Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch của nguyễn huy tưởng...

Tài liệu Đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch của nguyễn huy tưởng

.PDF
108
77
70

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU TRANG ĐỀ TÀI LỊCH SỬ VÀ CÁCH MẠNG TRONG KỊCH CỦA NGUYỄN HUY TƢỞNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN, 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn Trang bìa phụ ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM NGUYỄN THỊ THU TRANG ĐỀ TÀI LỊCH SỬ VÀ CÁCH MẠNG TRONG KỊCH CỦA NGUYỄN HUY TƢỞNG CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS - TS. Phan Trọng Thƣởng THÁI NGUYÊN, 2011 LỜI CẢM ƠN ! Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới PGS.TS Phan Trong Thưởng - Người thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, Phòng đào tạo - Nghiên cứu khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã nhiệt tình giúp đỡ, khích lệ em trong quá trình nghiên cứu và học tập tại trường. Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo trong tổ Văn trường Văn Hoá 1 - Bộ Công An - Lương Sơn - TP. Thái Nguyên, bè bạn, đồng nghiệp cùng những người thân trong gia đình đã tạo điều kiện cho em trong suốt thời gian qua. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2011 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Thu Trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn i MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ .......................................................................................................i Lời cảm ơn ......................................................................................................... ii Mục lục .................................................................................................................i PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1 PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................ 9 Chƣơng 1. ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT ......... 9 1.1.Những quan niệm khác nhau về đề tài lịch sử. . ........................................ 9 1.2. Đề tài lịch sử trong văn học Việt Nam. .................................................. 19 1.3. Đề tài lịch sử trong văn học thế giới…................................................... 19 1.4. Đề tài lịch sử trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. .......................... 28 Chƣơng 2. CẢM HỨNG LỊCH SỬ VÀ CÁCH MẠNG TRONG KỊCH CỦA NGUYỄN HUY TƢỞNG ...................................................................... 37 2.1. Cảm hứng lịch sử qua Vũ Như Tô. ......................................................... 37 2. 2. Bắc Sơn - Những dấu ấn về lịch sử thời kì trước cách mạng. ............... 49 2.3. Những người ở lại và cảm hứng về lịch sử cách mạng hiện đại. ........... 64 Chƣơng 3. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT KỊCH VỀ ĐỀ TÀI LỊCH SỬ VÀ CÁCH MẠNG CỦA NGUYỄN HUY TƢỞNG .................................... 72 3.1. Nghệ thuật khai thác xung đột lịch sử. ................................................... 73 3.2. Nghệ thuật xây dựng tính cách. .............................................................. 82 3.3. Nghệ thuật tổ chức hành động kịch. ....................................................... 89 3.4. Nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ kịch....................................................... 94 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn nổi tiếng, chiếm một vị trí xứng đáng trên văn đàn Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám (1945). Trong quá trình sáng tác, Nguyễn Huy Tưởng đến với nhiều thể loại như: truyện ngắn, tùy bút, tiểu thuyết và đặc biệt là thể loại kịch. Đối với nền văn học hiện đại Nguyễn Huy Tưởng là một trong số hiếm hoi những tiểu thuyết gia có sở trường về đề tài lịch sử. Dựa vào “những dòng viết ngắn ngủi và hóa thạch” của chính sử và bằng tài văn vốn có, Nguyễn Huy Tưởng đã xác lập được vị trí của mình trên văn đàn dân tộc. Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Nhưng đề tài lịch sử trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng vẫn là vấn đề cần được nghiên cứu thêm. Xuất phát từ lòng yêu thích khi được tiếp xúc với những vở kịch lịch sử đầy cuốn hút như: Vũ Như Tô; Những người ở lại; Bắc Sơn; Cột đồng mã viện…và do ít nhiều đã cảm nhận về lịch sử dân tộc qua cốt cách lịch lãm của văn phong Nguyễn Huy Tưởng. Trân trọng và ngưỡng mộ tài năng của nhà văn, chúng tôi chọn đề tài này với mục đích muốn có một cái nhìn bao quát về cảm hứng chủ đạo trong sự nghiệp sáng tác nói chung và đề tài lịch sử nói riêng của Nguyễn Huy Tưởng, góp phần khẳng định vai trò và vị trí của một nhà văn lớn đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Đó là lý do gợi dẫn chúng tôi tiếp cận với đề tài: “Đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch của Nguyễn Huy Tƣởng”. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Những ý kiến đánh giá về đề tài lịch sử và cách mạng trong sáng tác kịch của Nguyễn Huy Tƣởng: Nhà văn Tô Hoài đã từng coi Nguyễn Huy Tưởng là một cây bút sử thi hết sức hùng tráng. Đọc những sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng về đề tài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 này, ông đã nhận xét: “Anh thèm có những tài năng nào đó đem được cả nghìn năm lịch sử dựng nước biến thành bộ truyện chói lọi hàng trăm, hàng trăm nhân vật anh hùng. Từ lòng mong muốn đưa tâm hồn các em tới những đỉnh cao đẹp trong tư tưởng tình cảm, Nguyễn Huy Tưởng chọn chủ đề truyền thống theo lối riêng của mình thể hiện qua những đề tài cổ tích và lịch sử. Trong văn học thiếu nhi của ta, kể chuyện lịch sử và cổ tích, cho đến bây giờ, chưa có ai chuyên và thành công như Nguyễn Huy Tưởng”[6;221]. Trong chuyên khảo Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960), Hà Minh Đức và Phan Cự Đệ đã nhận định: “Trong số các tác giả, Nguyễn Huy Tưởng là người có thế giới quan tiến bộ nhất và đã cố gắng khai thác đề tài lịch sử một cách nghiêm túc và sáng tạo. Riêng Nguyễn Huy Tưởng, trong tác phẩm của mình đã tỏ ra khá trung thành với tinh thần của những thời đại quá khứ xa xưa. Để xây dựng những vở kịch và tiểu thuyết lịch sử của mình Nguyễn Huy Tưởng rất chú ý tìm tòi nghiên cứu những tài liệu lịch sử, những tác phẩm của các nhà văn quá khứ”[6;315]. Trên cơ sở đó, hai nhà nghiên cứu khẳng định sự sáng tạo của nhà văn: “Nguyễn Huy Tưởng đã có công nghiên cứu lịch sử nhưng anh không nô lệ tài liệu lịch sử... Nguyễn Huy Tưởng đã đi sâu vào đời sống nội tâm, vào đời sống riêng của nhân vật, chứ không phải chỉ trình bày nhân vật trong lúc mang quân phục lịch sử để diễu hành”[6;125]. Hà Minh Đức trong cuốn sách giới thiệu về các nhà văn được giải thưởng Hồ Chí Minh, đã nhấn mạnh đến cảm hứng chủ đạo của ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng như sau: “Nguyễn Huy Tưởng đã khơi nguồn cho tác phẩm của mình từ dòng lịch sử của dân tộc với bao trang hào hùng rực rỡ chiến công chống xâm lược. Lịch sử được cảm nhận sâu sắc trong những ngày đen tối của cuộc đời hiện tại. Hiện tại không chỉ liên hệ với quá khứ theo dòng thời gian mà nhiều khi là điểm xuất phát và là cảm hứng trực tiếp để khai thác đề tài lịch sử”[6;212]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Nguyễn Bích Thu và Tôn Thảo Miên trong bài viết Nguyễn Huy Tưởng - Khát vọng một đời văn đã nhận xét: “Đối với nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Huy Tưởng là một trong số hiếm hoi những tiểu thuyết gia có sở trường về đề tài lịch sử”. Dẫn lời nhà văn Nguyễn Minh Châu, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định trong bài viết này rằng: “Nguyễn Huy Tưởng là một nhà văn đồng thời cũng là một nhà văn hóa”, cái nhìn của ông về lịch sử, là cái nhìn từ góc độ văn hóa học. Nhận định về các vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng, hai nữ tác giả viết: “Ngòi bút sử thi mang màu sắc lịch sử kết hợp với phong vị lãng mạn, trữ tình là đặc điểm cơ bản trong kịch Nguyễn Huy Tưởng”. Nhà sử học Lê Văn Lan trong bài viết “Nguồn sáng ở một nhà văn đi trước” đã công nhận những ảnh hưởng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng tới mình như sau: “Trong khoảng hai mươi năm làm truyện lịch sử cho thiếu nhi, dưới ảnh hưởng của Nguyễn Huy Tưởng, điều mà tôi học được, chủ yếu là qua những truyện lịch sử viết cho thiếu nhi của anh - kể cả học mà chưa hành được - là tính khoa học, tính văn học - văn nghệ, tính văn học thiếu nhi, đều ở mức cao”[13;186]. Trong bài Khắc khoải một đời văn nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh có viết: “Đọc Nguyễn Huy Tưởng, ai cũng nhận ra một cảm hứng lịch sử dồi dào bao trùm phần lớn các tác phẩm. Cái nguồn dồi dào ấy đủ sức phân nhánh ra nhiều thể loại: kịch lịch sử, tiểu thuyết lịch sử, truyện lịch sử viết cho thiếu nhi... và làm nên nét đặc sắc của văn ông”[6;102]. Viết về “Những trăn trở và khát khao sáng tạo của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng”, Mai Hương nhận xét: “Những suy nghĩ sâu sắc ấy về lịch sử về dân tộc đã góp phần khơi gợi nguồn mạch riêng cho ngòi bút Nguyễn Huy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 Tưởng để rồi lịch sử dân tộc mãi gắn bó và trở thành dòng mạch dào dạt, xuyên chảy suốt cả đời viết văn của ông, đến như thành một nỗi ám ảnh, một sự đam mê”[6;151]. Qua một vài ý kiến tiêu biểu nhận xét như đã dẫn ở trên có thể khẳng định đề tài lịch sử là phần tâm huyết nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng và ở đó người đọc có thể nhận thấy một phong cách tài hoa lịch lãm của một nhà văn hóa lớn đầy tâm huyết với lịch sử dân tộc và những khát khao sáng tạo. 2.2 Những ý kiến đánh giá về đề tài lịch sử trong ba vở kịch: Vũ Nhƣ Tô, Bắc Sơn, Những ngƣời ở lại. * Vũ Như Tô Vũ Như Tô thuộc trong số tác phẩm đầu tay của nhà văn “trẻ” Nguyễn Huy Tưởng lúc này đã vào tuổi 30. Và không phải chỉ riêng ở thời điểm kịch vở ra đời. Suốt từ năm 1942 cho đến khi qua đời - năm 1960, qua nhật ký của nhà văn, chúng ta biết “ám ảnh” của Vũ Như Tô đối với ông thật dai dẳng. Có thể nói Nguyễn Huy Tưởng đã dồn hết tâm lực của mình vào hai nhân vật chính của kịch là kiến trúc sư Vũ Như Tô và cung nữ Đan Thiềm. Cặp tri âm tri kỷ này nói nhiều với ta về những khát vọng lớn lao của con người; khát vọng đó đã được thực hiện ở những người có chí có tài, nhưng lại phải ở vào những tình cảnh trớ trêu, bất hạnh. Họ đã thật sự quên mình cho một sự nghiệp lớn hơn bản thân họ. Đan Thiềm vì tri kỷ với Vũ Như Tô đã một lần khuyên Vũ nên nhận xây Cửu Trùng đài; và tiếp đó, khi Vũ Như Tô bị truy nã lại khuyên ông bỏ trốn; và do Vũ Như Tô không chịu bỏ trốn, và lo cho người tài của đất nước bị bỏ mạng, nên nàng đã nhận chết thay cho ông... Vũ Như Tô, vì tri kỷ với Đan Thiềm mà lao vào một sự nghiệp rồi sẽ bị thiêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 cháy; trong sự nghiệp đó, người nghệ sĩ lớn ngay từ đầu đã dứt khoát: “Xây Cửu Trùng đài cho một tên bạo chúa, một tên thoán nghịch, cho một lũ gái dâm ô? Tôi không thể đem tài ra làm bia miệng cho người đời được”; nhưng rồi nghe theo lời Đan Thiềm, ông đã nhận lời và hăng hái nhập cuộc. Cho đến khi bị điệu ra pháp trường, ông vẫn còn ngơ ngác: “Ta tội gì? Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm cho đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Vậy thì ta có tội gì? Ta xây Cửu Trùng đài có phải đâu để hại nước!”[2;101]. Bi kịch lớn là ở đây. Ở một sự nghiệp muốn được sống vĩnh cửu theo thời gian, muốn là biểu tượng vẻ vang của xứ sở, nhưng lại phục vụ cho cường quyền. Là kết quả sáng tạo của người nghệ sĩ, nhưng lại được thực hiện trên mồ hôi, xương máu của nhân dân. Giải quyết mâu thuẫn và bi kịch này như thế nào, đó là cả một câu hỏi lớn. Nguyễn Huy Tưởng phải để cho nhân vật chết trong lửa hận của quần chúng; nhưng cái niềm phân vân, và giằng co chưa thể giải toả trong quan niệm nghệ thuật, ông đem đặt vào lời đề từ của tác phẩm: “... Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Kịch Vũ Như Tô có vóc dáng vạm vỡ của một tượng đài. Nói đúng hơn, một nhóm tượng đài, với cuồn cuộn lửa khói và đám đông hò reo, với thấp thoáng bóng dáng sầu muộn của Đan Thiềm và gương mặt vừa rạng rỡ, vừa quằn quại, đau khổ của Vũ Như Tô khi thấy Cửu Trùng Đài bốc cháy. Cũng chính vì sự phân vân này mà cả một thời gian dài, suốt hai thập niên, dẫu đã trải nhiều lần sửa chữa, Vũ Như Tô vẫn chưa thể đưa in. Nó là cả một nỗi niềm của tác giả. * Bắc sơn Nguyễn Huy Tưởng phản ánh chân thực phần nào cuộc vùng dậy vĩ đại của quần chúng cách mạng trong cuộc đấu tranh lớn lao. Vở kịch Bắc Sơn đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 khiến chúng ta sống một phần nào cái không khí bừng bừng của cuộc cách mạng đang lên (màn I) rồi cái lớn lao, đau đớn của cuộc cách mạng tan vỡ (màn III) và cái hi vọng cuộc cách mạng nhóm trở lại (màn V). Kịch Bắc Sơn đã vẽ được bằng những nét mạnh dạn, sinh động, một vài nhân vật cách mạng: Người cán bộ, người dân cày, người thanh niên, ông lão, người đàn bà… kịch Bắc Sơn đã cho ta thấy cả sự tiến triển, biến động trong tâm hồn những nhân vật ấy nhờ cuộc cách mạng như thế nào. Sau hết, kịch Bắc Sơn đã khiến ta hiểu phong trào Bắc Sơn với những ưu điểm và khuyết điểm của nó. Kịch Bắc Sơn thuộc loại kịch tuyên truyền, biểu dương tinh thần chiến đấu bất diệt của dân chúng Bắc Sơn. Suốt năm màn kịch, ta thấy tác giả đã cố gắng nhiều. Vì thế nghệ thuật không hề bị làm hại, và mục đích tuyên truyền tuy phải xếp hàng hai nhưng cũng ghi được ấn tượng trong óc người xem. * Những người ở lại Với sự am hiểu và kiến thức uyên thâm của mình, Nguyễn Huy Tưởng lại tiếp tục thuyết phục người đọc bằng những phút hồi hộp mà đồng bào Thủ Đô đã trải qua ngay hôm nổ súng. Ghi lại khoảnh khắc, đời sống tâm hồn, ý tưởng, hành vi của những người vì hoàn cảnh mà phải ở lại thủ đô có lẽ chỉ cho Nguyễn Huy Tưởng mới làm được điều đó và cho ra đời một tác phẩm có giá trị thêm cho đề tài kịch lịch sử và cách mạng: Những người ở lại (1948) là một tác phẩm như thế. Vở kịch Những người ở lại ra đời được mọi người hết sức hoan nghênh vì tác giả đã chọn một đề tài đặc sắc có thể an ủi phần nào niềm nhớ nhung của mọi người đang mang trong mình hình ảnh thủ đô yêu mến và mong mỏi trở về thủ đô giữa quang cảnh tưng bừng và khúc khải hoàn vang dậy. Cốt truyện phức tạp của vở kịch đã đòi hỏi rất nhiều công phu cấu tạo. Tác giả đã khéo chọn những trường hợp giữa bác sỹ Thành với Sơn, cũng như giữa trường hợp bác sỹ Thành với Ngọc Cẩm, giữa Ngọc Cẩm với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 Quảng, giữa Quảng với Lan… làm cho bạn đọc hồi hộp. Tách riêng từng phần mà xét ta thấy tác giả đã có tài sắp đặt được nhiều tình tiết. So với vở kịch Bắc Sơn kĩ thuật kịch của Nguyễn Huy Tưởng trong Những người ở lại tiến rất nhiều. Những ưu điểm ấy cho ta đặt nhiều hy vọng vào tác giả ở những tác phẩm sau này. 3. Mục đích nghiên cứu. Luận văn tiến hành khảo sát, nghiên cứu một cách bao quát và hệ thống về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng trong các tác phẩm kịch: - Vũ Như Tô (1943). - Bắc Sơn (1946). - Những người ở lại (1948). Đây là những tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tìm hiểu về đề tài lịch sử và cách mạng trong kịch của Nguyễn Huy Tưởng với mong muốn có cái nhìn khách quan và khoa học về vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở đó ghi nhận những đóng góp và khẳng định vị trí của nhà văn với sự phát triển thể loại kịch. 4. Phạm vi và giới hạn đề tài. Luận văn tập trung nghiên cứu ba tác phẩm kịch: - Vũ Như Tô (1943). - Bắc Sơn (1946). - Những người ở lại (1948). Đây là ba tác phẩm được viết theo trình tự thời gian lịch sử ở Việt Nam từ trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945 của Nguyễn Huy Tưởng. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có sự tham khảo và so sánh với những tác phẩm của các nhà văn khác cùng đề tài. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu. Để đạt tới mục đích nghiên cứu, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng những phương pháp sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 - Phương pháp lịch sử xã hội. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp đối chiếu. - Phương pháp hệ thống. - Vận dụng lý thuyết thi pháp tác phẩm và thi pháp thể loại. 6. Những đóng góp của luận văn. - Tìm hiểu đề tài lịch sử trong thể loại kịch của Nguyễn Huy Tưởng: Miêu tả, phân tích, chỉ ra đặc điểm của thể loại kịch của Nguyễn Huy Tưởng. - Đóng góp thêm một cái nhìn mới có tính chất hệ thống và hoàn thiện hơn về đề tài lịch sử trong sáng tác nói chung và sáng tác kịch nói riêng của Nguyễn Huy Tưởng. - Góp thêm một tiếng nói hữu ích trong việc nghiên cứu sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng, có thể làm tài liệu tham khảo cho việc dạy và học văn học trong các trường Trung học Phổ thông. 7. Cấu trúc của luận văn Phần nội dung được triển khai trong 3 chương: Chƣơng 1: Đề tài lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật. Chƣơng 2: Cảm hứng lịch sử và cách mạng trong kịch của Nguyễn Huy Tƣởng. Chƣơng 3: Đặc điểm nghệ thuật kịch về đề tài lịch sử và cách mạng của Nguyễn Huy Tƣởng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 ĐỀ TÀI LỊCH SỬ TRONG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT 1.1. Những quan niệm khác nhau về đề tài lịch sử. Sự bất đồng trong quan niệm về đề tài lịch sử của các nhà nghiên cứu xuất phát từ những cách hiểu khác nhau về thuật ngữ khi đặt lịch sử trong tương quan với tiểu thuyết, quan hệ giữa sự thật lịch sử và hư cấu, độ lùi quá khứ gần xa đến mức độ nào… đề tài lịch sử trong văn học hiểu theo nghĩa chung nhất, là kịch văn học viết về đề tài lịch sử. Sự có mặt của lịch sử trong kịch nảy sinh những mâu thuẫn: thứ nhất, lịch sử đòi hỏi chính xác, tỉ mỉ còn kịch cho phép hư cấu, vậy lịch sử trong văn học có thể hư cấu đến đâu; thứ hai, lịch sử trong văn học là lịch sử của những biến cố trọng đại và những nhân vật có can dự trực tiếp trong biến cố hay lịch sử của những câu chuyện đời thường và số phận vô danh; thứ ba, những tác phẩm viết về thời kỳ gần đây có được coi là những tác phẩm viết về đề tài lịch sử hay không, khoảng cách thời gian tác giả sống với thời đại trong tác phẩm như thế nào là đủ. Bên cạnh đó, sự khác biệt trong truyền thống văn hóa phương Đông và phương Tây cũng tạo nên những quan niệm khác nhau về trong văn học về đề tài lịch sử. Theo quan niệm truyền thống, lịch sử cần đảm bảo độ chính xác lịch sử với những sự kiện có tầm vóc, nhân vật có can dự trực tiếp vào biến cố lịch sử đóng vai trò nhân vật trung tâm và mục đích tái hiện lại lịch sử theo quan điểm chính thống. Với quan niệm này ngày nay văn học viết đề tài lịch sử khó có đất để tồn tại bởi xét về độ chân thật và chính xác, nó thua xa những thể loại phóng sự, ký sự, hơn nữa nếu cần cung cấp kiến thức lịch sử, chỉ cần một cái nhấp chuột, người đọc có thể thỏa mãn mọi tò mò về các triều đại, các nhân vật lịch sử ở bất cứ đất nước nào. Với quan niệm rộng mở hơn, văn học Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 viết về đề tài lịch sử bao hàm cả dã sử, huyền sử, thậm chí là phản lịch sử là sự tổng hợp nhiều chủ đề, có thể chỉ xuất hiện khung cảnh lịch sử, tùy theo trí tưởng tượng nhà văn mà hư cấu nhân vật và không nhất thiết phải nhân vật đó phải đóng vai trò trung tâm trong tiến trình lịch sử. Sự nới rộng quan niệm đó dẫn đến việc văn học lịch sử lấn sân sang nhiều địa hạt khác, nghĩa là nó dung nạp cả tiểu thuyết sử thi, tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết kiếm hiệp, tiểu thuyết lãng mạn… Và với quan điểm như vậy dù lối viết hiện đại hay truyền thống, trung thực với chính sử hay giả lịch sử, thể hiện chủ đề lịch sử qua việc tái hiện lịch sử hay tư tưởng nhân sinh nào khác, những tác phẩm hiện diện yếu tố lịch sử không hạn chế khả năng và tự do sáng tạo của nhà văn đều được coi là tiểu thuyết lịch sử. Quan niệm rộng mở này sẽ không làm tàn lụi tiểu thuyết lịch sử, trái lại, giúp nó hồi sinh dưới những dạng thức mới. Tuy nhiên, chấp nhận hay không vẫn tùy thuộc vào quan điểm của từng cá nhân. Trong văn học, đề tài lịch sử luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà văn. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về đề tài lịch sử trong sáng tạo nghệ thuật. Nhưng trong một phạm vi nhất định, đề tài lịch sử được đề cập tới trong văn học không chỉ là sự sao chép, mô phỏng những sự kiện mà còn là sự suy ngẫm về ý nghĩa của những sự kiện; về những bài học lịch sử phù hợp với thời đại, với nhà văn và với môi trường đạo đức, xã hội – tinh thần mà tác giả gắn bó. Ở mỗi thời đại khác nhau lại xuất hiện những quan niệm khác nhau về đề tài lịch sử, ví dụ như: Ảnh hưởng của những sử gia cổ đại: “Là không thể coi thường được”. Tác giả Thucydide với tác phẩm: “Cuộc chiến tranh của Péloponnèse” (khoảng 460-395 TCN), tác phẩm này đã tường thuật lại cuộc chiến tranh Péloponnèse mà chính nhà sử học Hy lạp này đã được chứng kiến và đây là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 một mẫu mực về sự phê bình thông minh những sự kiện diễn ra và được độc giả chú ý rất nhiều. Sang đến thời Trung cổ và thế kỷ XVI: Lịch sử thường được ghi chép qua các tiểu sử tự thuật hoặc các tiểu sử của những tác giả có chung quan niệm với chủ nghĩa cá nhân thời Phục Hưng: Đề tài lịch sử đôi khi có những nét giống với lời tán tụng hay một tiểu sử thánh thần hay đã được sáng tạo dưới dạng một tập hợp những sự việc vui nhộn mang tính giáo dục đạo lý, đẹp mê hồn, hay nêu gương đạo đức để cảm hóa, quan niệm này còn tồn tại mãi đến thế kỉ XIX. Ở thế kỉ XVII và XVIII: Lúc này lịch sử đã trở thành một thể loại văn học và vì vậy nó phải đáp ứng những tiêu chí của cách cư xử hợp lề thói, của kết cấu bố cục… Đến thế kỉ XIX: Đối với một số tác giả, lịch sử vẫn luôn là một đề tài hấp dẫn với những bận tâm về mặt mỹ học của tác phẩm (màu sắc, kể chuyện, kịch…) đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đến tính khách quan đến ý nghĩa cụ thể, đến tính cách cá nhân…đối với những người khác, đề tài lịch sử ngả về việc phân tích sự việc được xem xét một cách trừu tượng hơn. Từ sau năm 1870, đề tài lịch sử mang tính thực chứng áp đặt một quan niệm thực sự khoa học. Đến thế kỉ XX: Những tác giả nghiên cứu đề tài lịch sử đã cố gắng tránh những trở ngại gây ra bởi tính chủ quan trong khi coi trọng hơn nữa phương pháp phê bình. Đề tài lịch sử khai thác ở mọi lĩnh vực cố khôi phục lại một cách khách quan tâm hồn của một thời đại, các tác giả văn học thường gắn bó một chủ đề với một giai đoạn lịch sử được xác định chính xác, hướng đề tài lịch sử về những tâm tính, những biểu hiện tư tưởng, những bước tiến của dân chúng, những phong tục tập quán… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 Có thể nói lịch sử cho nguời ta một sự siêu thoát và đề tài lịch sử là một nguồn cảm hứng vô tận với những nhà văn vì thế Hugô (trong lời nói đầu của vở Crômwell ) và những nhà văn lãng mạn đã nhấn mạnh đến việc sử dụng lịch sử để tô đậm màu sắc địa phương của tác phẩm văn học. Cho dù quan niệm về đề tài lịch sử như thế nào thì lịch sử vẫn luôn là miền đất hấp dẫn đối với nhà văn. Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh ra đời cách nhau khoảng năm sáu năm nhưng hai cuốn tiểu thuyết này là kết quả của một quá trình thai nghén lâu dài với cảm thức lịch sử và những trải nghiệm thể hiện tư tưởng nghệ thuật, nhãn quan độc đáo của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã từng cho rằng “Theo tôi, tiểu thuyết lịch sử trước hết là tiểu thuyết”. Có thể thấy Nguyễn Xuân Khánh khá nhấn mạnh tính tiểu thuyết trong các tác phẩm viết về lịch sử của mình. Bài viết không nhằm mục đích phân loại tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh có phải tiểu thuyết lịch sử hay không mà tìm hiểu quan niệm về lịch sử thông qua thế giới nghệ thuật với mong muốn góp phần lý giải sự thành công của hai cuốn tiểu thuyết Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng ngàn . Nhận định về sự khác nhau giữa vai trò của nhà văn với nhà sử học, M. Kundera cho rằng: “Khoa chép sử viết lại lịch sử xã hội chứ không phải con người, vì vậy những sự kiện lịch sử được nói đến trong các tiểu thuyết của tôi thường bị khoa chép sử bỏ quên”[23]. Tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử vấp phải vấn đề muôn thuở đó là cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa sự thật và hư cấu, lịch sử yêu cầu tính chân thực trong khi văn học cho phép hư cấu. Giải pháp tốt nhất có thể thực hiện đó là nhà văn giải quyết mối mâu thuẫn giữa sự thật và hư cấu bằng “sự thật của con người”, độc giả có quyền không tin nhà văn nhưng sự thật về con người theo logic khách quan thì không thể phủ nhận. Khám phá con người trong lịch sử vốn không phải là chuyện mới, bởi “văn học là nhân học”, tuy nhiên, khi nhà văn tiếp cận lịch sử có thể bị hút vào các sự kiện, biến cố mà làm mờ nhạt đi khả năng khám phá con người. Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Khánh lấy con người làm tâm điểm chứ không lấy việc tái hiện lịch sử hoặc minh hoạ lịch sử làm mục đích phản ánh. Nhà văn muốn khám phá sự phản chiếu của thời đại lịch sử vào tâm lý, tính cách, số phận cụ thể của con người, đồng thời qua đó ông đặt lại một số vấn đề cần nhận thức với tinh thần hoài nghi cái lịch sử “tại ngoại” mà số đông chúng ta vẫn coi là tất yếu. Nói đến đề tài lịch sử là nói đến sự công phu tìm tòi tư liệu, gom góp kiến thức, tích luỹ sự hiểu biết mọi mặt về đời sống xã hội, văn hoá tinh thần, vật chất…của một thời đại, một giai đoạn lịch sử đã trở thành quá vãng mà người viết có thể không trực tiếp sống, không được trải nghiệm. Nếu thời điểm lịch sử được người viết lựa chọn đã quá xa và nhân vật lựa chọn là người danh tiếng vang bóng một thời, thì anh ta sẽ phải đối mặt với cả rừng tư liệu của chính sử, huyền sử và cả dã sử nữa. Lựa chọn tư liệu nào, lựa chọn cách khai thác nào là cả một vấn đề lớn quyết định đến thành - bại của tác phẩm. Những quyết định lịch sử của các nhân vật lịch sử thường mang tính lý trí, không mấy hấp dẫn với người xem, nếu không muốn nói là buồn chán. Nhiệm vụ của nghệ sỹ là sáng tạo ra những tình huống kịch tính, bịa ra những xung đột trong mối tương quan rất đời thường của nhân vật, trong quá trình vận động dẫn tới quyết định lịch sử đó. Dựa trên tính cách nhân vật mà hư cấu tạo ra kịch tính, biến đổi sự việc kém hấp dẫn tới mức trở thành lôi cuốn, nhưng cần tôn trọng những gì lịch sử đã ghi thành văn bản như bản chất sự kiện, địa điểm, ngày tháng, lời phát ngôn của nhân vật... Như vậy trí tưởng tượng phong phú của bạn mặc sức tung hoành mà không sợ phản lại lịch sử. Nhân vật lịch sử tất nhiên là người có tham vọng lớn. Khi người ta có tham vọng , bao giờ người ta cũng dẫm bẹp chân ai đó. Vậy là trong bản chất của sự kiện bao giờ cũng hàm chứa xung đột đối kháng. Cứ như vậy bạn sẽ không lo thiếu kịch tính. Nếu chỉ dựa vào công tác sưu tầm tra cứu là không bao giờ đủ. Hãy phát huy tối đa sức tưởng tượng, hãy để cho trực giác lôi cuốn và nếu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 đi đúng hướng thì sự “hư cấu” sẽ biến thành “sự thật toàn vẹn”. Đây có lẽ là đề tài một cuốn sách lớn cho nhà nghiên cứu. Với tư cách là một biên kịch có chút ít kinh nghiệm thực tế, tôi mạnh dạn trao đổi nhận thức riêng của mình với các bạn đồng nghiệp, mong có giúp ích gì cho các đồng nghiệp trẻ. Và trong luận bàn có điều gì thái quá hay nửa vời, xin đồng nghiệp và những nhà nghiên cứu lượng thứ chỉ dẫn. 1.2. Đề tài lịch sử trong văn học thế giới. Nói đến đề tài lịch sử là nói đến sự công phu tìm tòi tư liệu, gom góp kiến thức, tích luỹ sự hiểu biết mọi mặt về đời sống xã hội, văn hoá tinh thần, vật chất…của một thời đại, một giai đoạn lịch sử đã trở thành quá vãng mà người viết có thể không trực tiếp sống, không được trải nghiệm. Nếu thời điểm lịch sử được người viết lựa chọn đã quá xa và nhân vật lựa chọn là người danh tiếng vang bóng một thời, thì anh ta sẽ phải đối mặt với cả rừng tư liệu của chính sử, huyền sử và cả dã sử nữa. Lựa chọn tư liệu nào, lựa chọn cách khai thác nào là cả một vấn đề lớn quyết định đến thành - bại của tác phẩm. Đây là đề tài phổ biến trong văn học thế giới. Có thể xem là một đề tài vĩnh cửu, “một miền đất hứa” mà nghệ sĩ của mọi thời đại có thể khai thác. Những tác giả khai thác về đề tài lịch sử trên thế giới đều rất thành công. Có thể kể đến những tác phẩm nổi tiếng như: Thần thoại Hy lạp (Bi kịch cổ đại Hy lạp); thời Phục Hưng có những vở kịch nổi tiếng của Shakespeare; thời chủ nghĩa cổ điển với kịch của Môlie; Ba chàng Ngự lâm (Dumas); Cuốn theo chiều gió (Margare Mitchell) và trong văn học Trung Quốc cũng có rất nhiều tác phẩm kịch nổi tiếng được công chúng ưa thích… Trước tiên phải kể đến Shakespeare (1564- 1616), ông được mệnh danh là “linh hồn của thời đại”, là nhà thơ, nhà viết kịch đầu tiên của nước Anh, là tác giả tiêu biểu nhất trong thời kỳ văn hóa phục hưng Châu Âu. Cả cuộc đời ông sáng tác tất cả 37 vở kịch, 154 bài mười bốn dòng, 2 bài thơ dài và các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 thể loại thi ca trong đó những tác phẩm viết về đề tài lịch sử là rất lớn. Trong giai đoạn sáng tác thứ nhất (1566- 1600), Shakespeare có đến chín kịch bản viết về đề tài lịch sử. Đây là giai đoạn nước Anh đã giành được bá quyền trên mặt biển và trở thành cường quốc thế giới. Kinh tế trong nước phát triển, xã hội ổn định, quyền lực tập trung trong tay nhà vua, tư tưởng chủ chủ nghĩa nhân văn được truyền bá rộng rãi. Những vở kịch lịch sử của ông là những bức tranh toàn cảnh về đời sống xã hội, tinh thần chống lại cát cứ phong kiến và ủng hộ vương quyền. Đây là sản phẩm độc đáo trong nền kịch nước Anh. Vở kịch King John của ông thể hiện sự kiện lịch sử của thế kỷ XIIXIII. Các vở kịch khác tập trung thể hiện sự chao đảo và thay đổi của xã hội Anh từ sau thế kỷ XIV và thế kỷ XX. Shakespeare xây dựng những nhân vật theo từng tầng lớp xã hội như nhà vua, giới quý tộc, hiệp sĩ, thị dân, binh sĩ, nông dân và cả những thành phần lưu manh, gái điếm. Tất cả phản ánh sự tan rã của xã hội phong kiến Anh và tham vọng ổn định xã hội của giai cấp tư sản, tuy rằng vẫn còn mờ nhạt. Từ năm 1590 đến năm 1591, vở kịch lịch sử Henry VI ra đời. Vở kịch kể về một nhà vua nhu nhược Henry VI trị vì đất nước trong suốt năm mươi năm và dẫn tới tình trạng đất nước bị lâm nguy. Thực tế nước Anh trong thời kỳ này đang bị thù trong giặc ngoài, khói lửa chiến tranh liên miên. Tiếp theo tiến trình lịch sử là vở kịch Richard IV ra đời năm 1592, câu chuyện kể về Richard sát hại vua Henry VI và sau cái chết của vua Richard IV, Richard đã âm mưu sát hại sáu người kế thừa ngôi vua hợp pháp và xúi giục dân chúng bạo loạn đưa ông ta lên làm vua. Nhân vật Richard III mang tính chất điển hình của nhân vật lịch sử, một bạo chúa đầy tham vọng, xảo trá, độc ác, nham hiểm. Đến vở Henry IV, nhân vật Sir Jonh Falstaff được xây dựng hết sức sáng tạo, đó là một gã hiệp sĩ chỉ biết ăn chơi và háo sắc. Khi ra chiến trường gã giả vờ chết để bảo tồn tính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 mạng, thể hiện một lớp người trong xã hội chuyên lợi dụng tình hình xã hội để vơ vét hưởng lạc. Ngoài ra, Shakespeare còn mang vào trong kịch của ông cả một giai đoạn lịch sử suốt hơn 200 năm của nước Anh như vở Henry V (1598) và Henry VIII (1612). Ông lên tiếng khiển trách những cuộc chiến tranh đẫm máu của giới quý tộc phong kiến bày tỏ nguyện vọng thống nhất quốc gia, ổn định xã hội. Qua những vở kịch của mình, ông cũng vạch trần những mâu thuẫn của thời đại, phản ánh lý tưởng của giai cấp tư sản mới vươn lên. Tiếp theo là vở Hamlet. Vở Hamlet ra đời năm 1601, tác phẩm mở ra cả một thời đại phát triển mới của bi kịch. Trước đó, ông chủ yếu viết hài kịch và kịch lịch sử. Những vở kịch này đã vạch trần sự tàn bạo, thối nát của chế độ phong kiến lỗi thời. Có điều, khi đấu tranh chống lại những tàn dư của chế độ phong kiến, cũng như những nhà nhân văn chủ nghĩa khác, Shakespeare tin tưởng vào tương lai tốt đẹp của xã hội. Nhưng từ những năm 90 của thế kỷ XVI, tình hình nước Anh bắt đầu thay đổi. Chính thể chuyên chế từng giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại tình trạng phong kiến cát cứ ngày càng trở nên thối nát, đốn mạt. Giai cấp thống trị bộc lộ bản chất phản nhân dân của nó. Những tệ nạn thời trung cổ được hồi sinh dưới những hình thức còn khủng khiếp hơn rất nhiều. Trước tình hình xã hội như vậy quan điểm xã hội và triết học của tác giả cũng trở nên phức tạp. Ông nhận ra những mâu thuẫn của chế độ chuyên chế tư sản. Ông muốn phân tích, khám phá bản chất của những mâu thuẫn ấy. Và sáng tác của ông đã phản ánh một cách thiên tài toàn bộ sự lạc điệu của đời sống xã hội đương thời. Phần mở đầu bi kịch Hamlet chính là phần mở ra một tình thế lịch sử. Ấn tượng đầu tiên mà nó mang lại khi ta xem vở kịch là sự lo âu, kinh hoàng, là linh cảm về những biến động dữ dội rồi sẽ sảy ra. Quả là những gì đã xảy ra trong tác phẩm Hamlet có liên quan tới những vấn đề trọng đại mang tầm cỡ quốc gia. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất