Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dạy học thơ nguyễn bính cho học sinh vùng cao theo hướng tích cực hóa hoạt động ...

Tài liệu Dạy học thơ nguyễn bính cho học sinh vùng cao theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh

.PDF
95
173
96

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HOÀNG THANH GIANG DẠY HỌC THƠ NGUYỄN BÍNH CHO HỌC SINH VÙNG CAO THEO HƢỚNG TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Thái Nguyên, năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HOÀNG THANH GIANG DẠY HỌC THƠ NGUYỄN BÍNH CHO HỌC SINH VÙNG CAO THEO HƢỚNG TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học Văn và Tiếng Việt Mã số: 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN GIA CẦU Thái Nguyên, năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Tác giả đề tài xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Gia Cầu đã trực tiếp hướng dẫn về khoa học và giúp đỡ tận tình trong suốt quá trình tác giả nghiên cứu, hoàn thành đề tài. Xin chân thành cảm ơn đến Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Ban Chủ nhiệm khoa Ngữ văn, Khoa sau Đại học, các thầy giáo, cô giáo Bộ môn phương pháp, Khoa Ngữ văn đã động viên, chỉ dẫn, đóng góp ý kiến và tạo những điều kiện thuận lợi. Nhân dịp này, xin được bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám hiệu trường phổ thông Vùng Cao Việt Bắc và các đồng nghiệp trong tổ bộ môn Ngữ văn và các phòng, ban của trường đã tạo những điều kiện hết sức thuận lợi, luôn khích lệ và động viên tác giả. Cuối cùng, tác giả xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã động viện, giúp đỡ tác giả rất nhiều trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2011 Hoàng Thanh Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng, các kết quả trong luận văn là trung thực và chƣa đƣợc công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Hoàng Thanh Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn i MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục.......................................................................................................................... i Danh mục các ký hiêu, các chữ viết tắt ....................................................................... iii PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 PHẦN NỘI DUNG ..................................................................................................... 8 Chƣơng I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ................ 8 1.1. Cơ sở lý luận ..................................................................................................... 8 1.1.1. Phong trào Thơ mới trong nền Văn học hiện đại Việt Nam ..................... 8 1.1.2. Nhà thơ Nguyễn Bính và thơ Nguyễn Bính trong phong trào Thơ mới. ....... 14 1.1.3. Vấn đề tích cực hóa hoạt động học tập của HS trong phƣơng pháp dạy học Ngữ văn ................................................................................................ 29 1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................ 34 1.2.1. Đặc điểm tiếp nhận văn học của học sinh miền núi ................................ 34 1.2.2. Ảnh hƣởng của thói quen và thị hiếu thẩm mỹ của ngƣời miền núi đối với việc tiếp nhận văn chƣơng........................................................................... 35 1.2.3. Năng lực tri giác ngôn ngữ tác phẩm văn học ......................................... 37 1.2.4. Năng lực tái hiện hình tƣợng của học sinh THPT miền núi .................... 37 1.2.5. Năng lực liên tƣởng trong tiếp nhận văn học của học sinh THPT miền núi.... 39 1.2.6. Năng lực khái quát hóa chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm ..................... 39 1.3. Học sinh Vùng cao với thơ Nguyễn Bính ....................................................... 43 1.3.1. Tình cảm của học sinh Vùng cao với thơ Nguyễn Bính ......................... 44 1.3.2. Khả năng phát hiện chủ thể trữ tình trong bài thơ ................................... 46 1.3.3. Khả năng liên tƣởng của HS Vùng caoViệt Bắc khi đọc bài thơ “Tƣơng tƣ”......................................................................................................... 48 1.3.4. Những khoảng cách trong tiếp nhận văn bản bài thơ “Tƣơng tƣ” của học sinh Vùng cao các tỉnh miền núi phía Bắc ................................................. 49 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn ii Chƣơng II. NHỮNG BIỆN PHÁP RÚT NGẮN KHOẢNG CÁCH TRONG TIẾP NHẬN THƠ NGUYỄN BÍNH CỦA HỌC SINH VÙNG CAO VÀ TÍCH CỰC HÓA HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC SINH .......................... 53 2.1. Những biện pháp rút ngắn khoảng cách trong tiếp nhận thơ Nguyễn Bính ... 53 2.1.1. Biện pháp thứ nhất: Rút ngắn khoảng cách về ngôn ngữ trong tiếp nhận thơ Nguyễn Bính:...................................................................................... 54 2.1.2. Biện pháp thứ hai: Trang bị kiến thức văn hóa làng quê miền xuôi trong thơ Nguyễn Bính cho HS miền núi. ......................................................... 58 2.2. Đƣa HS Vùng cao đến với thơ Nguyễn Bính theo hƣớng tích cực hóa hoạt động học tập của HS. ............................................................................................. 65 2.2.1. Đƣa HS Vùng cao bƣớc đầu đến với thơ Nguyễn Bính .......................... 65 2.2.2. Thâm nhập vào thơ Nguyễn Bính ........................................................... 66 2.2.3. Tiếp tục đến với thơ Nguyễn Bính sau giờ học ....................................... 68 2.2.4 Nêu vấn đề và tổ chức cho HS trao đổi, thảo luận theo hình thức hoạt động nhóm ......................................................................................................... 67 2.2.5. Hoạt động ngoại khóa văn học về thơ Nguyễn Bính .............................. 68 Chƣơng III. THIẾT KẾ BÀI HỌC THỂ NGHIỆM ............................................. 72 3.1. Định hƣớng dạy học........................................................................................ 72 3.2. Tiến trình dạy học ........................................................................................... 72 PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................... 84 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 86 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn iii CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ GV Giáo viên THPT Trung học phổ thông SGK Sách giáo khoa TTC Tính tích cực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài - Nguyễn Bính là nhà thơ lớn, một cây bút lớn của thơ ca lãng mạn Việt Nam thời kì 1932- 1945. Tiếng thơ của ông góp vào thi đàn “Thơ mới” một phong cách riêng, một cái hay, cái đẹp riêng, có sức hấp dẫn lôi cuốn đối với ngƣời đọc. Nét riêng ấy rất dễ nhận thấy, đó chính là thơ Nguyễn Bính mang vẻ đẹp của hồn quê đất nƣớc ngày xƣa. Cảnh sắc và bóng dáng con ngƣời trong thơ ông đều thấm đƣợm tình quê, duyên quê và phảng phất hồn xƣa của đất nƣớc. Sau này Nguyễn Bính cũng đem đƣợc và thơ mình hơi thở của cách mạng và khánh chiến. Theo với thời gian, Nguyễn Bính cũng đƣợc đánh giá cao. Ông có vị trí xứng đáng trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Bởi vậy không thể không đƣa thế hê trẻ đến với những vần thơ đậm chất chân quê của Nguyễn Bính. Đến với thơ Nguyễn Bính, thế hệ trẻ sẽ đến với “hồn xƣa của đất nƣớc”, trong cảnh sắc của làng quê một thời thanh bình yên ả, đến với những con ngƣời ở làng quê nhân hậu, chất phát, đến với những sinh hoạt văn hoá truyền thống ở những làng quê Việt Nam xa xƣa. Những nét độc đáo đó của thơ ông có thể đem đến cho thế hệ trẻ những rung động mới mẻ và tình yêu quê hƣơng đất nƣớc. Liệu bạn đọc - học sinh ngày nay đến với thơ Nguyễn Bính có cảm và hiểu đƣợc cái hay của thơ ông không? Tình cảm, thái độ và khả năng tiếp nhận của thế hệ trẻ ngày nay đến với thơ Nguyễn Bính nhƣ thế nào? Thơ Nguyễn Bính có khả năng tác động tới nhận thức, cảm xúc và suy nghĩ của họ ra sao? Đó là những vấn đề đang đƣợc đặt ra trong dạy học Ngữ Văn trong trƣờng THPT hiện nay. Chính những vấn đề đó đã thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài này. - Chúng tôi đang trực tiếp dạy môn Ngữ Văn ở một trƣờng rất đặc thù - trƣờng học sinh vùng núi cao Việt Bắc. Học sinh vùng núi cao có những nét riêng trong cảm thụ văn chƣơng. Vậy đƣa học sinh vùng cao với những nét riêng trong cảm thụ văn chƣơng, rất đậm chất miền xuôi nhƣ thế nào để có hiệu quả? Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 Đó là vấn đề có tính thời sự nóng hổi đối với những ngƣời dạy ngữ văn ở những trƣờng học sinh vùng núi cao nhƣ chúng tôi. Bao nhiêu băn khoăn, trăn trở của ngƣời thầy dạy văn đang mong chờ đƣợc giải quyết. Do vậy chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài này. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Tình hình nghiên cứu tính tích cực học tập: Tƣ tƣởng về tính tích cực học tập của ngƣời học đã có từ rất lâu. Ngay từ thời cổ đại, các nhà sƣ phạm lỗi lạc đã đề cập đến tầm quan trọng của vấn đề và đã bàn nhiều đến biện pháp phát huy TTC của ngƣời học. - Ở phƣơng Tây, nhà triết học Hy Lạp Xô-crát đã đề ra phƣơng pháp phát kiến Ơristic. Với phƣơng pháp này ngƣời thầy giáo dẫn dắt, gợi mở để học sinh tìm chân lý, hình thành tính tự lực và phát huy tính trí lực của họ. - Ở phƣơng Đông, Khổng Tử rất coi trọng mặt suy nghĩ của học sinh. Tƣ Mã Thiên viết sử ký đã nhận xét về Khổng Tử:” Khi ngƣời ta chƣa cảm thấy tức tối muốn biết thì Khổng Tử chƣa giảng. Khi nêu một góc mà ngƣời ta chƣa thấy ba góc kia thì Phu Tử chƣa dạy”. Đầu TK XVII A. Kômenxki nhà giáo dục Tiệp Khắc trong tác phẩm”Lý luận dạy học vĩ đại” của mình đã nêu tính tự giác, TTC với tƣ cách là một trong những nguyên tắc dạy học quan trọng và cơ bản nhất. Đầu thế kỷ XIX, trong tác phẩm của mình, nhà giáo dục học Nga Usinxki đã nhiều lần khẳng định tầm quan trọng của TTC và độc lập trong quá trình học tập của học sinh. Đến nay, vấn đề phát huy TTC học tập ngày càng đƣợc quan tâm hơn, nội dung nghiên cứu ngày càng sâu sắc hơn, các công trình nghiên cứu về vấn đề này gắn với tên tuổi của các nhà tâm lý học và giáo dục học nhƣ Aritstova, M.A Danhinop, B.P Exipop,...Đáng chú ý là các công trình: I.F Kharlamop viết:” Việc nghiên cứu khoa học giáo dục làm sáng tỏ những vấn đề có liên quan tới việc cải tiến hoạt động nhận thức và nâng cao TTC trí tuệ của học sinh là trung tâm chú ý của các nhà nghiên cứu giáo dục và giáo viên” I.Ia.lecne viết: “Các đại biểu của nền giáo dục mới từ những năm 70 của thế kỷ XX đã nêu phƣơng pháp tìm tòi phát kiến Ơrĩtic ”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Ơ Việt Nam, một số nhà lý luận dạy học cũng viết khá nhiều về vấn đề phát huy TTC học tập nhƣ: GS. Trần Bá Hoành, GS.TS Nguyễn Cảnh Toàn, PGS.TS Đặng Thành Hƣng...Gần đây tƣ tƣởng dạy học tích cực đã là một chủ trƣơng quan trọng của ngành giáo dục nƣớc ta, đƣợc giới thiệu rộng rãi trên các báo và tạp chí chuyên ngành. 2.2. Lịch sử nghiên cứu thơ Nguyễn Bính. a. Những thành tựu nghiên cứu thơ Nguyễn Bính Từ những năm 1936-1937 trong làng Thơ mới của Việt Nam xuất hiện một tài năng thơ có giọng điệu rất riêng khó trộn lẫn với các nhà thơ mới khác. Tài năng đó chính là Nguyễn Bính. Ngay từ khi trình làng với bài thơ “Cô hái mơ”, đạt giải thƣởng của Tự lực Văn Đoàn với “Tâm hồn tôi”, và thực sự nổi tiếng với “Lỡ bƣớc sang ngang” thơ Nguyễn Bính đã chiếm đƣợc lòng yêu mến của đông đảo bạn đọc và sự chú ý của giới phê bình nghiên cứu. Từ lúc Nguyễn Bính mới xuất hiện cho đến khi ông qua đời (1918 - 1966) đã có nhiều công trình nghiên cứu giới thiệu về Nguyễn Bính. - Trong cuốn Thi nhân Việt nam, Hoài Thanh là ngƣời đầu tiên nhận ra đƣợc vẻ đẹp kín đáo, đậm đà của hồn thơ Nguyễn Bính, đồng thời ông cắt nghĩa về sự quan tâm chƣa thích đáng của giới nghiên cứu đối với thơ ông. “...Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính, tuy cảm đƣợc một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt của các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính, họ sẽ bảo “Thơ nhƣ thế này thì có gì ?”. Họ có ngờ đâu, đã bỏ rơi một điều mà ngƣời ta không thể hiểu bằng lí trí, một điều quý giá vô ngần: hồn xƣa đất nƣớc ...”. Vũ Ngọc Phan trong cuốn “Nhà văn Việt Nam hiện đại” đã đánh giá cao thơ Nguyễn Bính, đặc biệt là mảng thơ viết về làng quê. Từ ý kiến của Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan đã có định hƣớng tin cậy cho công việc nghiên cứu thơ Nguyễn Bính sau này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 - Hà Minh Đức trong cuốn “Thi sĩ của đồng quê”, ông nhận xét: “Có thể nói rằng trong thơ ca thời kỳ hiện đại, Nguyễn Bính là ngƣời có công hơn cả mảng thơ viết về làng quê ” (85,33 ) - Đỗ Lai Thúy với cuốn: “Đƣờng về chân quê của Nguyễn Bính” (1994) - Nguyễn Quốc Túy với cuốn: “Thi pháp dân gian trong Thơ mới của Nguyễn Bính” (1995) - Đoàn Đức Phƣơng với cuốn: “Thơ Nguyễn Bính với nghệ thuật biểu hiện đậm đà sắc thái dân gian” (1996) - Nguyễn Xuân Sanh với cuốn: “Bạn thơ của vốn dân gian’’ (1996) - Nguyễn Nhã Bản, Hồ Xuân Bình với cuốn: “Mã ngữ nghĩa của vốn từ vựng hay văn hóa làng quê trong thơ Nguyễn Bính” (1999) - Chu Văn Sơn với cuốn: “Tinh hoa thơ mới(1999) - Đoàn Hƣơng với cuốn: “Nguyễn Bính thi sĩ nhà quê” (2000) - Hồng Diệu với cuốn: “Một đặc điểm trong nghê thuật thơ Nguyễn Bính” (2001) - ...... Những công trình nghiên cứu của các tác giả đã thu hút đƣợc sự chú ý của ngƣời yêu thơ. Đó là còn chƣa kể đến hàng loạt các bài viết của nhiều nhà nghiên cứu phê bình có tên tuổi của Việt Nam đã viết về Nguyễn Bính với tình cảm yêu mến, trân trọng và thán phục nhƣ: Tô Hoài, Lại Nguyên Ân, Đoàn Thị Đăng Hƣơng, Tôn Phƣơng Lan, Hà Bình Trị...Nguyễn Bính đã trở thành đề tài của nhiều khóa luận tốt nghiệp của sinh viên các trƣờng đại học, nhiều luận văn thạc sĩ, luật văn tiến sĩ khoa học Ngữ văn trong cả nƣớc. Đặc biệt là cả các nhà nghiên cứu nƣớc ngoài, những ngƣời con xa quê làm công tác nghiên cứu khoa học đều giành cho Nguyễn Bính và những vần thơ đậm tình quê hƣơng của ông những tình cảm yêu mến, trân trọng. Cho đến nay tổng số các công trình nghiên cứu về Nguyễn Bính khá nhiều. Về căn bản, những nhận xét đánh giá của giới nghiên cứu phê bình về Nguyễn Bính khá thống nhất. Dù ở thời nào, Nguyễn Bính vẫn đƣợc coi là nhà thơ của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 “chân quê”, “hồn quê”, “tình quê”, là “thi sĩ của đồng quê”, “thi sĩ của thƣơng yêu” và các nhà nghiên cứu đều khẳng định đó chính là cái hay, cái hơn ngƣời của Nguyễn Bính. b. Dạy học thơ Nguyễn Bính trong nhà trƣờng Trong chƣơng trình và SGK môn Văn của sách cải cách giáo dục (19831993) có thơ Nguyễn Bính nhƣng chỉ có một bài đƣợc lựa chọn (bài Tƣơng tƣ) và lại xếp vào phần học thêm. Điều đó cho thấy Nguyễn Bính chƣa đƣợc nhìn nhận đúng với tài năng của ông. Thậm chí đến sách chỉnh lý hợp nhất thì Nguyễn Bính lại không đƣợc đƣa vào SGK nhƣ trƣớc đó. Đến năm 2002 khi đổi mới chƣơng trình SGK ở THPT, thơ Nguyễn Bính đã đƣợc ở lại với chƣơng trình của SGK Ngữ văn 11 ở cả bộ 1 và bộ 2 đều có thơ Nguyễn Bính (bộ 1 bài thơ đƣợc chọn: “Tƣơng tƣ” và bộ 2 bài thơ đƣợc chọn: “Mƣa xuân ”). Đến năm 2007, trong chƣơng trình SGK Ngữ văn THPT, thơ Nguyễn Bính đƣợc chọn bài “Tƣơng tƣ” ở bộ 2. Trong cuốn Sách giáo viên Ngữ văn 11 đã hƣớng dẫn cách dạy bài thơ: “Tƣơng tƣ”. Phần mục tiêu bài học, phần nội dung bài học hƣớng dẫn khai thác đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, xác định đúng trọng tâm của bài học. Điều đó đã cung cấp phƣơng pháp và kiến thức bổ ích giúp ngƣời giáo viên vận dụng, cảm thụ, giảng dạy thơ Nguyễn Bính một cách có hiệu quả hơn. Tuy nhiên vấn đề là làm thế nào phát huy đƣợc tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong dạy học thơ Nguyễn Bính chƣa đƣợc bàn kỹ. Đặc biệt là đối tƣợng học sinh vùng núi cao Việt bắc, còn rất xa lạ với phong tục tập quán của ngƣời miền xuôi đƣợc thể hiện rõ trong thơ Nguyễn Bính thì chƣa đƣợc bàn tới. Nghiên cứu đề tài này chúng tôi muốn đi sâu vào việc dạy học thơ Nguyễn Bính cho hoc sinh vùng cao theo hƣớng tích cực hóa hoat động hoc tập của học sinh. 3. Mục đích nghiên cứu: - Về cuộc đời và thơ Nguyễn Bính đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhƣng vấn đề giảng dạy thơ Nguyễn Bính ở nhà trƣờng phổ thông, đặc biệt cho học sinh là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 đối tƣợng vùng cao cho đến nay thì chƣa có một công trình nghiên cứu nào sát hợp lắm với việc giảng dạy thơ Nguyễn Bính ở nhà trƣờng. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu này với mục đích là đi tìm một con đƣờng đƣa học sinh vùng núi cao có nhiều khoảng cách về lịch sử, văn hoá miền xuôi để tiếp nhận, hiểu đƣợc, cảm thụ đƣợc thơ Nguyễn Bính. - Từ đó học sinh - bạn đọc vùng cao có thêm hiểu biết về cảnh sắc thiên nhiên của làng quê, con ngƣời và sinh hoạt văn hoá của ngƣời dân miền xuôi. Và cũng từ đó bạn đọc vùng cao ngày càng thêm yêu đất nƣớc và con ngƣời Việt Nam ta. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: Hoạt động dạy và học thơ Nguyễn Bính ở một trƣờng THPT đặc thù: trƣờng học sinh vùng cao Việt Bắc theo hƣớng tích cực hoá hoạt động hoc tập của học sinh. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu: - Nghiên cứu vấn đề ở phƣơng diện lí luận: + Nguyễn Bính và thơ Nguyễn Bính. + Dạy học theo nguyên tắc tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh. - Khảo sát thực tế việc dạy học thơ Nguyễn Bính ở trƣờng phổ thông Vùng cao Việt bắc) - Thể nghiệm sƣ phạm để kiểm chứng tính đúng đắn của các biện pháp dạy học mà luận văn đề xuất để tìm hiểu về Nguyễn Bính và thơ Nguyễn Bính, tìm hiểu yêu cầu tích cực hoá dạy học của chƣơng trình và sách giáo khoa ngữ văn THPT. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: - Vận dụng phƣơng pháp tổng hợp lí luận: sử dụng phƣơng pháp tổng hợp lí luận nhằm đƣa ra đặc điểm của thơ Nguyễn Bính, tìm hiểu đặc điểm cảm thụ của học sinh PT vùng cao Việt Bắc để từ đó đƣa ra những nội dung, phƣơng pháp, biện pháp dạy học cụ thể về các tác phẩm thơ Nguyễn Bính trong sách giáo khoa Ngữ văn 11. - Vận dụng phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn: + Phƣơng pháp thống kê: Sử dụng phƣơng pháp thống kê toán học để xử lí số liệu thu thập đƣợc trong quá trình điều tra khảo sát và quá trình thực nghiệm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 + Phƣơng pháp điều tra khảo sát: Sử dụng phƣơng pháp này để timg hiểu khả năng cảm thụ của học sinh lớp 11 PT vùng cao Việt Bắc về thơ Nguyễn Bính. Từ đó nắm bắt đƣợc thực trạng của việc dạy học thơ Nguyễn Bính để nghiên cứu đề tài một cách xác thực, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học thơ Nguyễn Bính. + Phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm: Sử dụng phƣơng pháp thực nghiệm sƣ phạm với việc tiến hành xây dựng thiết kế bài học và dạy thực nghiệm đối chứng tại trƣờng phổ thông Vùng cao Việt Bắc Thái Nguyên. 7. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm 3 chƣơng: Chƣơng I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài. Chƣơng II: Những biện pháp rút ngắn khoảng cách trong tiếp nhận thơ Nguyễn Bính của học sinh Vùng cao và tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Chƣơng III: Thiết kế bài học thể nghiệm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng I CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Ở chƣơng này của luận văn, chúng tôi sẽ trình bày về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của vấn đề dạy học thơ Nguyễn Bính cho HS Vùng cao Việt Bắc. Cơ sở lý luận gồm những tri thức cơ bản về Phong trào Thơ mới (1932-1942), và thơ Nguyễn Bính trong phong trào Thơ mới. Đồng thời luận văn cũng làm sáng tỏ vấn đề tích cực hóa hoạt động học tập của HS trong phƣơng pháp giảng dạy Ngữ văn. Cơ sở thực tiễn bao gồm đặc điểm cảm thụ văn học nói chung của HS miền núi và đặc điểm cảm thụ thơ Nguyễn Bính nói riêng của HS Vùng cao các tỉnh ở phía Bắc. 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Phong trào Thơ mới trong nền Văn học hiện đại Việt Nam 1.1.1.1. Khái niệm “Thơ mới” Khái niệm “Thơ mới ”đƣợc dùng để đối sánh với với khái niệm “thơ cũ”. Thơ mới là gì ? Thơ mới là lối thơ không theo qui củ của lối thơ cũ, nghĩa là không hạn số câu, số chữ, không theo niêm luật, chỉ cần có vần điệu...”(Việt Nam văn học sử yếu - Dƣơng Quảng Hàm). Theo Nguyễn Quốc Túy trong cuốn “Thơ mới-bình minh thơ hiện đại” (Nxb Giáo dục văn học 1995) thì khái niệm “Thơ mới” không đồng nhất với khái niệm “thơ lãng mạn”...Thơ lãng mạn là một trong những thành phần chính của Thơ mới góp phần to lớn vào thắng lợi của Thơ mới và phong trào Thơ mới. Nhƣng trong Thơ mới còn có những bài thơ hiện thực nhƣ bài “Gửi Trƣơng Tửu”của Nguyễn Vỹ và bài “Chợ tết”của Đoàn Văn Cừ... Với yêu cầu hiện đại hóa thơ dân tộc, Thơ mới đã tiếp thu rất nhiều ở thơ lãng mạn Pháp, đồng thời cũng kế thừa và phát triển tinh hoa thơ cổ của dân tộc, thơ cổ Trung Hoa và thơ dân gian Việt Nam. Nhƣ vậy thơ mới là một bƣớc phát triển mới của dân tộc chứ không phải là một thời đại mới của thơ lãng mạn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 1.1.1.2. Phong trào Thơ mới - quá trình hình thành phát triển và kết thúc Theo Tài liệu.Việt Nam thì “Thơ mới” đã đƣợc thai nghén từ trƣớc 1932, và thi sĩ Tản Đà chính là ngƣời dạo bản nhạc đầu tiên trong bản hòa tấu của phong trào Thơ mới. Tản Đà chính là gạch “nối”của hai thời đại thơ ca Việt Nam, đƣợc Hoài Thanh và Hoài Chân xếp đầu tiên trong số 46 tên tuổi của phong trào Thơ mới. Và đến ngày 10/3/1932 khi Phan Khôi cho đăng bài thơ “Tình già” trên Phụ nữ tân văn số 22 cùng với bài tự giới thiệu “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, thì phát súng lệnh của Phong trào Thơ mới chính thức bắt đầu. Phong trào Thơ mới phát triển qua 3 chặng sau đây: - Giai đoạn 1932-1935: Đây là giai đoạn diễn ra cuộc đấu tranh giữa Thơ mới và “Thơ cũ”.Sau bài khởi xƣớng của Phan Khôi, một loạt các nhà thơ nhƣ: Thế Lữ, Lƣu Trọng Lƣ, Huy Thông, Vũ Đình Liên liên tiếp công kích thơ Đƣờng luật, hô hào bỏ niêm, luật, đối...Trong bài “Một cuộc cải cách về thơ ca”, Lƣu Trọng Lƣ kêu gọi các nhà thơ mau chóng “Đem những ý tƣởng mới, những tình cảm mới thay vào những ý tƣởng cũ”. Cuộc đấu tranh này diễn ra khá gay gắt, bởi phía đại diện cho “ thơ cũ” cũng tỏ ra không thua kém. Các nhà thơ Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Duy Từ, Nguyễn Văn Hạnh phản đối chống lại Thơ mới một cách quyết liệt. Cho đến cuối năm 1935, cuộc đấu tranh này tạm lắng và sự thắng thế nghiêng về phía Thơ mới. Ở giai đoạn đầu, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới với tập “Mấy vần thơ” (1935). Ngoài ra còn có sự góp mặt của các nhà thơ Lƣu Trọng Lƣ, Nguyễn Nhƣợc Pháp, Vũ Đình Liên... - Giai đoạn 1936-1939; Đây là giai đoạn Thơ mới chiếm ƣu thế tuyệt đối, so với “Thơ cũ ” trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại. Giai đoạn này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn nhƣ Xuân Diệu (Tập Thơ Thơ1938), Hàn Mặc Tử (Gái quê-1936, Đau thương- 1937), Chế Lan Viên (Điêu tàn1937), Bích Khuê (Tinh huyết- 1939)... Đặc biệt là sự góp mặt của Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, vừa mới bƣớc chân vào làng thơ “đã đƣợc ngƣời ta dành cho một chỗ ngồi yên ả ” (Hoài Thanh). Xuân Diệu chính là nhà thơ tiêu biểu nhất của giai đoạn này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Sự khẳng định cái Tôi một cách mạnh mẽ đã khiến giai đoạn này diễn ra phân hóa và hình thành một số khuynh hƣớng sáng tác khác nhau. Cái Tôi mang màu sắc cá nhân đậm nét đã mang đến những phong cách nghệ thuật khác nhau, cả về thi pháp lẫn tƣ duy nghệ thuật. Và khi cái tôi rút đến sợi tơ cuối cùng, là lúc nhà thơ mới đã chọn cho mình một cách thoát ly riêng. - Giai đoạn 1940 - 1945: Từ năm 1940 trở đi , phong trào xuất hiện nhiều khuynh hƣớng sáng tác khác nhau.Tiêu biểu là nhóm Dạ Đài gồm Vũ Hoàng Chƣơng, Trần Dần, Đinh Hùng...; nhóm Xuân Thu Nhã Tập có Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Đỗ Cung...; nhóm Trường thơ loạn có Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khuê... Có thể nói các khuynh hƣớng thoát ly ở giai đoạn này đã chi phối sâu sắc cảm hứng thẩm mỹ và tƣ duy nghệ thuật trong sáng tác của các nhà Thơ mới. Giai cấp tiểu tƣ sản thành thị và một số bộ phận tri thức đã không giữ đƣợc tƣ tƣởng độc lập đã tự phát chạy theo giai cấp tƣ sản.Với thân phận của ngƣời dân mất nƣớc, và bị chế độ xã hội thực dân o ép, họ nhƣ kẻ đứng giữa ngã ba đƣờng sắn sàng đón nhận những luồng gió khác nhau thổi tới. Bên cạnh đó, một bộ phận các nhà thơ mới mất phƣơng hƣớng, rơi vào bế tắc, không lối thoát. 1.1.1.3. Đóng góp của Thơ mới đối với nền thi ca Việt nam hiện đại Trong cuốn “Những thế giới nghệ thuật thơ” (Nxb Giáo dục - 1995), Giáo sƣ Trần Đình Sử đã đánh giá về Thơ mới nhƣ sau thì: Phong trào Thơ mới là một cuộc cách mạng về thi ca chƣa từng có trong lịch sử văn học dân tộc. Nó chẳng những đem lại những tác phẩm hay, những nhà thơ độc đáo mà đem lại một phạm trù thơ hiện đại, một thi pháp mới, phân biệt và thay thế cho thơ trữ tình cổ điển truyền thống. Theo Tạ Đức Hiền,Thơ mới có nhiều đóng góp lớn đối với nền thi ca Việt Nam. - Trước hết Thơ mới đã thể hiện được tình yêu cuộc sống thiết tha, nồng nhiệt Cái “tôi” xuất hiện trong Thơ mới là sự khẳng định mình, bứt tung mọi trói buộc, để đƣợc sống đƣợc vui một cách sôi nổi say mê. Sống hết mình với hƣơng sắc của thời gian, và thể hiện đƣợc khát khao của mình “muốn ôm, muốn riết, muốn thâu, muốn say...” tất cả những gì đẹp đẽ nhất của chốn “vƣờn trần”. Xuân Diệu là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 thi sĩ luôn có ý thức về thời gian và sợ thời gian trôi qua một cách nhanh chóng, tuổi trẻ một đi không trở lại , nên phải đắm mình vào hƣơng sắc cuộc đời và thiên nhiên bao la: Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi ! ( Vội vàng ) Hàn Mặc Tử với “Đây thôn Vĩ Dạ”, “Mùa xuân chín” nhƣ đang đắm mình trong hƣơng sắc mùa xuân. Thi sĩ mắt đang say mê nhìn, tai đang lắng nghe, trái tim đang rung động với thế giới củ thần tiên: một tia nắng, một màu xanh của mắt lá, một tiếng gió sột soạt đâu đây: Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng Sột soạt gió trêu tà áo biếc Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang. ( Mùa xuân chín ) Ngoài tình yêu nồng nhiệt, thiết tha trong Thơ mới, các nhà thơ mới đã dành cho thiên nhiên, cho đất nƣớc quê hƣơng những tình cảm đẹp nhất bằng những vần thơ đẹp nhất. Đó là cảnh sắc bình dị của xứ sở đƣợc miêu tả và cảm nhận bằng giọng điệu và hồn thơ rất mới. Đó là hình ảnh “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng” khi bóng xuân sang. Đó là một miền cát trắng đầy nắng lửa với bóng hình cô gái quê tần tảo, cần mẫn: “Chị ấy năm nay còn gánh thóc - Dọc bờ sông trắng nắng chang chang” (Mùa xuân chín - Hàn Mặc Tử). Đó là mảnh vƣờn quê thân thuộc với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 màu xanh ngọc của lá, với ánh nắng hắt tàu cau của cảnh sắc và con ngƣời nơi Vĩ Dạ thôn miền sông Hƣơng núi Ngự: Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền. (Đây thôn Vĩ Dạ ) Cảnh sắc trong Thơ mới là nhƣ thế. Tuy nhiên hình ảnh đất nƣớc trong Thơ mới tuy đẹp mà buồn, bởi đất nƣớc đang bị ngoại bang thống trị, niềm vui sao trọn vẹn đƣợc. - Một phương diện nổi trội của Thơ mới là diễn tả rất hay, rất nồng nàn tình yêu trai gái Nói đến thơ tình thì không thể không nhắc đến Xuân Diệu,ông là thi sĩ của mùa xuân, của tuổi trẻ, của tình yêu. Làm sao cắt nghĩa được tình yêu? Có nghĩa gì đâu một buổi chiều Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu (Vì sao? ) Tình yêu vốn là “miền đất lạ” của gái trai giữa “vƣờn trần”. Là sự ƣớc hẹn, là sự cầu mong đợi chờ: Mở miệng vàng, và hãy nói yêu tôi Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi ! (Mời yêu ) Trong Thơ mới, những thƣơng nhớ, biệt li, hờn giận, ghen tuông, đau khổ, tƣơng tƣ...đều đƣợc các nhà thơ diễn tả tinh tế,huyền diệu. - Giá trị Thơ mới không chỉ có thế. Thơ mới ngoài giá trị tư tưởng như đã nói đến còn có đóng góp không nhỏ về nền nghệ thuật cho thơ ca dân tộc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Điểm mới đầu tiên nghệ thuật Thơ mới, đó là hình thức thơ đã biến đổi. Về mặt ngôn ngữ, cách diễn đạt rất mới, rất hiện đại. Các bài thơ mới rất ít dùng những điển tích. Có những câu thơ sử dụng các phụ âm với dụng ý nghệ thuật gợi tả và gây ấn tƣợng rất độc đáo: Những luồng run rẩy rung rinh lá Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh (Đây mùa thu tới) Nghệ thuật “vắt dòng”, “bắc cầu”, lối chấm câu giữa dòng thơ hầu nhƣ chƣa hề có trong thơ trung đại. Nhiều nhà thơ mới đã vận dụng sáng tạo để diễn tả nhịp điệu hoặc nâng cao tính nhạc của vần thơ: Trời cao, xanh ngắt - Ô kìa Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai (Tiếng sáo Thiên Thai - Thế Lữ ) Nghệ thuật lựa chọn và sử dụng ngôn từ của các nhà Thơ mới rất “bạo”, có nhiều khám phá sáng tạo: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm Say người như rượu tối tân hôn. Hãy tự buông cho khúc nhạc hường Dẫn vào thế giới của Du Dương. (Huyền diệu - Xuân Diệu ) Thơ mới rất đa dạng về thể thơ. Đặc sắc nhất là thất ngôn. Mỗi bài thơ có một số khổ thơ, mà mỗi khổ thơ nhƣ một bài thơ tứ tuyệt (Tràng Giang - Huy Cận, Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử). Có thể ngũ ngôn, lục ngôn, có thể tám tiếng, có thể tự do, câu thơ dài ngắn đan chéo nhau. Một số bài thơ viết bằng thể lục bát rất đậm đà (Tương tư - Nguyễn Bính, Tiếng sáo Thiên Thai - Thế Lữ )... Chỉ trong hơn 10 năm, phong trào Thơ mới đã đi trọn con đƣờng của nó, đằng sau tiếng khóc thƣơng của cái “Tôi” cô đơn ngày càng đi vào bế tắc vẫn có một niềm yêu thơng đất nƣớc quê hƣơng tha thiết, vẫn có khát vọng giải phóng cá nhân và khát vọng tự do. Rõ ràng Thơ mới đã góp phần đem lại sinh khí cho thơ ca Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất