Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh bắc ninh...

Tài liệu định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

.PDF
80
129
149

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LIÊN ĐỊNH TỘI DANH TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỒNG ĐẠI LỘC Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, những ví dụ và kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực và chưa ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 : LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY .................................................................................. 9 1.1. Khái niệm định tội danh ..................................................................... 9 1.2. Tội mua bán trái phép chất ma túy................................................... 12 1.3. Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy ............................. 16 Tiểu kết Chương 1................................................................................... 28 Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN TẠI TỈNH BẮC NINH ............................ 29 2.1. Thực trạng tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.................................................................................................. 29 2.2. Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Bắc Ninh.................................................................................................. 30 Tiểu kết Chương 2................................................................................... 48 Chương 3 CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỊNH TỘI DANH TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH .................................................. 49 3.1. Các yêu cầu nâng cao chất lượng định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .......................................... 49 3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh .......................................... 50 Tiểu kết Chương 3................................................................................... 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68 DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm ĐTD: Định tội danh ĐT: Định tội TNHS: Trách nhiệm hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân TAND: Tòa án nhân dân CQĐT: Cơ quan điều tra DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 2.1: Thống kê tội mua bán trái phép chất ma túy với tội phạm thuộc Chương XX (các tội phạm về ma túy) được xét xử sơ thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 – 2019 ........................................... 73 Bảng 2.2: Thống kê tội mua bán trái phép chất ma túy với tội phạm quy định tại Chương XX (các tội phạm về ma túy) được xét xử phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2015 – 2019 ....................... 74 Bảng 2.3. Thống kê các trường hợp xác định tội danh sai của CQĐT, VKS, TAND hai cấp tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 2015 -2019 ................................ 75 Biểu đồ 2.1: so sánh tình hình tội phạm hình sự với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy được đưa ra xét xử sơ thẩm .......................................... 73 Biểu đồ 2.2: So sánh tình hình tội phạm hình sự với tội mua bán trái phép chất ma túy được đưa ra xét xử phúc thẩm ............................................... 75 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy có thể hiểu là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định hành vi của một người có phạm tội mua bán trái phép chất ma túy hay không, nếu phạm tội thì theo điểm, khoản nào của BLHS về tội mua bán trái phép chất ma túy. Hoạt động này có vai trò rất quan trọng về cả phương diện chính trị - xã hội và phương diện pháp lý. Với mục đích bảo vệ quyền lợi về mặt kinh tế của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật, pháp chế, bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể trong xã hội, góp phần đưa các quy định của pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, nhất là quy định của BLHS vào thực tiễn cuộc sống, là tiền để và cơ sở để quyết định hình phạt đúng đắn, tương xứng với hành vi của người phạm tội, đây cũng là cơ sở để ra các quyết định tố tụng đúng, không bắt oan, sai, không bỏ lọt tội phạm, nâng cao uy tín của cơ quan tư pháp. Pháp luật hình sự Việt Nam thời gian vừa qua đã có nhiều văn bản pháp luật mới được sửa đổi, ban hành mới, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy như Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLN ngày 14/11/2015 sửa đổi Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLN ngày 24/12/2007, hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999; đặc biệt là BLHS năm 2015 (sửa đôi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực toàn bộ từ ngày 01/01/2018 với nhiều quy định mới về tội mua bán trái phép chất ma túy như tách Điều 194 “Tội Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy” của BLHS năm 1999 thành các tội danh riêng, bổ sung 03 chất ma tổng hợp mới Methamphetamine, Amphetamine, MDMA với cùng chính sách hình sự như hêrôin, côcain, thay đổi đơn vị đo trọng lượng thành 1 khối lượng cho đúng với đơn vị đo lường theo quy định của pháp luật quốc tế và các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan của Nhà nước ta....đã góp phần rất lớn nâng cao hiệu quả định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy thời gian qua, trong đó có tỉnh Bắc Ninh với 8 đơn vị hành chính cấp huyện, thuộc Đồng bằng sông Hồng và nằm trên Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, đang có sự phát triển rất lớn trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự cho thấy cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó có tỉnh Bắc Ninh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong việc định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy như trình trạng lượng các vụ án về tội phạm ma túy tăng nhanh (theo số liệu thống kê được từ TAND tỉnh Bắc Ninh trong 05 năm giai đoạn từ 2015 đến năm 2019 thì tội mua bán trái phép chất ma túy có xu hướng tăng trong các năm từ 2017 đến 2019), vẫn còn vụ án vẫn bị hủy do tài liệu, chứng cứ không đủ để định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy chính xác (Bản án số 11/2019/HS-PT ngày 22/4/2019 của TAND tỉnh Bắc Ninh); trong quá trình điều tra, truy tố chưa củng cố chặt chẽ chứng cứ, dẫn đến khi các đối tượng thay đổi lời khai, Tòa án buộc phải thay đổi tội danh (Bản án số 05/2018/HSST ngày 08/01/2018 của TAND tỉnh Bắc Ninh)...mà nguyên nhân chủ yếu do quy định của pháp luật liên quan đến tội mua bán trái phép chất ma túy vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như: một số quy định chưa có hướng dẫn kịp thời để áp dụng trong thực tiễn như chưa có hướng dẫn, quy định cách xác định trường hợp chất ma túy có chứa thành phần của nhiều chất ma túy khác nhau và không thể tách riêng từng chất ma túy ra để giám định, chưa có hướng dẫn trường hợp phạm tội đối với 02 người trở lên, quan hệ phối hợp hoạt động trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự về mua bán trái phép chất ma túy ở địa phương chưa có sự phối kết hợp đồng bộ và chặt chẽ, trang thiết bị, phương tiện phục vụ nghiệp vụ còn hạn chế.... Điều này, đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới việc định tội danh tội phạm mua bán trái phép chất ma túy của 2 tỉnh Bắc Ninh một cách chính xác trong thời gian qua. Xuất phát từ thực tế nêu trên và từ nhận thức việc định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy là một vấn đề quan trọng về cả lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới, tác giả đã chọn đề tài: “Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” để làm để tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan tới đề tài tác giả nghiên cứu, cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu dưới góc các góc độ, phạm vi và các hướng nghiên cứu khác nhau, mà điển hình như một số công trình sau đây (1) Các nghiên cứu về tội phạm ma túy: - Công trình là Giáo trình và sách chuyên khảo: Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập II), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Trần Văn Luyện (1998), Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Ths. Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần tội phạm, tập IV: Các tội phạm về ma túy), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM; Phạm Minh Tuyên (2013), Các tội phạm về ma túy ở Việt Nam cơ sở lý luận và thực tiễn xét xử (tài liệu tham khảo dùng cho các Thẩm phán, thư kí Tòa án, Nxb Hồng Đức, Hà Nội; Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp (chủ biên, 2017), Bình luận khoa học phần các tội phạm Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Thế giới, Hà Nội; GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên, 2018)), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (phần các tội phạm), Nxb Tư pháp, Hà Nội; v.v… Nhận xét: Các công trình nêu trên nghiên cứu về tội mua bán trái phép chất ma túy cùng với các tội danh khác, với phạm vi quy định của luật thực định mà chưa đi sâu phân tích những tồn tại, hạn chế trong quy định của pháp 3 luật và văn bản hướng dẫn thi hành cũng như thực tiễn thi hành pháp luật hình sự. - Công trình là luận án, luận văn: Trần Văn Luyện (1999), Phát hiện và điều tra các tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội. Nhận xét: Công trình khoa học trên chủ yếu nghiên cứu đề tài dưới góc độ công tác điều tra nhóm tội phạm về ma túy của lực lượng điều tra, trong đó có tội mua bán trái phép chất ma túy. Nên không đi sâu phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy trong pháp luật hình sự, cũng như từ thực tiễn xét xử của hệ thống Tòa án. - Công trình trên trên báo, tạp chí, đề tài khoa học: Nguyễn Thị Mai Nga (2008), Bàn về quy định xử lý tội phạm ma túy của Bộ luật hình sự trong thời kỳ hội nhập, Tạp chí Kiểm sát số 12/2008, Hà Nội; Đỗ Văn Kha (2010), Bàn về công tác phối hợp trong việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án ma túy, Tạp chí Kiểm sát (số 18/2010), Hà Nội; Nguyễn Minh Đức (2015), Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết các vụ án ma túy, Tạp chí kiểm sát, số 20, tr. 7 – 13; Hương Nhung ( 2008); v.v... Nhận xét: Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu người cứu tội mua bán trái phép chất ma túy với khía cạnh nhỏ về mặt lý luận hoặc từ thực tiễn mà chưa đi sâu nghiên cứu quy định của pháp luật và thực tiễn tội mua bán trái phép chất ma túy một cách đầy đủ, toàn diện. Nhận xét chung: Các công trình nghiên cứu nói trên chủ yếu đề cập và nghiên cứu tội mua bán trái phép chất ma túy cùng với các để tài khác, trên phạm vi nghiên cứu rộng hoặc theo một số khía cạnh nhất định, trong đó vấn đề “Định tội danh đối với tội mua bán trái phép chất ma túy” chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các công trình trên. 4 (2) Các nghiên cứu về định tội danh tội mua bán ma tuý theo pháp luật hình sự Việt Nam: - Về lý luận chung về định tội danh: Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản (chủ biên, (2004) “Định tội danh-lý luân, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành”, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình lý luận chung về định tội danh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Dương Tuyết Miên (2007), “Định tội danh và quyết định hình phạt”, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội; Đoàn Tấn Minh (2010), “Phương pháp định tội danh và hướng dẫn định tội danh đối với các tội phạm trong BLHS hiện hành”, Nxb Tư pháp, Hà Nội; v.v... Nhận xét: Đây là những công trình nghiên cứu sâu về lý luận chung của hoạt động định tội danh, do vậy không đi sâu phân tích các quy định định tội danh với một tội cụ thể như tội mua bán trái phép chất ma túy. Các luận văn trên nghiên cứu về hoạt động định tội danh các tội phạm về ma túy bao gồm nhiều tội danh khác nhau, trong đó tội mua bán trái phép chất ma túy, hoặc có đề tài nghiên cứu trên phạm vi cả nước, trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực toàn bộ từ ngày 01/01/2018. Như vậy, liên quan trực tiếp đến đề tài tác giả nghiên cứu không có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về mặt lý luận và thực tiễn về định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy; tính đến nay, sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực thì chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu đến định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy một cách cụ thể, chuyên sâu tại địa bàn một tỉnh là tỉnh Bắc Ninh, trong phạm vi từ năm 2015 đến 2019. Do vậy, đề tài luận văn “Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” đảm bảo tính cấp thiết và có ý nghĩa lớn về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về định tội danh tội phạm mua bán trái phép ma tuý theo pháp luật hình sự Việt Nam áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng về định danh tội mua bán trái phép chất ma túy và các văn bản hướng dẫn áp dụng nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả của công tác áp dụng pháp luật đối với định danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận về định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam. Đánh giá thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma tuý giai đoạn 2015 – 2019 Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Giới hạn về nội dung nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh hoạt động định tội danh đối với tội mua bán trái pháp chất ma túy, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá hoạt động này trong thực tiễn, phân tích những hạn chế từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện luật thực định và nâng cáo hiệu quả trong hoạt động định tội danh. Giới hạn về lĩnh vực: Chủ yếu khảo sát và nghiên cứu số liệu ở ngành Toà án tỉnh Bắc ninh Giới hạn về không gian: Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. 6 Giới hạn về thời gian: Trong giai đoạn 05 năm từ năm 2015 – 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phép duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm, chủ chương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự và cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với yêu cầu của từng vấn đề cụ thể như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn, lịch sử cụ thể… để làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Trên cơ sở kế thừa các công trình khoa học đã được công bố, tác giả tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn làm rõ hoạt động định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy. Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống tương đối toàn diện góp phần nhận thức sâu hơn về lý luận về định tội danh đối với tội mua bán trái phép chất ma túy thông qua thực tiễn ở tỉnh Bắc Ninh. Từ một số giải pháp hoàn thiện chế định định tội danh tác giả sẽ góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy, tạo thuận lợi cho hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy và công tác thực tiễn đặc biệt đội ngũ Thẩm phán trong ngành tòa án nhân dân các cấp, ngành tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. 7 7. Kết cấu của luận văn Chương 1. Lý luận về định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy tại tỉnh Bắc Ninh Chương 3. Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh 8 Chương 1 LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 1.1. Khái niệm định tội danh Quan điểm thứ nhất, cho rằng: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự” [45, tr. 4]. Quan điểm thứ hai cho rằng: “Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người có phạm tội không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện” [15, tr.9]. Tuy nhiên, theo tác giả, khái niệm định tội danh cần phải bao hàm được những nội dung như: chủ thể trực tiếp thực hiện, cách thức tiến hành và kết quả của định tội danh được thể dưới hình thức nào. Tiếp thu những yếu tố hợp lý trong các quan điểm nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm định tội danh như sau: Định tội danh là một quá trình nhận thức lý luận, dạng hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu được thu thập theo quy định của pháp luật và các tình tiết thực tế của vụ án để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng do luật hình sự quy định và kết luận hành vi nguy hiểm cho xã hội đó có phạm tội hay không, nếu có thì phạm tội gì, theo điểm, khoản, điều luật nào của BLHS, 9 được thể hiện thông qua các văn bản áp dụng pháp luật tương ứng với các giai đoạn định tội danh. 1.1.2. Phân loại Căn cứ vào chủ thể tiến hành định tội danh và hậu quả của việc định tội danh, có thể phân chia định tội danh đối với mua bán trái phép chất ma túy làm hai dạng tương ứng là: định tội danh chính thức và định tội danh không chính thức. - Định tội danh chính thức: Định tội danh chính thức đối với tội mua bán trái phép chất ma túy là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, và Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, trong hoạt động đấu tranh với tội phạm mua bán trái phép chất ma túy. Đặc điểm cơ bản của hình thức định tội danh này như sau: - Thứ nhất, đây là hoạt động mang tính tổ chức – quyền lực Nhà nước. Chủ thể tiến hành hình thức định tội danh này được Nhà nước quy định rõ trong BLTTHS. - Thứ hai, được tiến hành trong tất cả các giai đoạn tố tụng, từ khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Trường hợp xác định có dấu hiệu tội mua bán trái phép chất ma túy thì phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy. Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ, căn cứ khởi tố, điều khoản của BLHS áp dụng và họ tên, chức vụ người ra quyết định. Các quyết định sau đó như khởi tố bị can, bản kết luận điều tra, cáo trạng và bản án đều phải thể hiện chính thức quan điểm chính thức của người tiến hành tố tụng về tội mua bán trái phép chất ma túy trong đó. - Thứ ba, hậu quả của hình thức định tội danh này là việc xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội như hình phạt, các biện pháp tư pháp...cũng như những biện pháp cưỡng chế khác trong quá trình điều tra, 10 truy tố, xét xử như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú...đều có liên quan đến hoạt động định tội danh chính thức. Mặc dù định tội danh chính thức do nhiều chủ thể có thẩm quyền tiến hành song chỉ duy nhất Tòa án mới có thẩm quyền đưa ra kết luận cuối cùng về việc bị cáo có phạm tội mua bán trái phép chất ma túy trong bản án có hiệu lực pháp luật, là văn bản định tội danh cuối cùng, chính thức khẳng định về tội danh đối với người mua bán trái phép chất ma túy. - Định tội danh không chính thức đối với tội phạm về ma túy là hình thức định tội danh do các chủ thể không đại diện cho Cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra không phải là sự đánh giá chính thức về mặt nhà nước, không được thể hiện trong các văn bản tố tụng và không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của đối tượng bị định tội danh. 1.1.3. Phân biệt khái niệm “Định tội danh” và “Định tội” Liên quan đến khái niệm “Định tội danh” (ĐTD), có một khái niệm rất gần và dễ gây nhầm lần là “Định tội” (ĐT). Giữa hai khái niệm có mối quan hệ mật thiết với nhau, đều nằm trong một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự để đi tới sự thật khách quan của vụ án, vụ việc. Trong đó, định tội là giai đoạn đầu tiên, có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động ĐTD, nó quyết định việc có phát sinh ĐTD hay không, nói cách khác nó quyết định có phát sinh các hoạt động tố tụng tiếp theo như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, truy tố...hay không. Đây là hai hoạt động có mối quan hệ mật thiết với nhau, hoạt động này là tiền đề của hoạt động kia (định tội là tiền đề của định tội danh), hỗ trợ nhau, cùng nằm trong một tổng thể quá trình tố tụng, nhằm làm sáng tỏ bản chất của vụ việc đã xảy ra có dấu hiệu tội phạm không, nếu có thì đó là tội gì, được quy định như thế nào trong BLHS. Như vậy, giữa hoạt động định tội và ĐTD có thể phân biệt như sau: 11 Định tội là hoạt động nhận thức lý luận logic và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra. Còn ĐTD là hoạt động tiếp theo của định tội, của cơ quan, người có thẩm quyền nhằm xác định hành vi phạm tội là tội gì, quy định tại điểm, khoản, điều luật nào của Bộ luật hình sự, thông qua việc phân tích các dấu hiệu của CTTP như hành vi khách quan có biểu hiện như thế nào, xâm phạm đến khách thể thông qua đối tượng tác động như thế nào, chủ thể có dấu hiệu đặc biệt (chủ thể đặc biệt) không, lỗi của người phạm tội có phù hợp với tội danh dự kiến áp dụng với người phạm tội hay không? Kết quả của việc này là người định tội danh phải “đặt tên” cho hành vi phạm tội, và “tên gọi” của hành vi phạm tội phải là tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự, đây là hoạt động bắt buộc, bởi pháp luật hình sự nước ta chỉ truy cứu TNHS với người phạm một tội được Bộ luật hình sự quy định, đây là biểu hiện của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, việc phân biệt này chỉ có nghĩa về mặt lý luận bởi thực tiễn thì trong hoạt động ĐTD đã bao hàm cả hoạt động định tội, bởi phải có định tội thì mới có hoạt động ĐTD. 1.2. Tội mua bán trái phép chất ma túy 1.2.1. Khái niệm Dưới góc độ pháp lý, BLHS năm 2015 chưa đưa ra định nghĩa thế nào là mua bán trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, tại Điều 8 BLHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm pháp lý của tội phạm. Tội mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại chương XX, Điều 251 BLHS năm 2015, hành vi xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, được thực hiện với hình thức lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, tuy thấy trước được tác hại của hành vi mua bán trái phép chất ma túy gây ra cho xã hội, có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn xử sự khác, phù hợp 12 với đòi hỏi của xã hội nhưng họ vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả đó xảy. Trên cơ sở phân tích nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy như sau: Tội mua bán trái phép chất ma túy là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến chế độ quản lý, sử dụng các chất ma túy của Nhà nước. 1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy * Khách thể của tội phạm Trong luật hình sự Việt Nam, đối tượng bị tội phạm hướng tới gây thiệt hại được gọi là khách thể của tội phạm. Trong đó, khách thể trực tiếp của tội phạm là quan hệ xã hội bị tội phạm cụ thể xâm hại mà sự xâm hại này phản ánh được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đó [29, tr.108]. Theo đó, khách thể trực tiếp của tội mua bán trái phép chất ma túy là chế độ độc quyền và thống nhất quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. Để gây thiệt hại cho khách thể trên, thì chủ thể tội phạm phải tác động và đối tượng tác động của tội phạm, qua đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất ma túy và các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma tuý [46; tr18]. “Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành” [24], [5]. Ngoài ra, các chất ma túy được quy định trong các danh mục do chính phủ Việt Nam ban hành được thể hiện tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 Nghị định Chính Phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất. Đồng thời theo BLHS năm 2015 thì các chất ma túy và các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma túy gồm: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca; Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11; Lá cây côca; lá 13 khát (lá cây Catha edulis); lá, rễ, thân, cành, hoa, quả của cây cần sa hoặc bộ phận của cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định; Quả thuốc phiện khô; Quả thuốc phiện tươi; Các chất ma túy khác ở thể rắn; Các chất ma túy khác ở thể lỏng. * Mặt khách quan của tội phạm - Về hành vi khách quan: Hành vi khách quan của tội mua bán tái phép chất ma túy là hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần. Trong đó, “Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng”. “Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng” [24, Điều 2]. Hiện nay, danh mục chất ma túy và tiền chất được ban hành kèm theo Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Có thể hiểu hành vi khách quan của tội mua bán trái phép chất ma tuý là bán hay mua để bán lại; vận chuyển ma tuý để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để sản xuất ra chất ma tuý khác để bán lại trái phép; hoặc dùng ma tuý để đổi lấy hàng hoá hay dùng hàng hoá để đổi lấy ma tuý [17; tr.45,46]. Hành vi này trái với những quy định do Nhà nước ban hành, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước, không thuộc các trường hợp được áp dụng trong khoa học, nghiên cứu và y học, do một số các cơ quan có thẩm quyền được phép mua bán phục vụ công tác chuyên môn. Hay nói cách khác, “Hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị coi là trái phép khi hành vi đó được thực hiện mà không có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền” [13; tr. 57]. - Hậu quả của tội mua bán trái chất ma tuý nói riêng không phải là yếu tố bắt buộc để định tội. *Chủ thể của tội phạm 14 Theo PLHS Việt Nam thì chủ thể của tội mua bàn trái phép chất ma túy chỉ có thể là cá nhân. Đó là người có năng lực TNHS và đủ độ tuổi theo luật định. Luật hình sự Việt Nam không trực tiếp quy định thế nào là người có năng lực TNHS mà chỉ quy định thông qua độ tuổi chịu TNHS tại Điều 12 BLHS và tình trạng không có năng lực TNHS tại Điều 21 BLHS. Theo đó, một người chỉ được coi là không có năng lực TNHS khi đồng thời thỏa mãn hai dấu hiệu sau: Về y học - người đó mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần, đồng thời về tâm lý họ bị mất năng lực nhận thức, hoặc mất năng lực điều khiển hành vi của mình, việc xác định hai dấu hiệu này do hội đồng giám định pháp y xác định và kết luận. Về tuổi chịu TNHS, Điều 12, BLHS năm 2015. Đối chiếu với quy định tại Điều 251 BLHS năm 2015, thì chỉ những người sau đây, có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm này: - Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Điều 251 BLHS. - Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, phải chịu TNHS theo quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 251 BLHS. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 vì đây là tội phạm nghiêm trọng. *Mặt chủ quan của tội phạm - Lỗi của người phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý thực hiện hành vi phạm tội của mình do cố ý trực tiếp, tức là nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của hành vi mua bán trái phép chất ma tuý nhưng vẫn thực hiện. - Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý (trực tiếp) [29, tr.182]. Trong quá trình định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy, chủ 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan