Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự...

Tài liệu định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh bình phước

.PDF
83
414
89

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ QUANG NINH ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ QUANG NINH ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN VĂN ĐỘ Hà Nội - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Tác giả luận văn Lê Quang Ninh MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: 1 LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 8 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của định tội danh 8 1.2. Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 10 1.3. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 20 Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC VÀ NHỮNG HẠN CHẾ 32 2.1. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước 32 2.2. Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước Chương 3: 40 YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 53 3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 53 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 56 KẾT LUẬN 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra ĐTD: Định tội danh LĐCĐTS: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản PLHS: Pháp luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1 Cơ cấu của tình hình Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản so với tình hình các loại tội phạm chung trên địa bàn khu vực miền Đông Nam Bộ Bảng 2.2 Cơ cấu của tình hình Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản được tính toán trên cơ sở diện tích của các tỉnh, thành khu vực miền Đông Nam Bộ Bảng 2.3 Thống kê số vụ án và số bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố và xét xử về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.4 Tình hình Tội phạm Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2014 – 2018 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Những vấn đề lý luận và thực tiễn về ĐTD luôn là một những nhiệm vụ quan trọng của khoa học luật hình sự Việt Nam vì: Quá trình giải quyết vụ án một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội phụ thuộc rất nhiều vào việc cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền xác định tội danh đã được thực hiện trong thực tế khách quan có chính xác hay không? Thực tiễn áp dụng PLHS cho thấy rằng nếu như trong tất cả các VAHS khi tội phạm được xác định chính xác không những sẽ góp phần làm cho hình phạt được quyết định đối với người phạm tội phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà người đó đã thực hiện và đảm bảo sức được thuyết phục mà còn làm cho hiệu quả của pháp luật và pháp chế XHCN cũng như uy tín của Tòa án và các cơ quan bảo vệ pháp luật được nâng rõ rệt lên trước nhân dân và dư luận xã hội. Ngoài ra, quá trình điều tra, truy tố và xét xử cho thấy, trong một số trường hợp các cơ quan tư pháp hình sự cũng có thể ĐTD không được chính xác vì các quy phạm PLHS được ghi nhận trong luật thực định thường là các quy phạm dưới dạng trừu tượng nhưng các tình huống diễn ra trong thực tế khách quan của đời sống xã hội thì lại rất phong phú và đa dạng nên không phải lúc nào các nhà làm luật cũng có thể lường trước được tất cả mọi tình huống có thể xảy ra. Chính vì vậy, những vấn đề lý luận về ĐTD và thực tiễn áp dụng các quy phạm PLHS có liên quan đến việc ĐTD luôn được các nhà khoa học, các cán bộ nghiên cứu và cán bộ thực tiễn của các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án… coi là những vấn đề đa dạng và phức tạp, đang được tranh luận với nhiều quan điểm, ý kiến rất khác nhau. 1 Theo tinh thần của Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị: Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì việc ĐTD đúng là yêu cầu cần thiết phục vụ hiệu quả cho tiến trình cải cách tư pháp và đảm bảo quyền con người trong TTHS. Thực tiễn giải quyết VAHS những năm qua cho thấy, các vụ việc oan, sai chủ yếu bắt nguồn từ việc ĐTD sai, đánh giá chứng cứ phiến diện, chủ quan. Do vậy, ĐTD vẫn được xem là một trong những khâu khó trong chuỗi các hoạt động tố tụng hình sự, đặc biệt là với những tội phạm mà dấu hiệu cấu thành tội phạm còn dễ gây nhầm lẫn với các tội phạm khác hoặc gặp nhiều khó khăn trong việc xác định có hay không hành vi phạm tội xảy ra hay chỉ đơn thuần là vi phạm dân sự, kinh tế như Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015. Để ĐTD đối với tội phạm này chính xác là vấn đề không đơn giản bởi dễ nhầm lẫn với các tội phạm khác nhất là ở những địa phương đang trên đà phát triển về kinh tế như Bình Phước. Trong thời gian từ 2014 đến 2018, tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu nói chung và tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước nói riêng có những diễn biến vô cùng phức tạp về tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội với 193 vụ/238 bị cáo trên tổng số 5315 vụ/10593 bị cáo chiếm 3,6% số vụ và 2,2 % số bị cáo nhưng mức độ hậu quả của hành vi thì không hề nhỏ, gây ra sự phẫn nộ và bất bình trong quần chúng nhân dân. Thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước những năm vừa qua cho thấy về cơ bản việc ĐTD được thực hiện tương đối đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp giữa CQĐT, VKSND, TAND trong quá trình giải quyết vụ án có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề ĐTD dẫn đến có nhiều vụ án phải trả hồ sơ nhiều lần, kéo dài thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng khác nhau. Có trường hợp Tòa án quyết định tội danh đối với bị cáo khác với tội 2 danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, cá biệt còn có trường hợp Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trước hết và quan trọng nhất là một số trường hợp áp dụng không đúng, chưa xác định đầy đủ, khách quan hành vi phạm tội, nhận thức quy định của BLHS chưa đầy đủ nên dẫn đến việc ĐTD còn chưa chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc còn có sự nhầm lẫn giữa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tỉnh Bình Phước” làm đề tài nghiên cứu của mình góp phần làm rõ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho quá trình các cơ quan tiến hành tố tụng định tội danh đối với tội phạm này trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Một số công trình nghiên cứu khoa học, sách chuyên khảo liên quan đến đề tài nghiên cứu của tác giả đã được đề cập và công bố như: Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm - quyển 1 của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Tập 2 của Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2007, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự - Tập 2 của tác giả Đinh Văn Quế năm 2003, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) Phần các tội phạm của tác giả Nguyễn Đức Mai năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3 Lí luận chung về định tội danh của tác giả Võ Khánh Vinh năm 2013, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam của tác giả Lê Văn Đệ năm 2004, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Định tội danh (Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập) của tác giả Lê Cảm – Trịnh Quốc Toản năm 2015, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. Phương pháp định tội danh với 538 tội danh trong Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2017 của tác giả Đoàn Tấn Minh – Nguyễn Ngọc Điệp năm 2018, Nxb Lao động, Hà Nội. Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Hoàng Thị Kim Chi năm 2017, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tế số liệu từ địa bàn thành phố Đà Nẵng của tác giả Ngô Văn Định năm 2015, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tế số liệu từ địa bàn tỉnh Đăk Lăk) của tác giả Trương Thị Đông năm 2015, Luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đều là những công trình có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn nhất định. Tuy nhiên, nội dung các công trình trên mới chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về tội phạm nói chung, về vấn đề định tội danh nói riêng. Vấn đề ĐTD tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được nghiên cứu chuyên sâu và riêng lẻ, đặc biệt là nghiên cứu về vấn đề ĐTD tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với thực tiễn một địa bàn nhất định. Vì vậy, theo đánh giá của tác giả, mặc dù có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều đề tài khác nhau đề cập đến vấn đề về xác định tội phạm nói chung, việc ĐTD nói riêng. Mặt khác, chưa có công trình, đề 4 tài nghiên cứu nào xem xét vấn đề định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở góc độ hoàn chỉnh, toàn diện gắn với địa bàn cụ thể như tỉnh Bình Phước. Mặc dù vậy, kết quả của những công trình nghiên cứu nêu trên là một trong những nguồn tài liệu cơ sở lý luận quan trọng mà tác giả có thể vận dụng, kế thừa và bổ sung để hoàn thiện cho đề tài nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Dựa trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng như nghiên cứu vấn đề lý luận về định tội danh cũng như phân tích thực tiễn định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua các số liệu thống kê cụ thể, thông qua các vụ án thực tiễn xảy ra trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong giai đoạn 2014 - 2018 để đưa ra một số kiến nghị nhất định nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xử lý tội phạm này trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu đã được xác định như trên, để thực hiện đề tài cần thiết phải thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về định tội danh nói chung và định tội danh tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. - Phân tích cơ sở pháp lý (quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017) về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có tính chất tương đồng được quy định trong Bộ luật hình sự. - Khảo sát thực tiễn, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2014 - 2018. 5 - Đưa ra yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về định tội danh, quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực tiễn định tội danh trong các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh Bình Phước. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp số liệu tình hình giải quyết các vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến 2018. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho việc phân tích, đánh giá thực tiễn hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận đó là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống các loại tội phạm, về chính sách hình sự đối với tội phạm nói chung và đối với Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Đồng thời, trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê nhằm làm rõ nội dung vấn đề cần trình bày cũng như tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động ĐTD đối với tội phạm này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1 Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp tiếng nói khoa học vào hệ thống lý luận về ĐTD Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài. 6 6.2 Ý nghĩa thực tiễn Bên cạnh những giá trị về mặt lý luận, trên thực tiễn kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể được vận dụng như một tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở giáo dục trên cả nước. Thêm vào đó, đối với các cán bộ công tác thực tiễn, đặc biệt là cán bộ công tác trong lĩnh vực hình sự, luận văn sẽ giúp ích một phần để cho việc vận dụng trong quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan tới việc ĐTD Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thực tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu như sau: Chương 1. Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội lừa đảo chiếm 7 đoạt tài sản Chương 1 LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm, ý nghĩa của định tội danh 1.1.1. Khái niệm định tội danh Định tội danh là một vấn đề không phải là mới nhưng đối với những người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt động tố tụng hình sự thì đây lại là vấn đề thời sự, có ý nghĩa vô cùng quan trọng được quan tâm hàng đầu. Bởi vì có xác định tội danh đúng mới áp dụng pháp luật hình sự đúng, ra bản án mới đúng pháp luật, người phạm tội mới cúi đầu nhận tội và mới đạt được yêu cầu của việc xét xử là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Quá trình áp dụng các quy phạm PLHS trên thực tế diễn ra phức tạp và đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn như sau: Định tội danh, định khung hình phạt, và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan trọng nhất trong ba giai đoạn trên bởi vì định tội danh được tiến hành và thực hiện ở tất cả các giai đoạn của cả quá trình TTHS từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đến giai đoạn thi hành án. ĐTD là một trong những biện pháp đưa nội dung của Bộ luật hình sự vào đời sống xã hội, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, qua đó góp phần thực hiện đường lối chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. ĐTD là sự xác nhận về mặt pháp lý sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tế khách quan với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự. Hay nói cách khác, ĐTD là việc xác định một hành vi cụ thể đã 8 thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội nào trong số các tội phạm đã được quy định trong BLHS. Do đó có thể đưa ra khái niệm ĐTD như sau: Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã thực hiện với dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong BLHShttps://hocluat.vn/wiki/bo-luat-hinh-su/. 1.1.2. Ý nghĩa của hoạt động định tội danh a. Đối với hoạt động định tội danh đúng ĐTD đúng là tiền đề cho việc phân hoá TNHS và cá thể hoá hình phạt một cách công minh, có căn cứ pháp luật. ĐTD đúng sẽ đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc tiến bộ được thừa nhận trong hệ thống pháp luật nói chung của Nhà nước pháp quyền như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi cá nhân, bình đẳng trước pháp luật hình sự, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc nhân đạo. ĐTD đúng thể hiện hoạt động có hiệu quả ý thức tuân thủ pháp luật triệt để cũng như ý thức trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền, từ đó góp phần hiệu quả vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm từ đó nâng cao uy tín, chất lượng hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng như hỗ trợ cho việc củng cố và tăng cường pháp chế XHCN [9, tr 21]. ĐTD đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật TTHS Việt Nam về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét xử cũng như một số hoạt động tố tụng khác qua đó góp phần hữu hiệu cho việc đảm bảo, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. ĐTD đúng sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt đúng, là tiền đề cho việc ban hành một bản án đúng, chính xác, phù hợp với mức độ nguy hiểm 9 cho xã hội của hành vi phạm tội, khiến bị cáo cũng như những người tham dự phiên tòa nói riêng, xã hội và công luận nói chung nhận thức đầy đủ về tính nghiêm minh, công bằng, khách quan của pháp luật từ đó nâng cao hiệu quả tuân thủ, chấp hành pháp luật góp phần tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân dân. ĐTD đúng sẽ đảm bảo hiệu quả hoạt động trấn áp tội phạm trên thực tế. b. Đối với hoạt động ĐTD sai ĐTD sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực như: không đảm bảo được tính công minh có căn cứ của pháp luật, truy cứu TNHS người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm cũng như các quyền tự do dân chủ của công dân - là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận trong Nhà nước. ĐTD sai làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với pháp luật XHCN từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Những vụ án oan sai xảy ra trên thực tế phần lớn là do ĐTD chưa chính xác mà nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ việc đánh giá chứng cứ phiến diện, thiếu thận trọng, nôn nóng khởi tố, bắt tạm giam hoặc do suy diễn chủ quan của những người tiến hành tố tụng [8, tr 11 – 12]. 1.2. Lý luận về định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh Lừa đảo chiếm đoạt tài sản 1.2.1.1. Khái niệm định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ĐTD là một quá trình tư duy logic, là việc các chủ thể có thẩm quyền xem xét, đánh giá sự phù hợp giữa hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế với các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS nhằm quyết định 10 hình phạt tương xứng với mức độ của hành vi phạm tội. Do đó, ĐTD Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là quá trình các chủ thể có thẩm quyền xem xét, đánh giá và sử dụng các quy định của PLHS và PLTTHS xác định hành vi của người phạm tội có thỏa mãn các yếu tố cấu thành của Tội LĐCĐTS được quy định tại Điều 174 BLHS hay không, từ đó quyết định mức hình phạt tương ứng phù hợp với mức độ, tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Như vậy, dựa trên cơ sở quy định tại Điều 8 BLHS, Điều 174 BLHS và các quy định của BLTTHS có thể hiểu định tội danh Tội LĐCĐTS như sau: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự theo trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự quy định của các chủ thể có thẩm quyền được tiến hành trên cơ sở thu thập các tài liệu, chứng cứ để xác định hành vi chiếm đoạt tài sản, có hay không có sự phù hợp giữa hành vi đã xảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự để phán quyết làm tiền đề cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hình phạt và các biện pháp cưỡng chế hình sự khác. 1.2.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Từ định nghĩa trên có thể rút ra các đặc điểm của định tội danh Tội LĐCĐTS như sau: Thứ nhất, ĐTD tội LĐCĐTS là hoạt động có tính logic nhằm xác định có hay không sự tương đồng giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện và các dấu hiệu của Tội LĐCĐTS được quy định tại Điều 174 BLHS. Tính logic của quá trình định tội danh Tội LĐCĐTS được thể hiện ở quá trình các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết trước khi đưa ra kết luận về tội danh của người thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đó là quá trình so sánh, đối chiếu sự phù hợp giữa hành vi với các yếu tố cấu 11 thành tội phạm của Điều 174 BLHS để tìm ra điểm tương đồng. Từ đó kết luận hành vi đó có phải tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không? Thứ hai, quá trình hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật của BLHS cũng như các quy phạm pháp luật của BLTTHS mà cụ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng cụ thể hoá các QPPLHS vào đời sống thực tế. Trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng quy định tại Điều 174 BLHS. Có thể nói đây là quá trình rất phức tạp và dễ nhầm lẫn. Chính vì vậy, để thực hiện được quá trình này có hiệu quả các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân thủ những quy định của BLHS và BLTTHS, bên cạnh đó các cơ quan này cũng có thể sử dụng các biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép để xác định chính xác hành vi phạm tội LĐCĐTS. Đó là cơ sở để đưa ra mức hình phạt hợp lý nhất đối với người phạm tội. Thứ ba, với tư cách là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự định tội danh Tội LĐCĐTS phải đảm bảo tính chính xác, khách quan tuyệt đối. Mọi hành vi ĐTD sai sót dù là nhỏ nhất cũng có thể dẫn tới hậu quả lớn cho cá nhân, gia đình và xã hội, do đó hoạt động này cần được tiến hành tuần tự qua các bước là: Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực tế. Tiếp theo là lựa chọn đúng điều khoản tương ứng trong Phần các tội phạm của BLHS quy định trách nhiệm đối với tội phạm LĐCĐTS để so sánh, đối chiếu và kiểm tra các dấu hiệu của cấu thành tội phạm này với các tình tiết cụ thể của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện. Cuối cùng là ra văn bản áp dụng pháp luật, trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về sự phù hợp của hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt đã 12 được thực hiện trong thực tế khách quan với cấu thành tội phạm cụ thể tại Điều 174 BLHS. Thứ tư, ĐTD đối với Tội LĐCĐTS là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mang tính áp đặt một chiều đối với đối tượng bị áp dụng. Hoạt động định tội danh chỉ có thể được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án mà không thể được tiến hành bởi bất kỳ chủ thể nào khác. Đối tượng bị áp dụng cũng không thể lựa chọn tội danh cho mình mà chỉ có thể chấp nhận tội danh mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp đặt trên cơ sở và theo quy định của pháp luật [8, tr 14 – 15]. 1.2.1.3. Ý nghĩa của hoạt động định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Hoạt động ĐTD Tội LĐCĐTS được thực hiện trên thực tế một cách chính xác sẽ mang lại nhiều ý nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau, cụ thể: - Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội: Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hoạt động mang tính chính trị - xã hội sâu sắc, thể hiện như sau: Một là, việc quy định Tội LĐCĐTS trong BLHS có mục đích bảo vệ quyền lợi về mặt kinh tế mà cụ thể là quyền sở hữu tài sản của công dân – đây là quyền con người được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận. Định tội danh đúng đối với tội LĐCĐTS góp phần vào việc cụ thể hóa các cam kết quốc tế của nhà nước Việt Nam là thành viên, nhất là các cam kết liên quan đến quyền con người mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Hai là, định tội danh đối với Tội LĐCĐTS góp phần thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, các quy định của Hiến pháp, các quy định của pháp luật, nhất là quy định của BLHS, BLTTHS góp phần củng cố lòng tin của người dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, vào công lý, sự chí công, vô tư của các cơ quan bảo vệ pháp luật; củng cố lòng tin của các nước trên thế 13 giới, của các nhà đầu tư nước ngoài về tính minh bạch và đúng đắn của hệ thống pháp luật Việt Nam góp phần nâng cao vị trí vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài. - Ý nghĩa về phương diện pháp lý: Bên cạnh ý nghĩa chính trị - xã hội thì hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS còn có ý nghĩa pháp lý to lớn, thể hiện ở các điểm sau: Thứ nhất, việc xác định đúng hành vi của một người có phải là hành vi lừa đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản hay không? Có thỏa mãn các dấu hiệu quy định tại Điều 174 BLHS hay không? Chính là cơ sở và là tiền đề để áp dụng một loạt các quy định của PLHS và PLTTHS vào thực tiễn cuộc sống, thể hiện sự đánh giá khách quan, công bằng của pháp luật đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra trong thực tế. Thứ hai, định tội danh nói chung là định tội danh đối với tội LĐCĐTS nói riêng một cách chính xác là cơ sở để áp dụng đúng các thủ tục tố tụng như thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử; áp dụng biện pháp tạm giam; thực hiện đúng các loại thời hạn tố tụng; ra các quyết định tố tụng đúng, không bắt oan, bắt sai người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh tình trạng tội phạm bỏ trốn hay tẩu tán tang vật… Định tội danh sai làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh với loại tội phạm này, làm nảy sinh những quan niệm không đúng về thực trạng và các biện pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ quan tư pháp. Thứ ba, định tội danh đúng với Tội LĐCĐTS là tiền đề cho việc quyết định hình phạt đúng, là tiền đề cho việc ban hành một bản án đúng, chính xác, phù hợp với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khiến bị cáo cũng như những người tham dự phiên tòa và dư luận xã hội nhận thức đầy đủ tính nghiêm minh, công bằng, khách quan của pháp luật. Từ đó nâng cao hiệu quả tuân thủ, chấp hành pháp luật góp phần tăng cường hiệu quả tuyên truyền 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan