyển đầu tư và hoạt động sản xuất công nghiệp từ các lĩnh vực trung tâm ra các vùng ngoại vi, tạo nên hiệu ứng lan toả, thúc đẩy sự ra đời và hình thành các trung tâm vệ tinh công nghiệp. Điều này dẫn đến tiến trình „công nghiệ hóa lan tỏa (CNH lan toả)”, các hoạt động công nghiệp ở đô thị trung tâm có xu hướng dịch 11 chuyển ra ngoại vi để chuyển sang các hoạt động công nghiệp mức cao hơn, hay chuyên môn hoá các lĩnh vực kinh doanh, thương mại, dịch vụ. Xu hướng này sẽ đảm bảo cân bằng sinh thái, tạo điều kiện việc làm, sinh hoạt và nghỉ ngơi tốt cho dân đô thị và nông thôn. 2.1.2.2. Tính tất yếu của đô thị hoá Bất cứ một quốc gia nào, dù là phát triển hay đang phát triển, khi chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp lên nền kinh tế công nghiệp bằng con đường CNH thì đều gắn liền với ĐTH. Trong lịch sử cận đại, ĐTH trước hết là hệ quả trực tiếp của quá trình công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa (TBCN) và sau này là kết quả của quá trình cơ cấu lại các nền kinh tế theo hướng hiện đại hoá: tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu và khối lượng GDP. Nhìn chung, từ góc độ kinh tế, ĐTH là một xu hướng tất yếu của sự phát triển. Như vậy, ĐTH là một quy luật khách quan, phù hợp với đặc điểm tình hình chung của mỗi quốc gia và là một quá trình mang tính lịch sử, toàn cầu và không thể đảo ngược của sự phát triển xã hội. ĐTH là hệ quả của sức mạnh công nghiệp và trở thành mục tiêu của nền văn minh thế giới. 2.1.2.3. Quan điểm của đô thị hoá Công nghiệp hoá và cùng với nó là ĐTH trở thành xu thế chung của mọi quá trình chuyển từ nền văn minh nông nghiệp lên nền văn minh công nghiệp. Vấn đề quan trọng đặt ra là làm gì và bằng cách nào để phát huy tối đa mặt tích cực của đô thị hoá, đồng thời hạn chế và đi đến thủ tiêu mặt tiêu cực của nó. Điều này cũng đồng nghiã với việc quá trình đô thị hoá phải gắn liền với khái niệm “Phát triển bền vững”. Theo Burger (1998) thì một xã hội phát triển bền vững phải thoả mãn nhu cầu con người không chỉ trong giai đoạn hiện tại (kể cả trong quá Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 khứ) mà còn cho cả tương lai, ngoài ra xã hội đó còn đáp ứng đồng thời cả yêu cầu phát triển kinh tế lẫn bảo vệ môi trường. Như vậy, đô thị hóa phải vừa thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vừa phải đảm bảo môi trường tự nhiên, xã hội trong lành, sự công bằng và tiến bộ xã hội. Tuy rằng tăng trưởng kinh tế là yếu tố cần thiết và quan trọng bậc nhất của quá trình ĐTH song nó vẫn chỉ là một nhân tố, một phương tiện hơn là một mục tiêu tối thượng. Mục tiêu của ĐTH là phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của con người, tức là phát triển đô thị lấy con người làm trọng tâm. 2.1.2.4. Mối quan hệ giữa quá trình đô thị hoá và quá trình công nghiệp hoá Đô thị hóa là một quá trình song song với sự phát triển công nghiệp hóa và cách mạng khoa học kỹ thuật. Quá trình đô thị hóa phản ánh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nền kinh tế thị trường. Không ai phủ nhận rằng một quốc gia được coi là công nghiệp hóa thành công lại không có tỷ lệ cư dân đô thị ngày càng chiếm vị trí áp đảo so với cư dân nông thôn. Đó cũng là lý do mà kinh tế học phát triển đã coi sự gia tăng tỷ lệ cư dân đô thị như một trong những chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tình trạng “có phát triển” của nền kinh tế chậm phát triển đang tiến hành công nghiệp hóa hiện nay. Đô thị hóa trước hết là hệ quả trực tiếp của quá trình công nghiệp hóa và sau này là hệ quả của quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại hóa: tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông 13 nghiệp trong cơ cấu và khối lượng GDP. Đồng thời, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đô thị hóa giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, đảm bảo an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. ĐTH xúc tiến tối đa công nghiệp hóa. - Hiện đại hóa đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa muốn thực hiện thành công cần phải chuyển đổi căn bản cơ cấu kinh tế từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp với kỹ thuật cao, thay đổi cơ cấu lao động. Trước hết có sự tập trung cao các điểm dân cư, kết hợp với xây dựng đồng bộ và khoa học các cơ quan và các xí nghiệp trung tâm... Quá trình này là bước chuẩn bị lực lượng ban đầu cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Khi đó máy móc hiện đại được đưa vào sản xuất nhiều hơn kéo theo việc nâng cao trình độ tay nghề công nhân, đồng thời nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý. Đô thị hóa sẽ đánh dấu giai đoạn phát triển mới của tiến trình công nghiệp hóa, trong đó, công nghiệp và dịch vụ trở thành lĩnh vực chủ đạo của nền kinh tế, không chỉ xét về phương diện đóng góp tỷ trọng trong GDP mà còn cả về phương diện phân bố nguồn lao động xã hội. Tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển mà đô thị có thể có các chức năng khác nhau, nhìn chung có mấy chức năng chủ yếu sau. * Chức năng kinh tế: đây là chức năng chủ yếu của đô thị. Sự phát triển kinh tế thị trường đã đưa đến xu hướng tập trung sản xuất có lợi hơn là phân tán. Chính yêu cầu kinh tế ấy đã tập trung các loại hình xí nghiệp thành khu công nghiệp và cơ sở hạ tầng tương ứng, tạo ra thị trường ngày càng mở rộng và đa dạng hoá. Tập trung sản xuất kéo theo tập trung dân cư, trước hết là thợ thuyền và gia đình của họ tạo ra bộ phận chủ yếu của dân cư đô thị. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 * Chức năng xã hội: chức năng này ngày càng có phạm vi lớn dần cùng với tăng quy mô dân cư đô thị. Những nhu cầu về nhà ở, y tế, đi lại,... là những vấn đề gắn liền với yêu cầu kinh tế, với cơ chế thị trường. Chức năng xã hội ngày càng nặng nề không chỉ vì tăng dân số đô thị, mà còn vì chính những nhu cầu về nhà ở, y tế, đi lại,... thay đổi. * Chức năng văn hoá: Ở tất cả các đô thị đều có nhu cầu giáo dục và giải trí cao. Do đó ở đô thị cần có hệ thống trường học, du lịch, viện bảo tàng, các trung tâm nghiên cứu khoa học ngày càng có vai trò lớn hơn. * Chức năng quản lý: tác động của quản lý nhẳm hướng nguồn lực vào mục tiêu kinh tế, xã hội, sinh thái và kiến trúc, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, vừa nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu công cộng, vừa quan tâm đến những nhu cầu chính đáng của cá nhân. Do đó chính quyền địa phương phải có pháp luật và quy chế quản lý về đô thị. 2.1.2.5 Tác động của đô thị hoá ĐTH là một quá trình đã, đang và sẽ tiếp tục diễn ra một cách phổ biến trên thế giới. ĐTH từng bước đưa con người tiếp cận cuộc sống văn minh, đồng thời cũng đặt ra không ít vấn đề tiêu cực, khó khăn - những vấn đề ảnh hưởng xấu đối với quá trình ĐTH một cách bền vững. * Mặt tích cực: Một là, ĐTH thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sản xuất hàng hóa và dịch vụ thường đạt hiệu quả cao tại những đô thị lớn - nơi có quy mô mật độ dân số tương đối lớn với nguồn lao động dồi dào, có quy mô hoạt động kinh tế đủ lớn do các doanh nghiệp tập trung đông, có hệ thống phân phối rộng khắp trên một không gian đô thị nhất định. Đồng thời khi kinh tế của các đô thị lớn đạt tới độ tăng trưởng cao thì nó sẽ gây ra hiệu ứng lan toả kích thích mạnh tới tăng trưởng kinh tế của cả nước. 15 Hai là, ĐTH đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Trong quá trình ĐTH, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng của khu vực nông nghiệp và gia tăng nhanh tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với sản xuất nông nghiệp nói riêng, ĐTH góp phần làm thay đổi về cơ cấu diện tích gieo trồng và cơ cấu giá trị sản xuất. Các loại cây có giá trị kinh tế thấp, sử dụng nhiều lao động đang có xu hướng giảm dần diện tích. Các loại cây cần ít lao động hơn và cho giá trị kinh tế cao hơn đang được tăng dần diện tích canh tác. Trong tổng giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp thì xu hướng chung là giảm dần tỷ trọng của ngành trồng trọt và tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. Ba là, Đ T H cải tạo kết cấu hạ tầng. Xu hướng ĐTH tạo ra sự tập trung sản xuất công nghiệp và thương mại, đòi hỏi phải tập trung dân cư, khoa học, văn hóa và thông tin. Những điều kiện đáp ứng nhu cầu đó là sự phát triển kết cấu hạ tầng, nhà ở, các dịch vụ phục vụ cho sản xuất và đời sống dân cư. Do đó mà hệ thống giao thông vận tải, năng lượng, bưu chính viễn thông và cấp thoát nước cũng sẽ được cải tiến về quy mô và chất lượng. Ở nông thôn, việc cải tạo kết cấu hạ tầng đang được thực hiện với chủ trương “điện, đường, trường, trạm” tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và nâng cao đời sống của người nông dân. Bốn là, ĐTH nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Các đô thị ngày càng áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật và kỹ năng quản lý tổ chức sản xuất hiện đại, làm tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong sản xuất nông nghiệp, quá trình ĐTH cung cấp những cơ sở kỹ thuật cần thiết cho người nông dân như thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa để làm tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá có chất lượng tốt, đảm bảo an toàn lương thực, đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường trong ngoài nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 Năm là, ĐTH góp phần cải thiện đời sống của dân cư đô thị và các vùng lân cận. Nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà các đô thị có thể tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cho người dân, góp phần quan trọng trong việc nâng cao thu nhập cho họ. Khi mức thu nhập bình quân người/ tháng tăng lên thì nhu cầu chi tiêu đời sống của dân cư cũng tăng nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Điều đó cho thấy ĐTH làm mức sống của dân cư được cải thiện đáng kể, góp phần vào việc thực hiện xóa đói giảm nghèo. Sáu là, ĐTH cũng đem lại một số tiến bộ về mặt xã hội đó là: nâng tuổi thọ trung bình, giảm tỷ lệ tử vong của trẻ em, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng, tăng tỷ lệ dân cư dùng nước sạch, phát triển giáo dục, văn hóa,... * Mặt tiêu cực: Bên cạnh những mặt mạnh của ĐTH như trên thì ĐTH cũng kéo theo hàng loạt vấn đề tiêu cực khác, đó là: Thứ nhất, ĐTH thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Quá trình ĐTH nhanh đã làm cho nhu cầu về sử dụng đất chuyên dùng xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và đất đô thị tăng lên rất nhanh. Điều này dẫn đến tình trạng nuốt chửng những diện tích đất nông nghiệp vốn rất cần thiết cho một đô thị như: sản xuất lương thực thực phẩm, tạo mảng không gian xanh có vai trò “giải độc” cho môi trường sống, tạo khu nghỉ ngơi cho thị dân... Đồng thời sự suy giảm diện tích đất nông nghiệp đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc cải thiện mức sống của nhiều người dân ở khu vực ngoại ô vì họ trở nên thiếu phương tiện lao động và kế sinh nhai truyền thống. Thứ hai, ĐTH khoét sâu hố phân cách giàu nghèo. Quá trình ĐTH nhanh đã làm cho hố phân cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư trong đô thị, giữa nông thôn và thành thị trở nên trầm trọng hơn. Thứ ba, ĐTH gia tăng tình trạng di dân. Chính sự chênh lệch về
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất