Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dạy học các bài thơ hát nói trong sách giáo khoa ngữ văn 11 theo đặc trưng thể l...

Tài liệu Dạy học các bài thơ hát nói trong sách giáo khoa ngữ văn 11 theo đặc trưng thể loại

.PDF
116
241
98

Mô tả:

\ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THANH LOAN DẠY HỌC CÁC BÀI THƠ HÁT NÓI TRONG SGK NGỮ VĂN 11 THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Thái Nguyên, năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THANH LOAN DẠY HỌC CÁC BÀI THƠ HÁT NÓI TRONG SGK NGỮ VĂN 11 THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI CHUYÊN NGÀNH: LL&PP DẠY HỌC VĂN – TIẾNG VIỆT Mã số: 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS HOÀNG HỮU BỘI Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Em xin đƣợc bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc của mình tới PGS. TS Hoàng Hữu Bội – ngƣời thầy đã tận tâm hƣớng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa Ngữ Văn và khoa Sau đại học - trƣờng Đại học Sƣ phạm Thái Nguyên – Đại học Thái Nguyên, đã tạo điều kiện - giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện, giúp đỡ, động viên em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thanh Loan CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN THPT : Trung học phổ thông PT : Phổ thông NXB : Nhà xuất bản GS : Giáo sƣ GV : Giáo viên HS : Học sinh SGK : Sách giáo khoa TPVC : Tác phẩm văn chƣơng MỤC LỤC Trang A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3 2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................ 6 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. .............................................................................. 7 6. Phƣơng pháp nghiên cứu. ......................................................................... 7 B. PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ...... 9 1.1 Cơ sở lý luận .......................................................................................... 9 1.1.1 Khái niệm thơ hát nói ...................................................................... 9 1.1.2 Đặc trƣng thể loại của thơ hát nói. ................................................. 13 1.2 Cơ sở thực tiễn: Thành tựu của thơ hát nói trong văn học trung đại Việt Nam. ................................................................................................... 31 1.2.1 Thế kỷ XIX .................................................................................... 31 1.2.2 Thế kỷ XX ..................................................................................... 44 Chƣơng 2: ĐỊNH HƢỚNG DẠY HỌC CÁC TÁC PHẨM THƠ HÁT NÓI .. 47 THEO ĐẶC TRƢNG THỂ LOẠI ............................................................... 47 2.1 Thực trạng dạy và học thơ hát nói ở trƣờng phổ thông.......................... 47 2.1.1 Học sinh THPT với thơ hát nói: ..................................................... 47 2.1.2 Giáo viên với việc dạy các văn bản thơ hát nói ............................. 50 2.2 Định hƣớng dạy các văn bản thơ hát nói trong SGK Ngữ văn 11 .......... 67 2.2.1 Xác định nội dung bài dạy ............................................................. 68 2.2.2 Tổ chức HS đọc và tìm hiểu bài thơ theo hƣớng đổi mới phƣơng pháp giảng dạy ....................................................................................... 73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 Chƣơng 3: THƢ̣C NGHIỆM SƢ PHẠM .................................................... 85 3.1 Thiết kế bài học .................................................................................... 85 3.1.1 Thiết kế bài học “Bài ca ngất ngƣởng” của Nguyễn Công Trứ. ...... 85 3.1.2 Thiết kế bài “Bài ca phong cảnh Hƣơng Sơn” của Chu Mạnh Trinh...... 94 2.1.2 Bắt đầu đi vào thăm thú Hƣơng Sơn .............................................. 99 2.1.3 Vào trung tâm quần thể Hƣơng Sơn ..............................................100 2.1.3 Lời tự bạch của nhà thơ ................................................................101 3.2 Tổ chức dạy thực nghiệm. ...................................................................103 3.2.1. Chọn lớp thực nghiệm và thời gian thực nghiệm..........................103 3.2.2. Kết quả thực nghiệm: ...................................................................103 3.2.3. Đánh giá: .....................................................................................105 C. PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................108 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1 Vấn đề dạy học TPVC theo thể loại đã đƣợc đặt ra từ lâu (từ những năm 70 của thế kỷ XX), những vấn đề cơ bản, đƣờng hƣớng chung của các thể loại lớn đã đƣợc bàn đến. Song đi vào tác phẩm cụ thể lại đòi hỏi vận dụng một cách sáng tạo các đƣờng hƣớng chung, riêng phần thơ hát nói trong các văn bản cụ thể vừa đƣợc lựa chọn vào chƣơng trình SGK Ngữ văn mới cũng chƣa có công trình nào nói đến một cách đầy đủ. Do đó, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Dạy học các bài thơ hát nói trong SGK Ngữ văn 11 theo đặc trƣng thể loại” với hi vọng có thể đóng góp thêm một tiếng nói nhỏ bé vào vấn đề lý thuyết dạy học TPVC theo thể loại. 1.2 Chƣơng trình SGK mới của môn Ngữ văn (đƣợc thực thi từ năm học 2006 – 2007) có sự lựa chọn lại và xếp thành từng cụm thể loại các văn bản văn học. Riêng thể loại thơ hát nói trong SGK Ngữ văn 11 có 2 bài: “Bài ca ngất ngƣởng” của Nguyễn Công Trứ và “Bài ca phong cảnh Hƣơng Sơn” của Chu Mạnh Trinh. Khi thực thi chƣơng trình này, GV và HS chƣa hết những khó khăn lúng túng trong việc dạy học các văn bản hát nói ấy theo đặc trƣng thể loại của nó. Do đó chúng tôi đã chọn đề tài này với mong muốn tìm ra những biện pháp khắc phục khó khăn khi giảng dạy các văn bản đó. Trƣớc hết phục vụ cho chính mình, sau đó cùng các bạn đồng nghiệp dạy tác phẩm thơ hát nói trong trƣờng phổ thông đạt hiệu quả cao. 2. Lịch sử vấn đề 2.1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ hát nói Với tƣ cách là một thể loại hết sức độc đáo của văn học, hát nói đã thu hút đƣợc sự quan tâm, đánh giá của các nhà nghiên cứu. Mặc dù các tài liệu hát nói có số lƣợng khá khiêm tốn nhƣng đã đề cập đến một số khía cạnh của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 thể loại nhƣ nguồn gốc, nội dung, hình thức. Hầu hết các tài liệu về hát nói mới chỉ nghiên cứu nó ở mức độ khái quát, nhìn chung là chƣa đầy đủ và toàn diện. Hầu nhƣ chƣa xuất hiện một công trình nào có tính chất chuyên luận nghiên cứu kỹ càng, công phu, toàn diện về thể loại hát nói. Những cuốn sách đầu tiên viết về hát nói phải kể đến “Đào nƣơng ca” của Nguyễn Văn Ngọc, “Hát ả đào” của Hoàng Sơn, “Ca trù thể cách” của Xuân Lan, “Việt Nam ca trù biên khảo” của Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề. Đây là những cuốn sách rất có giá trị trong việc khảo sát một cách hoàn chỉnh thể loại hát nói. Song điều đáng tiếc là trong quá trình thu thập tài liệu, chúng tôi không có đƣợc văn bản nên không đƣa ra đƣợc những dẫn chứng cụ thể. Đó là một hạn chế trong đề tài nghiên cứu của chúng tôi. Các nhà nghiên cứu tuy mới chỉ dừng ở mức độ khái quát nhƣng đã đƣa ra những nhận xét, đánh giá có tính định hƣớng quan trọng trong việc tìm hiểu một cách hệ thống và toàn diện thể loại hát nói. Đó là các công trình: “Tuyển tập thơ ca trù” của Ngô Linh Ngọc, Ngô Văn Phú; “Việt Nam văn học sử yếu” của tác giả Dƣơng Quảng Hàm; “Thơ ca Việt nam – hình thức và thể loại” của Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức; Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX” của tác giả Nguyễn Lộc; “Từ điển thuật ngữ văn học” của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên; “Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam” của Trần Đình Sử. Nếu nhƣ trong “Tuyển tập thơ ca trù”, tác giả Ngô Linh Ngọc, Ngô Văn Phú trong phần giới thiệu đầu sách tập trung khá kỹ vào việc tìm hiểu nguồn gốc và khái quát quá trình phát triển của hát nói thì tác giả Dƣơng Quảng Hàm trong “Việt Nam văn học sử yếu” lại dành sự quan tâm về mặt hình thức của thể loại này, tác giả mới chỉ đƣa ra một số kết quả khảo sát chủ yếu là về bố cục, luật bằng trắc, cách gieo vần trong hát nói, qua đó chỉ ra một vài đặc điểm về hình thức thể loại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Cuốn “Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại” của Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức và “Mấy vấn đề thi pháp Văn học trung đại Việt Nam” của Trần Đình Sử đều là những cuốn sách có mục đích tìm hiểu về mặt hình thức của hát nói nhƣng các tác giả cũng đều chỉ mới dừng lại ở những đặc điểm khái quát mang tính chất gợi mở chứ chƣa đi sâu vào tƣ̀ng tác phẩm cụ thể. Cuốn “Tìm hiểu các thể thơ” (từ cổ phong đến thơ luật) của tác giả Lạc Nam xuất bản năm 1993 cũng đã dành một chƣơng với tên “Ca trù” trong đó tác giả đã khảo sát và đƣa ra dẫn chứng cụ thể minh hoạ về các mặt nhƣ trổ (khổ), và câu, nhạc, luật bằng trắc, cách gieo vần. Tuy nhiên tác giả cũng chỉ dừng ở mức độ khảo sát là chính, chứ chƣa rút ra những kết luận mới mẻ và có giá trị. Một số tài liệu khác cũng bàn về hát nói nhƣng chỉ ở mức độ giới thiệu khái quát nhƣ các cuốn “Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam” của Trần Ngọc Vƣơng, “Thơ văn Nguyễn Công Trứ” của Trƣơng Chính… 2.2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu phƣơng pháp giảng dạy thơ hát nói theo đặc trƣng thể loại Vào những năm 70, vấn đề dạy học TPVC theo thể loại đƣợc quan tâm trong cuốn “Phƣơng pháp giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể” của Huỳnh Lý, Trần Thanh Đạm. Các tác giả này đã đề cập đến đặc trƣng thể loại thơ, truyện; phƣơng pháp đặc thù dạy thơ, truyện; vấn đề giảng dạy một số thể tài văn học đặc biệt. Cuốn “Phƣơng pháp dạy học TPVC theo loại thể” của Nguyễn Viết Chữ có đề cập đến đặc điểm thi pháp của loại thể , phƣơng pháp dạy học theo loại thể. Khi tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu về hát nói, chúng tôi chú ý đến bài viết “Thể loại hát nói trong lịch sử thơ ca dân tộc” của tác giả Nguyễn Đức Mậu in trong cuốn “Mấy vấn đề lịch sử và lý luận văn học” - Viện văn học, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 Hà Minh Đức chủ biên, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. Có thể nói đây là một bài viết khá công phu và có giá trị khoa học. Tác giả đã đặt hát nói trong tiến trình lịch sử thơ ca dân tộc, so sánh hát nói với các thể loại văn học dân tộc khác nhƣ truyện thơ, ngâm khúc; từ đó làm nổi bật giá trị độc đáo của hát nói cả về nội dung và hình thức. Tác giả cũng đã nhìn “hát nói nhƣ một cấu trúc nghệ thuật mới” và đề cập đến một số vấn đề cụ thể nhƣ vần và nhịp, câu và từ, không gian và thời gian nghệ thuật. Cuốn “Thiết kế dạy học Ngữ Văn lớp 11” của tác giả Hoàng Hữu Bội, NXBGD, 2007. Cuốn “Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 11” (nâng cao) do tác giả Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên, NXBGD, 2009. Cuốn “Phân tích tác phẩm Ngữ văn 11” do Trần Nho Thìn chủ biên cũng đã đề cập đến vấn đề này. Những tài liệu quan trọng trên tuy không mang nội dung trực tiếp nói về phƣơng pháp dạy học hát nói theo đặc trƣng thể loại nhƣng nó có tác dụng gián tiếp, là cơ sở để chúng tôi triển khai luận văn này. 3. Mục đích nghiên cứu 3.1 Tìm ra con đƣờng tiếp cận văn bản hát nói theo đặc trƣng thể loại trên cơ sở xác định đúng đặc trƣng thể loại. 3.2 Tìm ra các biện pháp tổ chức HS đến với các tác phẩm hát nói từ đặc trƣng thể loại của nó theo yêu cầu của đổi mới phƣơng pháp giảng dạy (tích cực hoá hoạt động học tập của HS trong giờ học văn bản đó) 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tƣợng nghiên cứu: Hoạt động dạy học của thầy và trò (nhất là trong giờ học đối với văn bản đó), đặc biệt là hoạt động tiếp nhận của HS đối với các văn bản hát nói và cách tổ chức, hƣớng dẫn HS chiếm lĩnh tác phẩm đó của thầy ở trên lớp. 4.2 Phạm vi nghiên cứu: Cách tổ chức dạy học các văn bản hát nói có trong SGK Ngữ văn 11 cho HS đang học tập tại trƣờng THPT Yên Ninh – Phú Lƣơng – Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu. 5.1 Nghiên cứu vấn đề trên bình diện lí thuyết: bao gồm đặc trƣng thể loại, cách tiếp cận thể loại, cách tổ chức học sinh chiếm lĩnh tác phẩm hát nói theo tinh thần đổi mới phƣơng pháp giảng dạy. 5.2 Nghiên cứu thực tiễn cảm thụ của học sinh đối với văn bản hát nói và thực tiễn giờ dạy của giáo viên. 5.3 Thực nghiệm sƣ phạm để kiểm chứng tính đúng đắn của những biện pháp mà luận văn đã đề xuất. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu. 6.1 Vận dụng phƣơng pháp nghiên cƣ́u lý thuyết Phƣơng pháp tổng hợp lý luận Sử dụng phƣơng pháp tổng hợp lí luận nhằm đƣa ra những cơ sở lí luận về hát nói, đặc điểm của hát nói, tìm hiểu đặc điểm cảm thụ của học sinh THPT để từ đó đƣa ra những nội dung, phƣơng pháp, biện pháp dạy học cụ thể về các tác phẩm hát nói trong SGK Ngữ văn 11. 6.2 Vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn: 6.2.1 Phƣơng pháp thống kê: Sử dụng phƣơng pháp thống kê toán học để xử lí số liệu thu thập đƣợc trong quá trình điều tra khảo sát và quá trình thực nghiệm. 6.2.2 Phƣơng pháp điều tra khảo sát: Sử dụng phƣơng pháp này để tìm hiểu khả năng cảm thụ của học sinh lớp 11 về hát nói. Từ việc nắm đƣợc thực trạng của việc day học hát nói để nghiên cứu đề tài một cách sát thực góp phần nâng cao hiệu quả dạy học hát nói. 6.2.3 Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm: Sử dụng phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm với việc tiến hành xây dựng thiết kế bài học và dạy thực nghiệm đối chứng tại trƣờng THPT Yên NinhPhú Lƣơng - Thái Nguyên. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài: 1.1/ Cơ sở lí luận của đề tài: 1.2/ Cơ sở thực tiễn của đề tài: Chƣơng 2: Định hƣớng dạy học các tác phẩm thơ hát nói theo đặc trƣng thể loại. 2.1 Thực trạng dạy và học thơ hát nói ở trƣờng phổ thông 2.1.1 HS THPT với thơ hát nói 2.1.2 GV với việc dạy các văn bản thơ hát nói 2.2 Định hƣớng dạy các văn bản thơ hát nói trong SGK Ngữ văn 11 2.2.1 Xác định nội dung bài dạy 2.2.2 Tổ chức cho HS đọc và tìm hiểu bài thơ theo hƣớng đổi mới phƣơng pháp giảng dạy. Chƣơng 3: Thực nghiệm sƣ phạm: 3.1 Thiết kế bài dạy. 3.2 Tổ chức dạy thực nghiệm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 B. PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1.1 Cơ sở lý luận 1.1.1 Khái niệm thơ hát nói Có thể nhận thấy, các tài liệu viết về hát nói, dù bàn tới khía cạnh nào của thể loại cũng đƣa ra một khái niệm, một định nghĩa về hát nói. Các đị nh nghĩa này nhìn chung là tƣơng đối thống nhất. Song xung quanh các cách hiểu về khái niệm hát nói cũng vẫn cần có sự xem xét vì trƣớc khi đi vào bất cứ một khái niệm nào của thể loại, việc xác định nội hàm khái niệm là hết sức quan trọng và cần thiết. Cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” ( Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, NXB Giáo dục năm 2009) nêu rõ: “ Một điệu hát ca trù ( tức hát ả đào hay hát cô đầu ) có nhạc kèm theo và có hình thức thơ riêng được gọi là thể thơ hát nói. Đây là thể thơ cột trụ của hát ca trù, đặc biệt thịnh hành vào cuối thế kỷ XIX. Xét về mặt văn học, hát nói là một thể thơ cách luật. Bố cục của một bài thơ hát nói đầy đủ ( hát nói chính cách hay chính thể ) gồm mười một câu chia làm ba khổ ( hay ba trổ ). Các khổ và các câu trong bài hát nói thường được gọi theo tiếng chuyên môn của nhà trò như sau : - Khổ đầu : bốn câu, gồm hai câu “lá đầu” và hai câu “xuyên thưa”. - Khổ giữa : bốn câu, gồm hai câu “thơ” ( ngũ ngôn hoặc thất ngôn) và hai câu “xuyên sau”. - Khổ xếp : ba câu, gọi là câu “dồn”, câu “xếp” và câu “keo”. Ngoài ba phần chính, mỗi bài hát nói còn có thêm phần “mưỡu” (do chữ mạo nghĩa là “làm trùm”, “phủ lên mình”) là những câu thơ lục bát đặt ở đầu bài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 (gọi là “mưỡu đầu”) hoặc cuối bài ( gọi là “mưỡu hậu”) để nói lên ý nghĩa bao quát toàn bài. Nếu chỉ có hai câu lục bát thì gọi là “mưỡu đơn”, bốn câu thì gọi là “mưỡu kép”. Một bài hát nói biến cách ( hay biến thể ) thì số khổ giữa có thể tăng (gọi là “dôi khổ”) hoặc giảm ( gọi là thiếu khổ). Về số tiếng trong câu vừa cố định vừa tự do. Phần cố định bắt buộc là hai câu thơ ở khổ giữa ( nhất thiết phải là ngũ ngôn hay thất ngôn), các câu “mưỡu” (phải là thơ lục bát) và câu cuối ( phải đúng sáu tiếng ). Còn các câu khác chỉ có thể kéo dài hoặc rút ngắn nhưng phổ biến là bảy, tám tiếng. Việc gieo vần, ngắt nhịp trong thể cũng tương đối tự do. Sang thế kỷ XX, các nhà thơ hiện đại Việt nam đã tiếp thu nhiều yếu tố của thể hát nói để sáng tạo ra thể thơ tám tiếng - một thể thơ rất thịnh hành trong phong trào Thơ mới.” (1. 143) Còn cuốn “Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- hết thế kỷ XIX” (Nguyễn Lộc, Nxb Giáo dục 1997) cũng cho ta biết : “Thể hát nói cũng là một thể thơ trữ tình ngắn, nhưng có dung lượng lớn hơn và cách luật cũng thoải mái hơn thể thơ đường luật. Thể thơ hát nói xuất hiện từ thế kỷ XVI với Lê Đức Mao, sau đó không thấy được dùng. Đầu thế kỷ XIX nó được dùng lại với các nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh. Hát nói vốn là những bài hát gắn liền với sinh hoạt ả đào, nội dung của nó thường gắn chuyện ăn chơi hưởng lạc. Cấu tạo bài hát nói kết hợp được một cách linh hoạt những câu thơ dài với những câu thơ ngắn, nó không thể kéo dài vô hạn, nhưng cũng không hạn chế vào mấy câu ít ỏi như thể thơ Đường luật. Do đặc điểm ấy nên hát nói có khả năng diễn đạt những tình cảm phóng túng, những hoài bão mạnh mẽ. Hát nói nửa đầu thế kỷ XIX phát triển theo hai hướng, một mặt có những bài hát nói nói về cuộc sống hưởng lạc, ăn chơi, mặt khác có những bài lại nói về chí nam nhi, về lý tưởng hành động của con người.” (2. 21). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Theo các tác giả của “Tuyển tập thơ ca trù” thì : “Khoảng cuối thế kỷ thứ XVIII, thể hát nói bắt nguồn từ một số làn điệu ca trù cửa đình ra đời, dần dần hoàn chỉnh rồi ào ạt chiếm lĩnh địa bàn ca quán, tạo thêm bộ mặt mới cho môn nghệ thuật này…Hát nói là nói lên tâm tình, ý nghĩa bằng tiếng đàn tiếng hát. Về hình thức nó không gò bó, hạn chế như thơ Đường. Về làn điệu, hát nói sử dụng nhuần nhuyễn đủ năm cung huỳnh, pha, bắc, nam, nao của âm luật ca trù ; có khả năng thể hiện đầy đủ các mặt tình cảm vui, buồn, hờn, giận, sầu nén, sôi nổi của con người” (3. 26). Nhƣ vậy các tác giả này đã rất chú ý đến tính chất diễn xƣớng của hát nói. Điều đó là có cơ sở bởi hát nói là một trong hơn bốn mƣơi điệu thức của ca trù và là điệu thức chủ yếu mang lại nhiều giá trị cho bộ môn ca trù truyền thống. Ca trù và hát nói có quan hệ rất gần gũi, gắn bó nhƣng cũng có thể nhận diện một số tính chất riêng biệt của chúng. Nói đến ca trù là ngƣời ta nói đến một bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc: “Ca trù còn được gọi là hát ả đào hay hát cô đầu, một loại ca nhạc thính phòng thịnh hành trong giới nho sĩ miền Bắc ( từ Nghệ Tĩnh trở ra ) dưới thời phong kiến ( từ khoảng thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX ), đặc biệt là ở các đô thị ( Hà Nội, Nam Định…). Gọi là ca trù vì khi ca người nghe dung “trù” ( cái thẻ tre ) để thưởng những chỗ hát hay, cuối cùng đếm thẻ để bình giá và thưởng tiền. Hát ca trù có cả “đào” ( nữ ) và lần “kép” ( nam ) nhưng “đào” là chủ yếu nên gọi là hát ả đào ( về sau, đầu thế kỷ XX mới gọi là hát cô đầu, hát nhà trò ). Ca trù vốn có nguồn gốc từ lối hát cửa đình ( hát thề, hát tế thần phổ biến ở nước ta từ thời Trần ), qua hình thức hát cửa quyền, hát đón ( hát chúc tụng, khao vọng tại các nhà quyền quí, quan lại) và cuối cùng tiến tới hình thức ca nhạc thính phòng là hình thức phát triển cao nhất, tiêu biểu nhất của ca trù.” ( 4. 27-28 ) Ca trù có rất nhiều điệu hát : tỳ bà, cung bắc, gửi thƣ, ngâm vọng, chừ khi, bắc phản, hát ru… và để đáp ứng việc thể hiện tâm tƣ, tình cảm phong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 phú của con ngƣời, hát nói - bắt nguồn từ một số làn điệu ca trù cửa đình đã ra đời và trở thành điệu thức chủ yếu tạo nên bộ mặt mới cho ca trù. Hát nói nằm trong ca trù nhƣng ca trù là một bộ môn nghệ thuật truyền thống, ít có tính văn học, còn hát nói thì đƣợc nâng lên thành một thể loại văn học. Do đó, mặc dù có quan hệ gần gũi nhƣng chúng mang đặc trƣng riêng biệt. Phân biệt nhƣ vậy nhƣng khi định nghĩa về hát nói, không thể bỏ qua yếu tố hay quan hệ gần gũi này của hát nói và ca trù bởi đây là đặc điểm quan trọng xác định thể loại. Sự thống nhất này của các nhà nghiên cứu khi đƣa ra cách hiểu về hát nói cũng chính là ở điểm này. Tác giả Dƣơng Quảng Hàm định nghĩa: “ Hát nói là một lối trong các lối hát ả đào hay đào nương ca…Hát ả đào kể có nhiều lối. Nhưng chỉ có lối hát nói là thông dụng nhất và có văn chương lý thú nhất. Hát nói có thể coi là biến thể của hai thể lục bát và song thất” (5. 141 ) Tác giả Lạc Nam trong “ Tìm hiểu các thể thơ” còn giải thích cụ thể nhƣ sau : “ Gọi là hát nói, vì trừ những câu mưỡu, câu hãm ở cuối bài và những đoạn thơ bằng chữ Hán hay chữ Nôm xen vào giữa những câu hát ra, nó bao gồm những câu nửa như nói, nửa như hát dựa theo thể nói sử biến cách, dài ngắn khác nhau từ 4, 5, 6, 7, 8 đến 12 từ, nhưng hình thức cơ bản là theo thể 7 từ và 7 từ biến cách, đồng thời kết hợp với hình thức “ trúc chi từ” ( lối thơ thất ngôn tứ tuyệt vịnh những sự việc thường có trong đời sống, lời lẽ thực thà, mộc mạc, khong văn vẻ ) và thể văn biền ngẫu.”( 6. ) Tác giả Nguyễn Lộc trong “ Văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII hết thế kỷ XIX” viết :“ Hát nói vốn là một thể bài hát phổ theo nhịp phách cho các cô đầu hát trong các hành viện” ( 2. 515 ) Có thể thấy, hầu nhƣ tất cả các tác giả đều định nghĩa hát nói thông qua ca trù. Do đó, một định nghĩa về hát nói - đúng về mặt văn học - có lẽ sẽ phần nào chính xác hơn, đúng đắn hơn và khoa học hơn. Mặc dù vậy, với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 những ý kiến trên, khái niệm hát nói đã đƣợc xác định ở những nét cơ bản nhất và đây là việc làm cần thiết đầu tiên để có thể tiếp tục đi tìm hiểu các vấn đề mà chúng ta quan tâm ở hát nói. 1.1.2 Đặc trƣng thể loại của thơ hát nói. 1.1.2.1 Đặc trƣng về nội dung * Hát nói - nơi giãi bày tâm tƣ, tình cảm của những nhà nho tài tử trong xã hội đƣơng thời. Nhƣ ta đã biết, xã hội Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ XVI đã không còn giữ đƣợc sự ổn định. Nhà nƣớc phong kiến tập quyền phát triển lên đến cực thịnh dƣới triều đại Lê Thánh Tông ở thế kỷ XV đến thời điểm này đã bộc lộ khuynh hƣớng tiêu cực. Mâu thuẫn trong nội bộ giai cấp thống trị đã dẫn đến những cuộc xung đột giữa các phe phái phong kiến nhằm tranh giành quyền lực. Cuộc phân tranh Lê Mạc kéo dài trên năm mƣơi năm ở thế kỷ XVI vừa chấm dứt thì tiếp đến là là cuộc phân tranh Trịnh Nguyễn xuyên suốt thế kỷ XVII, XVIII. Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX là giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng không có lối thoát. Nƣớc ta ở trong tình trạng chia cắt hai miền Nam - Bắc cùng với sự phân chia quyền lực : Đàng Ngoài - Chúa Trịnh, Đàng Trong - Chúa Nguyễn ; thêm vào đó là sự tồn tại đồng thời cả ngôi vua và ngôi chúa trên cùng một lãnh thổ Đàng Ngoài. Xã hội Việt Nam chƣa bao giờ rối ren, hỗn loạn nhƣ thế. Giai cấp phong kiến không những đã mất hết vai trò lịch sử mà còn lộ rõ bộ mặt phản động, đi ngƣợc lại lợi ích quần chúng. Đời sống nhân dân vì thế vô cùng điêu đứng cực khổ. Đây cũng chính là giai đoạn đã để lại trong lịch sử dấu ấn của “ thế kỷ nông dân khởi nghĩa” với những phong trào đấu tranh mạnh mẽ, rộng khắp và liên tục. Trong đó khởi nghĩa Tây Sơn ( 1771) với vai trò của ngƣời anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã đập tan các tập đoàn phong kiến thống tri Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong; đồng thời còn lập Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 nên chiến công vẻ vang phá tan hai mƣơi vạn quân Thanh năm 1789. Nhƣng triều đại Tây Sơn với những tiến bộ trong cải cách chính tri, văn hoá xã hội chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi. Nguyễn Ánh - Gia Long đã tiêu diệt nhà Tây Sơn và lên ngôi, thủ tiêu những tiến bộ thời Quang Trung và phục hƣng những cổ hủ của Nho giáo, lịch sử xã hội lại một lần nữa lâm vào bế tắc. Trong một xã hội nhƣ thế, chế độ phong kiến, đất nƣớc, dân tộc không thể tiếp tục là nguồn cảm hứng để ngợi ca của văn học nữa. Ý thức hệ phong kiến cùng với sự suy tàn của chế độ xã hội đã sản sinh ra nó cũng không tránh khỏi sự khủng hoảng tất yếu. Đời sống tình cảm và những nhu cầu, lý tƣởng của con ngƣời thời kỳ này cũng khác trƣớc. Cái mà con ngƣời quan tâm, hƣớng tới và đấu tranh để dành đƣợc lúc này là tình yêu, hạnh phúc, là những giá trị của cuộc sống mà ở đó con ngƣời đƣợc khẳng định và đề cao. Vì thế, nói nhƣ GS Nguyễn Lộc : “ Đặc trưng cơ bản có tính lịch sử của văn học thời kỳ này là sự khám phá ra con người và khẳng định những giá trị chân chính của con người”. Trong đó, đáng chú ý là sự xuất hiện và khẳng định mạnh mẽ của con ngƣời với tƣ cách là những cá thể xã hội trong văn học. Đó là con ngƣời mang trong mình những khao khát mãnh liệt, những tình cảm rộng lớn, đặc biệt là sự thể hiện cái tôi cá nhân một cách vô cùng táo bạo, sự khẳng định mạnh mẽ bản ngã trƣớc cuộc đời. Thực tế cuộc sống của đất nƣớc đã buộc các nhà nho trí thức phong kiến phải đứng trƣớc sự lựa chọn để tìm ra con đƣờng đi cho mình. Giữa bối cảnh rối ren, phức tạp của xã hội, có ngƣời vẫn quyết chí học hành, thi cử để đỗ đạt làm quan, hành đạo giúp đời cho chính quyền mà họ ủng hộ. Có ngƣời lui về ở ẩn, từ bỏ con đƣờng công danh, tìm niềm vui trong cảnh thanh nhàn ở chốn điền viên để quên đi mối sầu về tình cảnh đất nƣớc. Những cách lựa chọn nhƣ thế vốn rất quen thuộc của các nhà nho từ trƣớc đến nay. Mặt khác xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII, XVIII dù có nhiều biến đổi về chính trị thì những yếu tố của nền kinh tế đô thị và đời sống văn hoá đô thị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 vẫn tiếp tục phát triển, tạo nên một diện mạo mới cho xã hội và đây là điều quan trọng không thể thiếu cho sự ra đời và phát triển loại hình nhà nho tài tử. Các nghề thủ công phát triển, đội ngũ thƣơng nhân nƣớc ngoài và Việt Nam ngày càng đông tạo nên những trung tâm buôn bán sầm uất ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong nhƣ Kẻ Chợ, Đồ Sơn, Phố Hiến… các cao lâu tửu quán - một trung tâm giải trí mới - cũng theo nhịp sống đô thị mới mà ra đời. Lui tới đây là những bậc vƣơng tôn công tử, những tao nhân mặc khách, những nho sinh, hàn sĩ, thậm chí các quan trong triều. Họ đến đây để tìm bạn kết giao, tìm thú vui giải trí. Môi trƣờng mới lạ này ngay lập tức có sức hấp dẫn với nhiều tầng lớp. Xã hội Việt Nam với việc tiếp nhận những yếu tố mới của đời sống đô thị đã hình thành một môi trƣờng kinh tế - văn hoá phi chính thống - “ mảnh đất màu mỡ cho những điều mới lạ được dịp nảy sinh, các loại hình tình cảm cá nhân dần dà tìm ra nơi thể hiện” ( 7. 80 ). Chính môi trƣờng này đã hình thành nên loại hình nhà nho thứ ba của xã hội Việt Nam - nhà nho tài tử. Và cũng từ đây nhà nho tài tử đã cho ra đời thể loại độc đáo vào bậc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam - hát nói. Nhà nho tài tử - cũng nhƣ nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật - đều xuất thân là môn sinh của cửa Khổng sân Trình. Nhƣng do tiếp xúc với một môi trƣờng xã hội mới, nhận thức và quan niệm của họ có nhiều thay đổi. Nếu ngƣời hành đạo và ngƣời ẩn dật coi đạo đức là điều làm nên giá trị con ngƣời thì ngƣời tài tử quan niệm đó phải là tài và tình. Ngƣời tài tử dứt khoát phải là ngƣời có tài và họ ý thức đƣợc cái tài của mình. “ Được số phận ưu đãi, thiên nhiên phú cho những phẩm chất hơn người, từ thuở thiếu thời, người tài tử đã luôn tâm niệm về “ tính trội” của mình và luôn lăm le sử dụng nó khi có dịp” ( 7. 83). Họ ôm ấp hoài bão lớn lao là lập nên những sự nghiệp phi thƣờng. Bởi thế việc đƣợc thử tài, trổ tài, việc đƣợc thoả mãn hoài bão cá nhân là điều họ quan tâm nhất. Đồng thời với việc ý thức cao về tài năng của mình và luôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 muốn đƣợc thể hiện khẳng định tài năng ấy - còn mang trong mình - tuy chƣa phải là “một khát vọng mãnh liệt hướng tới mục đích giải phóng cá nhân,… một thứ hạnh phúc phong phú thoả mãn các cảm xúc ngày càng đa dạng và phức tạp” ( 7. 90 ) - nhƣng là những đòi hỏi khao khát về tình yêu, hạnh phúc thể hiện nhu cầu giải phóng tình cảm, bộc lộ bản ngã. Ngƣời tài tử không những “ thị tài” mà còn “ đa tình” - đó là hai đặc trƣng tạo nên diện mạo tinh thần của nhà nho tài tử. Khái niệm đa tình ở đây không chỉ là sự say mê sắc đẹp đơn thuần mà phải đƣợc hiểu theo nghĩa rộng của nó : tâm hồn giàu tình cảm, dễ xúc động. Nhƣ vậy, sống trong môi trƣờng xã hội - văn hoá mới, với một tâm hồn tự do phóng khoáng, với một cá tính mạnh mẽ luôn muốn khẳng định cái tôi, đề cao bản ngã, thậm chí muốn xáo trộn phá phách trật tự xã hội đầy ngông nghênh kiêu bạc - ngƣời tài tử trở thành một nhân vật điển hình mới của thời đại. Những tƣ tƣởng tình cảm khát khao, cá tính của ngƣời tài tử đòi hỏi đƣợc bộc lộ một cách đầy đủ nhất, sâu sắc nhất. Hát nói đã thể hiện đƣợc đúng nhất con ngƣời cá nhân đầy cá tính. Các nhà nho tài tử đã tìm thấy ở hát nói một hình thức phù hợp để chứa đựng, gửi gắm những hoài bão lớn, những khát vọng mãnh liệt, những tình cảm tự do phóng khoáng của cái tôi ngông nghênh đa tình. Môi trƣờng ca quán càng khiến hát nói đƣợc thể hiện và phát triển rộng rãi, cuốn hút đông đảo ngƣời thƣởng thức và ngƣời sáng tác, đến mức “ người không biết gì về ca trù cũng biết hát nói” và ngƣời ta “ xô nhau vào sáng tác hát nói”. Các tác giả tiêu biểu : Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Dƣơng Khuê, Chu Mạnh Trinh, Ngô Thế Vinh, Trần Tế Xƣơng,… * Hát nói - tiếng thơ gửi gắm tâm sự yêu nƣớc, lòng căm thù giặc, niềm tin và tinh thần lạc quan chiến đấu chiến thắng kẻ thù xâm lƣợc của những nhà hoạt động cách mạng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất