Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đạo đức công vụ của đội ngũ công chức trong giai đoạn đổi mới ở nước ta hiện nay...

Tài liệu Đạo đức công vụ của đội ngũ công chức trong giai đoạn đổi mới ở nước ta hiện nay

.PDF
120
10962
172

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ THỊ HUYỀN TRANG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH KHOA HỌC QUẢN LÝ MS: ĐÀO TẠO THÍ ĐIỂM Hà Nội, 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- LÊ THỊ HUYỀN TRANG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC TRONG GIAI ĐOẠN ĐỔI MỚI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH KHOA HỌC QUẢN LÝ MÃ SỐ: NGÀNH ĐÀO TẠO THÍ ĐIỂM Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN MINH PHƢƠNG Hà Nội, 2014 LỜI CẢM ƠN Trong suố t quá trin ̀ h ho ̣c tâ ̣p và hoàn thành luận văn này , tôi đã nhâ ̣n đươ ̣c sự hướng dẫn , giúp đỡ quý báu của các thầy cô, các anh chị, các em và các ba ̣n . Với lòng kiń h tro ̣ng và biế t ơn sâu sắ c tôi xin đươ ̣c bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các th ầy cô Khoa Khoa học quản lý, Bô ̣ môn Lý luận và Phương pháp trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nô ̣i đã ta ̣o mo ̣i điề u kiê ̣n thuâ ̣n lơ ̣i giúp đỡ tôi trong quá triǹ h ho ̣c tâ ̣p và hoàn thành luận văn. Đặc biệt là: PGS. TS Nguyễn Minh Phƣơng, Viện phó Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ, người thầ y kính mế n đã hế t lòng giúp đỡ , dạy bảo , đô ̣ng viên và ta ̣o mo ̣i điề u kiê ̣n thuâ ̣n lơ ̣i cho tôi trong suố t quá trình ho ̣c tâ ̣p và hoàn thành luâ ̣n văn tố t nghiê ̣p. Thạc si ̃ Nguy ễn Huyền Hạnh, Trưởng phòng Nghiên c ứu tiền lương và chế độ chính sách, Viện Khoa học tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ – người đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để tôi có thể hoàn thành đươ ̣c luâ ̣n văn này. PGS. TS Phạm Ngọc Thanh cùng toàn thể các th ầy, cô giáo trong bộ môn Lý luận và Phương pháp đã hướng dẫn , chỉ bảo và tạo mọi điều kiê ̣n thuâ ̣n lơ ̣i cho tôi trong su ốt quá trình h ọc tập để tôi có thể hoàn thành đươ ̣c luâ ̣n văn. Xin chân thành g ửi lời cảm ơn tới ba ̣n bè , và gia đình trong suốt thời gian qua đã đô ̣ng viên và giúp đỡ tôi trong quá trình h ọc tập, làm việc để tôi hoàn thành luận văn như mong muốn. Hà Nội, ngày tháng năm 2014 Học viên Lê Thị Huyền Trang MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu ......................................................................................... 2 3. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 4 4. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................ 4 5. Mẫu khảo sát: Cán bộ, công chức Bộ Nội vụ .............................................. 4 6. Vấn đề nghiên cứu.......................................................................................... 4 7. Giả thuyết nghiên cứu.................................................................................... 4 8. Phƣơng pháp nghiên cứu .............................................................................. 5 9. Kết cấu luận văn............................................................................................. 5 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 6 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ ........................ 6 1.1. Đạo đức công vụ và vai trò của đạo đức công vụ trong giai đoạn đổi mới hiện nay ..................................................................... 6 1.1.1. Khái niệm công chức và công vụ......................................................... 6 1.1.2. Đạo đức và đạo đức công vụ ............................................................. 10 1.1.3. Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật trong hoạt động công vụ ... 15 1.1.4. Vai trò của đạo đức công vụ trong giai đoạn đổi mới hiện nay ....... 17 1.2. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đạo đức công vụ ........................... 19 1.3. Đạo đức công vụ trong tƣơng quan với khoa học quản lý...... 23 *Kết luận Chƣơng 1:........................................................................................ 27 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở VIỆT NAM ....... 28 2.1. Các quy định về đạo đức công vụ ở nƣớc ta hiện nay ............ 28 2.1.1. Luật Cán bộ, công chức .................................................................... 28 2.1.2. Luật Phòng, chống tham nhũng ........................................................ 30 2.1.3. Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ......................................... 32 2.1.4. Các văn bản đặc thù do Bộ, ngành ban hành ................................... 34 2.2. Thực trạng thực thi đạo đức công vụ của công chức trong giai đoạn đổi mới .................................................................................. 37 2.2.1. Số liệu thống kê về đội ngũ công chức .............................................. 37 2.2.2. Đánh giá chung về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay 38 2.3. Những nguyên nhân cơ bản về thực trạng đạo đức công vụ của công chức hiện nay ....................................................................... 48 2.3.1. Ảnh hưởng mặt trái của cơ chế thị trường đối với đạo đức cán bộ, công chức ................................................................................ 48 2.3.2. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức, hoạt động kém hiệu quả............................................................................... 50 2.3.3. Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc không được chú trọng bảo tồn và phát huy đúng mức ........................................................... 51 2.3.4. Chính sách tiền lương chưa đảm bảo được tính hợp lý, khoa học và công bằng .................................................................................................... 53 2.3.5. Về thể chế quản lý cán bộ, công chức từ năm 1998 đến nay ............ 55 2.4. Kinh nghiệm xây dựng quy chế đạo đức công vụ của một số quốc gia ......................................................................................... 56 2.4.1. Quy định về đạo đức công chức trong nền công vụ Nhật ................. 60 2.4.2. Quy định về đạo đức công chức trong nền công vụ Pháp................. 62 2.4.3. Quy định về đạo đức công chức trong nền công vụ Singapore......... 63 2.4.4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam ......................................... 65 *Kết luận Chƣơng 2: .................................................................... 67 CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ................................................................................................. 69 3.1. Bối cảnh mới đặt ra yêu cầu phải nâng cao đạo đức công vụ 69 3.1.1. Yêu cầu về việc xây dựng nhà nước pháp quyền ............................... 69 3.1.2. Hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa ..................................... 71 3.1.3. Yêu cầu đẩy mạnh cải cách hành chính ............................................ 72 3.1.4. Yêu cầu nâng cao đạo đức công vụ của công chức trong giai đoạn đổi mới hiện nay .......................................................................................... 74 3.2. Một số giải pháp nâng cao đạo đức công vụ ở Việt Nam hiện nay ... 77 3.2.1. Nâng cao nhận thức của đội ngũ công chức về vai trò của đạo đức công vụ......................................................................................................... 77 3.2.2. Nghiên cứu, xây dựng Luật Đạo đức công vụ ................................... 80 3.2.3. Nhóm giải pháp về giáo dục, đề cao giá trị đạo đức, sự tự rèn luyện và tu dưỡng của cán bộ, công chức ............................................................. 86 3.2.4. Nhóm giải pháp đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý công chức, tạo điều kiện công chức phát huy đạo đức, thực hiện tốt nhiệm vụ, phục vụ tốt nhân dân ...................................................................................................... 92 3.2.5. Nhóm giải pháp về đãi ngộ vật chất, tinh thần đối với cán bộ, công chức ................................................................................................. 102 *Kết luận Chƣơng 3: ................................................................... 108 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 109 KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................ 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................... 111 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Một trong những nội dung cơ bản trong “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020” của nước ta được thông qua tại Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhằm tạo nên bước chuyển mạnh mẽ về cải cách hành chính trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Mấu chốt của những yêu cầu đó, xét đến cùng, chính là nằm ở chất lượng nhân tố con người, cụ thể ở đây là đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Việt Nam, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nâng cao đạo đức công vụ, chất lượng thực thi công vụ là nội dung cốt lõi của công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, minh bạch, dân chủ, chuyên nghiệp, có đủ hiệu lực, hiệu quả. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu vấn đề đạo đức công chức không chỉ có giá trị về mặt khoa học, mà còn có ý nghĩa thực tiễn dựa trên những lý do chủ yếu, cấp thiết sau đây: Một là, đạo đức công chức là yếu tố bản chất trong quản lý xã hội của nhà nước. Vì vậy nâng cao đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay là nhiệm vụ cấp bách trong quá trình cải cách nền hành chính quốc gia. Hai là, sự vận động theo hướng tiến bộ của đạo đức công vụ phản ánh xu thế phát triển nội tại, tích cực và khách quan của các chế độ nhà nước trong lịch sử. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân; do đó, mục tiêu của nó không gì khác là phục vụ nhân dân ngày càng hiệu quả hơn, tốt hơn. Ba là, những thách thức của thực tiễn xã hội Việt Nam về yêu cầu của xã hội trong nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi định hướng phát triển mới trong nhận thức và nâng cao đạo đức công vụ. Sau gần 30 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức không nhỏ: suy thoái về phẩm chất đạo đức, thiếu ý thức trách nhiệm trong công vụ của một bộ phận công chức nhà nước. Vì vậy, việc nâng cao đạo đức công chức đang trở thành một đòi hỏi bức thiết không chỉ của nền hành chính quốc gia mà còn là yêu cầu của thời đại. Từ những lý do nêu trên cũng như mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nhận thức và giải quyết vấn đề này từ giác độ lý luận và thực tiễn, tác giả 1 mạnh dạn chọn đề tài “Đạo đức công vụ của đội ngũ công chức trong giai đoạn đổi mới ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Khoa học quản lý của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Ở nước ta, trong thời gian vừa qua có khá nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà quản lý viết về vấn đề này. Trong đó, hầu hết các tác giả thường sử dụng thuật ngữ “đạo đức công chức” được hiểu như là “đạo đức công vụ”, đạo đức của cán bộ, công chức, đạo đức cán bộ đảng viên. Có thể nêu ra một số công trình tiêu biểu, như cuốn “Tìm hiểu về nền hành chính nhà nước” của tác giả Nguyễn Hữu Khiển, do Nxb Lao động – Xã hội ấn hành năm 2003; “Giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, do Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2005; Gs.Ts Bùi Thế Vĩnh (chủ biên) với cuốn sách “Xây dựng đạo đức cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; “Công vụ, công chức nhà nước” của tác giả Phạm Hồng Thái, do Nxb Tư pháp ấn hành năm 2004; “Đạo đức trong nền công vụ” của nhóm tác giả Tô Tử Hạ, Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thị Kim Thảo, do Nxb Lao động – Xã hội ấn hành năm 2002; “Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên), do Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành năm 2003; Luật Cán bộ, công chức năm 2008 do Nxb Lao động ấn hành; Nguyễn Hữu Khiển với bài “Đạo đức công vụ và vấn đề nâng cao đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học số tháng 10/2003; Phạm Hồng Thái với bài “Bàn về hoàn thiện thể chế công vụ và xây dựng khung của Luật công vụ Việt Nam”, Tạp chí Quản lý Nhà nước tháng 8/2006; Cao Minh Công với bài “Đạo đức công chức trong thực thi công vụ”, Tạp chí Quản lý Nhà nước số tháng 11/2008, Võ Kim Sơn với bài “Đạo đức thực thi công vụ nhìn từ vụ việc ở Tiên Lãng – Hải Phòng”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 3 năm 2012,… Các công trình trên đã đề cập đến nhiều nội dung phong phú như bàn về khái niệm đạo đức công vụ, nội dung, vai trò và ý nghĩa của đạo đức công vụ trong việc thực thi công vụ. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 là văn bản pháp luật cao 2 nhất kể từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam liên quan đến cán bộ, công chức đề cập đến trách nhiệm công vụ, đạo đức công chức. Bên cạnh những quy định cụ thể đối với các đối tượng là cán bộ, công chức, cán bộ công chức cấp cơ sở, Luật này đã bước đầu quy định một số nội dung có tính định hướng giá trị về cách ứng xử của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ phục vụ nhân dân. Lần đầu tiên thuật ngữ đạo đức cán bộ, công chức được quy định tại một điều luật – Điều 12. Đạo đức cán bộ, công chức. Cán bộ, công chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu trên chưa phân tích và làm rõ đạo đức công chức là như thế nào, hệ thống giải pháp cụ thể để giải quyết những mặt hạn chế trong đạo đức thực thi công vụ hiện nay? Đặc biệt, nhiều nghiên cứu vẫn chưa nhấn mạnh yêu cầu của giai đoạn đổi mới hiện nay, những thuận lợi và thách thức mà thời đại đặt ra đối với đội ngũ nhân lực hành chính nói chung và đối tượng cán bộ, công chức nói riêng. Ngoài ra, đề cập đến đạo đức công vụ, thuộc lĩnh vực hành chính công có một số nghiên cứu của nước ngoài về đạo đức công chức đáng lưu ý như tác giả Allan Rosenbaun với cuốn “Professionnalisme et Ethique du Fonctionnaire: un Defi pour le 21eme Siecle” (Tính chuyên nghiệp và đạo đức công chức – sự thách đố của thế kỷ XXI), do Viện Khoa học Hành chính quốc tế Bruxelles ấn hành năm 1998; tác giả Andre Duhamel, Noureddine Mouelhi với cuốn “Ethique: Histoire, Politique, Applicatinon” (Đạo đức; lịch sử, chính trị ứng dụng), do Nxb Geatan Morin ấn hành năm 2002, tại Quebec – Canada; Chuẩn mực đạo đức mới của Trung Quốc; Bộ quy chuẩn giá trị (luật) đạo đức công vụ của một số nước Asean; Tìm hiểu hành chính công Hoa Kỳ: Lý thuyết và thực tiễn, do tác giả Nguyễn Hữu Hải (chủ biên) năm 2009; Bộ Quy chuẩn giá trị và quy định đạo đức công vụ của Canada năm 2003… Có thể nói phần lớn các quốc gia trên thế giới đều cho rằng phải xây dựng đạo đức công chức. Song, những giá trị hay quy tắc đạo đức thì không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, đa số khi đề cập đến nhà nước và nền công vụ, các nghiên cứu trên đều chú trọng đến việc vạch ra khung hay hành lang pháp lý hợp lý nhằm thúc đẩy cá nhân công chức thực thi công vụ của mình một cách có đạo đức với những chuẩn mực khắt khe nhất, giữ thái độ khách quan, tránh những 3 xung đột về lợi ích trong thực thi công vụ. Cùng với đó, cá nhân công chức thể hiện tinh thần trách nhiệm cao nhất của sự liêm chính nhằm bảo vệ tính toàn vẹn quyền công dân, duy trì và cải thiện niềm tin của công dân đối với nền công vụ. Đồng thời hướng đến xây dựng dạo đức công chức nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp và góp phần hoàn thiện nhân cách của người công chức trong thực thi công vụ. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề đạo đức công chức trong thực thi công vụ trong giai đoạn đổi mới hiện nay có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn, hình thành cơ sở cho việc định hướng và xây dựng các nhóm giải pháp nhằm nâng cao đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay. 3. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đạo đức công vụ và đánh giá thực trạng đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay, luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao đạo đức công vụ nhằm góp phần đẩy mạnh quá trình cải cách, đổi mới và hội nhập quốc tế. 4. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Đạo đức công vụ của đội ngũ công chức trong giai đoạn đổi mới ở nước ta hiện nay - Phạm vi thời gian: Từ năm 1986 đến 2014 5. Mẫu khảo sát: Cán bộ, công chức Bộ Nội vụ 6. Vấn đề nghiên cứu - Thực trạng đạo đức công vụ của đội ngũ công chức ở nước ta hiện nay như thế nào? - Cần hoàn thiện đạo đức công vụ cho người công chức trong giai đoạn đổi mới ở nước ta hiện nay như thế nào? 7. Giả thuyết nghiên cứu - Kể từ sau năm 1945 đến nay, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy định về chế độ công chức và các chuẩn mực đạo đức của công chức. Tuy nhiên thực trạng thực thi đạo đức công vụ của công chức còn nhiều hạn chế, bên cạnh những thành tựu đáng kể đạt được về trình độ chuyên môn, kiến thức và kỹ năng, kinh nghiệm công tác, phẩm chất chính trị, tư tưởng và năng lực thực 4 thi công vụ vẫn còn một bộ phận công chức suy thoái về đạo đức, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và thiếu ý thức trách nhiệm trong hoạt động công vụ gây mất niềm tin trong quần chúng. - Hoàn thiện đạo đức công vụ cho người công chức dựa trên 4 lĩnh vực: Nâng cao nhận thức công chức về đạo đức công vụ; Xây dựng các chương trình giáo dục, đào tạo kết hợp giữa lý luận và thực tiễn; Xây dựng Luật Đạo đức công vụ; Hoàn thiện thể chế quản lý; Cải cách hệ thống tiền lương. 8. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích – tổng hợp; - Phương pháp hệ thống; - Phương pháp thống kê; - Phương pháp phỏng vấn sâu. 9. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, bảng biểu, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung Luận văn gồm 3 chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về đạo đức công vụ Chương 2: Thực trạng đạo đức công vụ ở Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao đạo đức công vụ ở nước ta hiện nay 5 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ 1.1. Đạo đức công vụ và vai trò của đạo đức công vụ trong giai đoạn đổi mới hiện nay 1.1.1. Khái niệm công chức và công vụ a) Công chức: Thuật ngữ công chức được sử dụng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới để chỉ những người thực hiện công vụ thường xuyên trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Đây là thuật ngữ có tính lịch sử, hình thành trong những điều kiện nhất định, cùng với chế độ công vụ tiến bộ trong tiến trình phát triển của nhà nước và xã hội. Nội dung của nó phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống thể chế chính trị; tổ chức bộ máy nhà nước; sự phát triển kinh tế - xã hội; tính truyền thống và các yếu tố văn hoá, lịch sử cụ thể ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, có thể khái quát rằng, ở nhiều quốc gia, đặc điểm chung của công chức thường phải là công dân của nước đó; được tuyển dụng qua thi tuyển hoặc xét tuyển; được bổ nhiệm vào một ngạch, một chức danh hoặc gắn với một vị trí việc làm; được hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Tại Việt Nam, công chức là thuật ngữ cơ bản của chế độ công vụ. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài trong nhận thức cũng như trong các hoạt động quản lý, chúng ta chưa xác định được sự khác biệt giữa các thuật ngữ “cán bộ; công chức; viên chức”. Do vậy, ngày 13/11/2008 Luật Cán bộ, công chức được ban hành đã góp phần làm rõ hơn khái niệm công chức Nhà nước, theo đó tại khoản 2, Điều 4 có quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo 6 đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [21, Điều 4]. Theo quy định này thì tiêu chí để xác định công chức gắn với cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Những người đủ các tiêu chí chung của cán bộ, công chức mà được tuyển vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thông qua quy chế tuyển dụng (thi tuyển, xét tuyển), bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh thì được xác định là công chức. Công chức là những người được tuyển dụng lâu dài, hoạt động của họ gắn với quyền lực công (hoặc quyền hạn hành chính nhất định) được cơ quan có thẩm quyền trao cho và chịu trách nhiệm trước cơ quan, tổ chức có thẩm quyền về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Việc quy định công chức trong phạm vi như vậy xuất phát từ mối quan hệ liên thông giữa các cơ quan của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị. Đây là điểm đặc thù của Việt Nam rất khác so với một số nước trên thế giới nhưng lại hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể và thể chế chính trị ở Việt Nam. Tuy nhiên, phạm vi công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý các đơn vị sự nghiệp công lập rộng hay hẹp còn tuỳ thuộc vào quy mô, phạm vi hoạt động của từng đơn vị sự nghiệp; vào cấp có thẩm quyền thành lập và quản lý. Do vậy, tại Điều 2, Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25-01-2010, Chính phủ đã quy định cụ thể những người là công chức: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị quy định tại Nghị định này” [31, Điều 2]. Theo đó, từ Điều 3 đến Điều 11, công chức trong các cơ quan như Đảng Cộng sản Việt Nam, Công chức trong Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước, ông chức trong Bộ, cơ quan ngang Bộ và các tổ chức khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập, Công chức trong cơ quan hành chính ở cấp tỉnh, cấp huyện, tổ chức chính trị - xã hội, bộ máy lãnh đạo, quản lý đơn vị sự nghiệp công lập, lực lượng vũ trang đã được quy định cụ thể. Như vậy, có thể thấy từ Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đến Nghị định 06/2010/NĐ-CP của Chính phủ, các văn bản 7 đã quy định được tiêu chí phân định ai là cán bộ, ai là công chức. Tiêu chí phân định cán bộ thông qua cơ chế bầu cử hoặc phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ; tiêu chí xác định công chức là cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh. Tuy nhiên, do đặc điểm của thể chế chính trị ở Việt Nam, mặc dù đã phân định cán bộ và công chức theo các tiêu chí gắn với cơ chế hình thành nhưng điều đó cũng chỉ mang tính tương đối. Giữa cán bộ và công chức vẫn có những điểm chồng lấn, lưỡng tính. b) Công vụ: Công vụ là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước do cán bộ, công chức tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ lợi ích nhà nước, nhân dân và xã hội. Tuy nhiên trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam, do đặc thù về thể chế chính trị nên công vụ còn bao gồm cả hoạt động thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội. Chế độ công vụ, công chức luôn mang tính chính trị - pháp lý, chịu sự chi phối của các quan hệ chính trị - xã hội và được pháp luật điều chỉnh. Vì vậy, mỗi quốc gia, mỗi thời đại có những quan niệm, quy định pháp luật khác nhau về chế độ công vụ, công chức. Nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống nhà nước và xã hội của tất cả các quốc gia, vì mọi chủ trương, chính sách và pháp luật trong xã hội đều do các cơ quan nhà nước - những người có thẩm quyền đặt ra, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện. Như chúng ta biết, nền công vụ của bất kỳ một quốc gia nào cũng luôn gắn liền và quan hệ chặt chẽ với vấn đề công chức. Các hoạt động của công chức trong bộ máy nhà nước chính là hình ảnh phản ánh nền công vụ quốc gia. Do đó, khi nói đến công chức, không thể không đề cập đến hoạt động công vụ, bởi công vụ là một dạng hoạt động hay lao động đặc biệt do công chức của bộ máy nhà nước thực hiện. Theo quan niệm của PGS.TS Phạm Hồng Thái: “Công vụ là công việc, hoạt động nhà nước chủ yếu do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước và pháp luật, được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước, pháp luật và sử dụng quyền lực đó để thực thi các nhiệm vụ, chức năng của nhà nước” [35; 44]. 8 Như vậy, nói đến hoạt động công vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, công chức trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội, họ nhân danh quyền lực công thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy định của pháp luật. Về mặt pháp lý, trách nhiệm của cán bộ, công chức thường được xem xét trong mối quan hệ thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, bất kỳ Nhà nước nào cũng phải xây dựng một nền công vụ hiệu lực, hiệu quả và nhấn mạnh đến trách nhiệm công vụ. Nền công vụ của mỗi quốc gia luôn phải tương thích với thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước hiện hành. Các quốc gia có thể chế chính trị và tổ chức bộ máy nhà nước khác nhau thì quan niệm về hoạt động công vụ cũng có những điểm khác nhau. Tuy nhiên, xét đến cùng thì bản chất và mục tiêu của hoạt động công vụ đều giống nhau. Công vụ là lao động đặc thù của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, nhân danh quyền lực công để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước, thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống và phục vụ nhân dân. Ở Việt Nam, do đặc thù riêng, các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội là một hệ thống chính trị thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Giữa các cơ quan, tổ chức này luôn có sự liên thông trong sử dụng nguồn nhân lực. Do đó, hoạt động công vụ không chỉ thuần tuý là hoạt động của cán bộ, công chức nhân danh quyền lực công, mà còn được hiểu là các hoạt động trong phạm vi rộng hơn. Theo đó, hoạt động công vụ được hiểu là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập. Để khẳng định tính đặc thù này, Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định hoạt động công vụ "là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của luật này và các quy định khác có liên quan" [22; Điều 2]. Cán bộ, công chức khi tham gia hoạt động công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ và có trách nhiệm thực hiện đúng quyền hạn được giao. Để đạt được điều đó, bên cạnh năng lực, trình độ, cán bộ, công chức còn phải hội đủ và thường xuyên rèn luyện phẩm chất, đạo đức để bảo đảm các quy định về đạo đức công vụ, đặc biệt là trách nhiệm trong công vụ. 9 1.1.2. Đạo đức và đạo đức công vụ a) Đạo đức: Xã hội loài người đã tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi của con người như phong tục, tập quán, pháp luật, và đạo đức cũng là một phương thức điều chỉnh như vậy. Đạo đức đánh giá hành vi con người dưới góc độ về chuẩn mực, về thiện, ác, nghĩa vụ, danh dự, lương tâm, hạnh phúc. Tuy nhiên, nội hàm của các khái niệm thuộc lĩnh vực đạo đức trong mỗi thời đại, mỗi chế độ xã hội ít nhiều có sự khác nhau. Do vậy, mỗi cá nhân con người sống trong xã hội cụ thể, luôn phải có trách nhiệm chuyển những đòi hỏi của xã hội thành nhu cầu, mục đích và hứng thú trong mọi hoạt động của mình. Sự chuyển biến từ yêu cầu của xã hội thành hành vi đạo đức của mỗi cá nhân là việc tuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực mà xã hội ngăn cấm và tích cực hoạt động theo những gì được dư luận xã hội khuyến khích. Yêu cầu của xã hội dần dần thay đổi thì quan hệ và hành vi đạo đức cũng có sự thay đổi tương ứng. Xã hội phát triển thì ý thức, hành vi và quan hệ đạo đức cũng vận động theo xu hướng tích cực, tiến bộ và ngày càng giàu ý nghĩa nhân văn hơn. Hệ thống các giá trị đạo đức hình thành, phát triển và hoàn thiện gắn liền với sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức, trong đó lý tưởng và tấm gương đạo đức của các vĩ nhân ở mỗi thời kỳ đóng vai trò định hướng. Hệ thống giá trị đạo đức mang tính chất tích cực tiến bộ khi nó phù hợp với sự phát triển tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đi lên của xã hội. Với tư cách là hình thái ý thức xã hội “đạo đức là toàn bộ tư tưởng, quan điểm về nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [17; 9]. Đạo đức bao gồm ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức: Ý thức đạo đức là sự thể hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống chuẩn mực và những quy tắc đạo đức do xã hội đặt ra, giúp con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành nghĩa vụ đạo đức một cách tự nguyện. Ý thức đạo đức bao gồm cả tri thức và tình cảm đạo đức. Trong đó, tình cảm đạo đức là yếu tố quan trọng góp phần chuyển hóa tri thức thành hành vi đạo đức đúng đắn. 10 Thực tiễn đạo đức là hoạt động của con người dưới sự tác động của niềm tin, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức trong đời sống xã hội. Nó chính là hệ thống các hành vi đạo đức của con người được nảy sinh trên cơ sở chỉ dẫn của ý thức đạo đức. Đạo đức là một dạng của quan hệ xã hội nên bao giờ cũng mang tính xã hội, là đạo đức xã hội; là sự thống nhất biện chứng giữa đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Đạo đức cá nhân là biểu hiện đặc thù của đạo đức xã hội. Đó là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ, phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân về lợi ích và hoạt động của họ. Trong xã hội, mỗi cá nhân tiếp thu đạo đức xã hội khác nhau và tác động, ảnh hưởng trở lại xã hội cũng khác nhau. Đạo đức xã hội là tổng hòa những nhu cầu phổ biến được đúc kết từ tinh hoa của đạo đức cá nhân; nó trở thành cái chung của một giai cấp, một dân tộc, một thời đại nhất định. Nó được duy trì, kế thừa, củng cố thông qua phong tục, tập quán, truyền thống, vận động, biến đổi và phát triển cùng với các hoạt động giao tiếp xã hội. Như vậy, đạo đức là sản phẩm tổng hợp của các yếu tố, cả chủ quan lẫn khách quan trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Những quan hệ cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội càng có tính tự giác, càng có tính xã hội rộng lớn thì hoạt động của con người càng mang tính đạo đức. Do đó, những quy tắc, chuẩn mực đạo đức đã đưa ra, yêu cầu mỗi cá nhân điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích chung của xã hội. b) Đạo đức công vụ: Xét trong mối tương quan với hoạt động công vụ, khi nghiên cứu đạo đức công vụ, ta cần xem xét dựa trên nền tảng chung của các quan niệm về đạo đức, đạo đức nghề nghiệp. Theo đó, đạo đức công vụ của cán bộ, công chức bao gồm: Đạo đức cách mạng, đạo đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp; trong đó đạo đức cách mạng là nền tảng, là gốc, là sức mạnh của người công chức: Đạo đức cách mạng của người công chức theo Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm: nhân, trí, dũng, liêm. Đi kèm với 4 đức: Cần, kiệm, liêm, chính mà “thiếu một đức thì không thành người” [26; 17]. Đạo đức cách mạng thể hiện ở: Tinh thần yêu nước nồng nàn, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của 11 Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Đạo đức cá nhân của người công chức nhà nước trước hết thể hiện ở ý thức, niềm tin vào định hướng xã hội chủ nghĩa, quyết tâm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phẩm chất đạo đức của người công chức còn thể hiện ở tinh thần và ý thức biết tôn trọng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, sống và làm việc theo pháp luật, có lối sống lành mạnh, không tham ô, lãng phí, có trách nhiệm cao trong thi hành công vụ, có lòng nhân ái, vị tha, ứng xử đúng đắn trong quan hệ gia đình – bạn bè và trong xã hội, có tinh thần hướng thiện, hiếu học. Xã hội càng dân chủ càng đòi hỏi đạo đức cá nhân của người công chức phải được hoàn thiện, mẫu mực vì chính họ là những người đứng đầu giải quyết quyền lợi, nghĩa vụ của công dân, giữ gìn kỷ cương phép nước. Địa vị pháp lý của công chức buộc họ phải luôn tự rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, tu dưỡng bản thân để không mắc phải các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Đạo đức nghề nghiệp của người công chức thể hiện trước hết ở lòng say mê, cần mẫn, tinh thần trách nhiệm và đề cao kỷ luật trong thi hành công vụ. Đó là ý thức luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ, công vụ được giảo, kể cả khi gặp khó khăn, phức tạp. Nhờ đó mà cán bộ, công chức hành chính luôn cố gắng tìm kiếm những phương tiện, giải pháp, sáng kiến khác nhau để hoàn thành nhiệm vụ, công vụ. Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi người công chức phải biết tiết kiệm, không chỉ cho bản thân mình mà quan trọng hơn là tiết kiệm thời gian, tiền của của nhân dân, tiết kiệm công sản, công quỹ, tiết kiệm tài nguyên của đất nước, chống lãng phí trong cơ quan nhà nước. Quá trình hình thành đạo đức thực thi công việc của công chức (đạo đức công vụ): Quá trình hình thành đạo đức công vụ của công chức có thể chia thành 3 giai đoạn [15; 180]. Tuy nhiên, việc phân chia chi tiết các giai đoạn này chỉ mang tính tương đối:  Giai đoạn tự phát: Quá trình hình thành đạo đức công vụ cũng giống như quá trình hình thành đạo đức nói chung. Đó là một quá trình từ nhận thức, ý thức 12 đến tư duy hành động và cuối cùng được chuẩn hóa thành quy tắc, quy chế và pháp luật của nhà nước. Nếu đạo đức xã hội là sản phẩm của các hình thái ý thức xã hội, thì đạo đức công vụ phải là sản phẩm tất yếu của quá trình hình thành và phát triển các mô hình nhà nước với những con người cụ thể làm việc cho nhà nước. Mỗi một hình thái xã hội gắn liền với một hình thái nhà nước, những giá trị cốt lõi của hoạt động công vụ cũng sẽ thay đổi cùng với sự thay đổi của hành vi, cách ứng xử, quan hệ để đạt đến một chuẩn mực nào đó. Xã hội loài người trải qua nhiều cuộc cách mạng. Đó là sự thay thế một chế độ xã hội này bằng một chế độ xã hội khác. Mỗi chế độ tiếp theo sau vừa mang tính kế thừa vừa mang tính phát triển. Điều đó làm cho các giá trị của hoạt động nhà nước thay đổi theo. Nếu trong xã hội phong kiến, tư tưởng “trung quân, ái quốc” được đề cao thông qua các “khẩu dụ” của vua với mọi hành động được coi như là “hành xử mẫu mực” thì đến thời kỳ thống trị của giai cấp tư sản, giới cầm quyền lại mong muốn xây dựng một nhà nước “cộng hòa”, dân chủ trong hoạt động công vụ của nhà nước. Và điều này đặt ra những tư duy mới về giá trị và đạo đức. Tư tưởng pháp quyền; tam quyền phân lập làm cho các giá trị hoạt động công vụ cũng thay đổi theo. Giai cấp vô sản đứng lên làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư sản ở một số nước trên thế giới và mong muốn xây dựng một xã hội mới, dựa trên những quan hệ mới. Quan hệ sản xuất được xác lập trên cơ sở lợi ích và hạnh phúc của nhân dân lao động; sự công bằng trong hưởng thụ và sự hài hòa giữa lợi ích cá nhân - lợi ích xã hội; lấy chủ nghĩa nhân đạo cao cả cho việc giải quyết các quan hệ; quan hệ giữa con người và con người mang tính bình đẳng hơn, chú trọng xây dựng một nhà nước “của dân, do dân và vì dân đích thực”. Từ đó tạo ra một nền tảng mới của “đạo đức vô sản”. Đây cũng là nền tảng cho sự ra đời một “cơ chế tập trung, bao cấp” như đã và đang tồn tại ở một số nước. Những giá trị của công vụ không chỉ được nhìn nhận, xem xét từ trong các tổ chức nhà nước mà vai trò của nhân dân ngày càng gia tăng đòi hỏi phải thiết lập và vươn đến những giá trị mới. Một nhà nước ngày càng dân chủ trong tất cả các phương diện; vai trò của nhân dân ngày càng trở thành yếu tố quan trọng để giám sát các hành vi ứng xử của công chức có vươn đến giá trị cốt lõi mà công dân mong muốn hay không. 13  Giai đoạn pháp luật hóa các giá trị đạo đức công vụ: Trào lưu chung của tất cả các nước trên thế giới là phải pháp luật hóa những giá trị cối lõi của công vụ (pháp luật về công vụ) và những quy tắc, chuẩn mực giá trị đạo đức và hành vi ứng xử của công chức. Từ các nước phát triển đến các nước đang và chậm phát triển đã dần dần từng bước đưa ra những giá trị chuẩn mực cho thực thi công vụ của công chức. Đây cũng là nét khác biệt giữa đạo đức nói chung và đạo đức mang tính chuẩn mực pháp lý đối với những người thực thi công việc của nhà nước. Nhiều nước ban hành “chuẩn mực đạo đức công vụ” dưới hình thức là “chuẩn mực – code” nhưng có tính pháp lý cao của một văn bản pháp luật. Điều đó có nghĩa là “giá trị đạo đức” mang tính cưỡng bức thực hiện hơn là “tự nguyện, cam kết”. Đó cũng là giai đoạn cần thiết khi mà hoạt động công vụ của công chức mang tính đặc trưng như đã trình bày ở trên.  Giai đoạn tự giác: Quá trình hình thành đạo đức công vụ là một quá trình phát triển nhận thức từ tự phát (đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội) đến thể chế hóa thành pháp luật của nhà nước và cuối cùng phải nâng lên theo chuẩn mực đạo đức mang tính tự giác. Ba giai đoạn phát triển của hình thành đạo đức công vụ có ý nghĩa khác nhau, nhưng phải hướng đến đích cuối cùng là tự giác trong việc thực hiện các hành vi đạo đức mang ý nghĩa đặc trưng cho công vụ. Đây cũng là mục tiêu trong tổ chức quản lý con người mà các quốc gia có nền công vụ văn minh hướng đến bởi vì khó có thể kiểm soát mọi hoạt động của công chức bằng công cụ pháp luật vì tính đa dạng, tính toàn diện của hoạt động công vụ. Nếu thiếu tự giác, công chức sẽ “thiên vị, tư lợi” và những hành động này khó có thể phát hiện. Phải làm cho công chức thấm nhuần những tư tưởng, giá trị và chuẩn mực của đạo đức công chức mọi lúc mọi nơi trên tinh thần tự giác – không phải dựa trên “phong trào” hay sự cổ động [15; 182]. Như vậy, đạo đức công vụ là hệ thống các nguyên tắc, các quy tắc, hành vi, xử sự nhằm điều chỉnh thái độ, hành vi, chức trách, bổn phận, nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ. Do đó, đạo đức công vụ phải được chuẩn hóa thành pháp luật và phải đào tạo, giáo dục công chức ngấm sâu vào quá trình thực thi của họ những ý niệm, khái niệm và cách thức xử lý. Đạo đức công vụ ở Việt Nam được xây dựng trên nền tảng triết lý nhà nước là của dân, do dân 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan