Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Doanh thu dầu mỏ, chính sách chi tiêu của chỉnh phủ, và tăng trưởng kinh tế...

Tài liệu Doanh thu dầu mỏ, chính sách chi tiêu của chỉnh phủ, và tăng trưởng kinh tế

.PDF
21
107
94

Mô tả:

Tiểu luận DOANH THU DẦU MỎ, CHÍNH SÁCH CHI TIÊU CỦA CHỈNH PHỦ, VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Amany A. El Anshasy Bộ Kinh tế - T ài chính Đại học United Arab Emirates University, U AE & Bộ T ài Chính Công Đại học Alexandria University, Ai Cập TÓM TẮT Nghiên cứ u này đưa ra tranh luận rằng cơ cấu chi tiêu của chính phủ quyết định mức độ tác động của dự trữ dầu mỏ đến tăng trư ởng kinh tế. Sử dụng các kỹ thuật dữ liệu bảng linh hoạt GMM và PMG cho nhóm các nước xuất khẩu dầu mỏ, chúng tôi nhận thấy r ằng giá dầu mỏ dễ biến động ảnh hư ởng tiêu cực đ ến tăng trưởng kinh tế thông qua chính sách tài k hóa. Cụ thể, lợi nhuận ngẫu nhiên có thể cản trở tăng trưởng kinh tế thông qua tối thiểu ba nguồn: (i) làm suy yếu cơ sở tình thuế trong nước, (ii) giảm lợi tứ c xã hội từ nguồn vốn công, và (iii) gia tăng các áp lự c chi tiêu có tính chính trị do tích lũy thặng dư. Chính sách chủ yếu gợi ý cho các nước xuất khẩu dầu mỏ là cần sử dụng ngay các quy tắc tài chính nghiêm ngặt, hậu thuẫn bằng các k huyến khích mang tính chính trị phù hợp nhằm tách chi tiêu công khỏi các chu kỳ kinh doanh dầu mỏ. Đầu tư lợi nhuận (vào các quỹ sản nghiệp quốc gia) hoặc rút nợ công giữa các đợt lợi nhuận bất ngờ từ dầu mỏ có thể sẽ giảm nhẹ áp lực tìm giá thuê mướn đất cạnh tranh và tăng lợi tứ c xã hội k hi lợi nhuận tăng cao. 1. GIỚ I THIỆU Kể từ những năm 1970, các chu kỳ giá dầu mỏ đã không thể nào dự đoán đư ợc. Chính sách tài khóa tại các nền kinh tế xuất khẩu dầu mỏ đóng vai trò quan trọng trong quản lý nguồn doanh thu dầu mỏ cự c kỳ biến động. Điểm đáng kể của tài chính công ở các nư ớc này là tính đồng chu kỳ vững chắc trong chi t iêu chính phủ cà cán cân hoạt động sản xuất không dầu mỏ trong mối quan hệ với biến động giá dầu mỏ (Villafuert e và cộng sự, 2010; El Anshasy & Bradley, 2011). Chi tiêu của chính phủ giữ vai trò là cơ chế truyền động chính cho các cú sốc giá dầu m ỏ đối với kinh tế vĩ mô (Husain và cộng sự, 2008; Pieschacon, 2009) Trong khi đó, nhiều tài liệu dẫn chứng rằng bình quân các nước xuất khẩu dầu mỏ đã từng trải qua tình trạng tăng trư ởng kinh tế kém trong vài thập kỷ qua, một hiện tượng thường liên quan đến lời nguyền tài nguyên. Từ t ác phẩm có tầm ảnh hưởng của Sách và Warner (1995) , ngày càng có nhiều t ài liệu ra đời nhằm xác định nguyên nhân gây ra thâm hụt tăng trưởng kinh tế. Bài luận này nêu lên vấn đề sau: Liệu bản chất đặc thù của chính sách tài khóa tại các nước xuất khẩu dầu mỏ có góp phần tạo ra thâm hụt tăng cường kinh tế hay không? Cụ thể, chúng tôi nghiên cứ u ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh t ế của các loại chi tiêu chính phủ khác nhau, m à chi tiêu này được cấp từ nguồn doanh thu bất ổn định khi kiểm tra ảnh hưởng của biến động giá dầu t ại các nhóm nước xuất khẩu dầu mỏ. Nghiên cứu có hai tiền đề cơ sở đã bị bỏ quên trong bối cảnh các nư ớc xuất khẩu dầu mỏ. Một là, quyết định chính sách chi t iêu công không thể t ách rời quyết định tài Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 2 chính. Vì vậy, việc nhấn mạnh ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của một trong hai khía cạnh của ngân sách có thể dẫn đến sai lầm vì việc này không thể lý giải thự c tế rằng mọi gia tăng chi tiêu đều nhờ vào tăng doanh thu hoặc gia t ăng tiền vay, và ngư ợc lại. (Bleaney và cộng sự, 2001). Hai là, cơ cấu điều chỉnh t ài khóa có vai trò quan trọng đối với t ăng trư ởng trong dài hạn (Alesina & Perotti, 1 996). Thói quen thường thấy trong sử dụng các phương pháp chi tiêu tổng hợp bỏ sót các tác dụng quan tr ọng của trợ cấp xã hội trong số các mục đích sử dụng khác nhau. Điều này có thể thuộc về m ột mối quan tâm to lớn hơn, đặc biệt trong bối cảnh các n ền kinh tế đang phát triển giàu lên nhờ nguồn tài nguyên. Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của chính sách tài khóa không chỉ trở thành hiện thực do quy mô chính phủ mà còn do hai nguyên nhân khác: (i) cơ cấu chi tiêu công thể hiện lựa chọn của các lãnh đạo chính trị trong sử dụng công khác nhau; (ii) phương pháp cấp vốn chi tiêu phản ánh mứ c độ chính phủ phụ thuộc tài chính vào nguồn tài nguy ên thiên nhiên. Luận cứ chính mà chúng tôi đưa ra là lự a chọn chính sách t ài khóa có thể biến các nguồn lợi từ dầu mỏ thành lời nguyền tại m ột số nước và phúc lành ở các nước khác. Tương tự, chính sách chi tiêu của chính phủ có thể giảm nhẹ các cú sốc dầu mỏ tiêu cực lên nền kinh tế và bảo toàn tăng trưởng. Trước tiên, chúng tôi sử dụng kỹ thuật hệ thống dữ liệu bảng linh hoạt có dùng đến khối lượng dữ liệu gộp. Chúng tôi kiểm tra kết quả từ các phương pháp đồng liên kết bảng và ước lượng các m ô hình sửa chữa sai số có ứ ng dụng hàm ư ớc lượng PMG – lý giải cho tính không đồng nhất bảng và hiệu chỉnh phụ thuộc chéo tiềm năng. Kết quả tìm thấy đưa đến các kết luận quan trọng về chính sách: (i) cần tăng cường cơ sở tính thuế ngoài ngành dầu mỏ nhằm đẩy m ạnh tăng trưởng kinh tế; (ii) tăng chi phí đầu tư trong các thời kỳ khủng hoảng dầu mỏ s ẽ bảo to àn tăng trư ởng; (iii) cần áp dụng các tiêu chuẩn đầu tư công nghiêm ngặt hơn trong thời kỳ tăng trư ởng nhằm t ăng hiệu suất chi phí đầu tư mới, đ ặc biệt đối với cơ sở hạ t ầng và d ịch vụ công; (iv) cần sửa đổi hình thức khuyến khích của các lãnh đạo chính trị trong cam kết rõ ràng đối với nguyên tắc tài chính nhằm đảm bảo tách chi tiêu công khỏi các chu kỳ kinh tế liên quan đến dầu mỏ. Chỉ với các cam kết chính trị vững chắc như thế này thì việc đầu tư một phần nguồn lợi vào các quỹ s ản nghiệp hoặc sử dụng thặng dư để rút nợ mới có thể cải thiện lợi tức xã hội từ tăng trư ởng doanh thu và giảm áp lự c tìm kiếm giá thuê cạnh tranh. Bài luận t iếp tục như sau: phần hai chuẩn bị cho việc xem xét bản chất đặct hù của chính sách tài khóa tại các nước xuất khẩu dầu mỏ và vai trò đối với tăng trư ởng kinh tế. Trong phần ba phác thảo sơ lư ợc p hư ơng pháp luận thực nghiệm và dữ liệu. Các kết quả và thảo luận về chính sách trình bày trong phần bốn. Kết luận tại phần năm. Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 3 1. CHÍNH SÁCH TÀI KHÓ A VÀ TĂNG TRƯ ỞNG KINH TẾ TẠI CÁC NƯỚC XUẤT KHẨU D ẦU MỎ Các mô hình tăng trư ởng nội sinh bắt nguồn từ các mô hình t ân cổ điển, trong đó cho phép các chính sách công có ảnh hư ởng lâu dài đến tăng trư ởng kinh tế. Trong một mô hình tăng trưởng tân cổ điển, các khác biệt về chính sách tài chính chỉ có thể lý giải các khác biệt quan sát đư ợc trong các mức thu nhập, chứ không phải trong tăng trưởng kinh tế. Các bài luận có tầm ảnh hưởng của Barro (1990), và Barro và Sala-iMartin (1992) phát triển một mô hình tăng trưởng nội sinh, trong đó nguồn vốn công bao phủ ảnh hưởng lên hiệu suất sử dụng nguồn vốn tư nhân. T ác động ngoại biên này cho phép nguồn vốn công tác động đến t ăng trưởng kinh t ế lâu dài, ám chỉ rằng khác biệt chính sách tài khóa lý giải một số khác biệt quan sát được trong tăng trưởng lâu dài tại nhiều nước. Tại các nư ớc xuất khẩu dầu mỏ, phụ thuộc tài chính vào dầu mỏ khiến cho quản lý tài chính gặp nhiều thách thức lớn. Có ít nhất ba đặc trưng tài chính có nguy cơ trì hoãn tăng trưởng kinh tế. Một là, giá dầu tăng có khuynh hư ớng làm giảm động lực điều chỉnh chính sách tài khóa và giảm sự khích lệ trong thận trọng tài chính. Hơn nữa, tích lũy thặng dư ngân sách trong thời kỳ tăng trưởng dầu mỏ thường không phổ biến và sẽ tạo áp lực gia tăng chi tiêu công (T alvi & Vegh, 2005). Chính phủ các nư ớc xuất khẩu dầu mỏ có khuynh hướng đối phó các nhu cầu cấp thiết liên quan đến “hiện đại hóa” nền kinh tế nhằm đ áp ứ ng nguyện vọng của người dân và chia sẻ tiền thuê tài nguyên với công chúng. Kết quả trực tiếp là việc tham gia vào các dự án công lớn và uy tín, gia tăng việc làm, và trải nghiệm các chính sách tài chính đồng chu kỳ. Tornell và Lane (1999) đưa ra một giải thích mang tính kinh tế chính trị “ hiệu ứ ng long tham”. Khi các cơ quan đư ợc phân nhỏ thành từng bộ phận, các cơ quan tài chính phải đư ơng đầu với áp lực lớn nhằm cạnh tr anh với các nhóm quyền lực k hác để có được phần lợi phù hợp với tập thể cử tri của mình, gia tăng chi tiêu của chính phủ và sự bảo trợ trong thời kỳ tăng trưởng. Alesina và những người khác (2008) cung cấp một giả định khác chủ yếu liên quan đến các nư ớc đang phát triển với nội các chính phủ tham nhũng như ng chịu trách nhiệm giải trính. Theo giả định này, cử tri theo dõi sự tăng trư ởng nhưng không thể biết giá trị nguồn lợi m à quan chức tham nhũng chiếm làm của riêng. Vì thế, để “bỏ đói người Leviathan”, họ đòi hỏi thêm ở mứ c vừa phải hàng hóa công (hoặc giảm thuế), dẫn đến chính sách tài chính đồng chu kỳ. Các lý luận khác, lấy bối cảnh các nư ớc không có chế độ dân chủ, lại thiên về “thuyết thương mại”, theo đó các nư ớc sống bằng tiền lợi tức “chi tiêu” theo cách riêng của họ để đảm bảo ổn định chính trị và yên bình trong xã hội. Theo các mô hình này, chính phủ tại các nước xuất khẩu dầu mỏ cung cấp thêm hàng hóa công và giảm thuế, và đổi lại thì ngư ời dân bớt đòi hỏi trách nhiệm giải trình và quyền lợi chính trị. Điều này sẽ có tác dụng tăng chi tiêu công cho việc bảo trợ của chính phủ, đặc biệt vào thời kỳ Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 4 tăng trư ởng m ạnh (Robinson và cộng sự , 2006; Aslaksen & Torvik, 2006; Schwaz, 2008). Các nhánh tăng trưởng của v iệc gia tăng chi tiêu công như trên tr ong thời kỳ tăng trưởng mạnh có thể được truyền qua cơ chế “căn bệnh Hà Lan”, trong đó các nguồn lợi từ dầu mỏ làm tăng tỷ giá hối đoái thực. Chi tiêu ngày càng cao của chính phủ vào hàng hóa phi thư ơng mại(ví dụ như: các dịch vụ y tế, giáo dục và dịch vụ công) đẩy giá các mặt hàng này lên cao gần bằng với hàng hóa bán buôn, chuyển nguồn tài nguyên từ khu vực sản xuất hàng hóa b án buôn không liên quan đến dầu mỏ sang khu vực không bán buôn. Trong chừ ng mự c mà khu vực sản xuất tạo được các ảnh hưởng lan tỏa tích cự c đ ến các khu vực k hác, việc gia t ăng chi tiêu chính phủ cho các hàng hóa phi thư ơng m ạis ẽ có tác động làm suy yếu t ăng trư ởng kinh tế lâu dài (Sachs & Warner, 1995). Hai là, nhiều nghiên cứu tr anh cãi rằng nguồn vốn công t ăng mạnh trong thời kỳ tăng trư ởng nhảy vọt là không hữu ích và làm giảm doanh thu. Robinson và Torvik (2005) thiết lập mô hình các biện pháp khích lệ mang t ính chính trị tại các nền kinh tế đang phát triển với nguồn t ài nguyên sẵn có trên cơ sở các con voi trắng, tức là, các dự án đầu tư với nguồn lợi tức xã hội bi đát. Sau các cú sốc dầu mỏ thứ nhất và thứ hai nhữ ng năm 1970, 8 5%, 50% và 46% lợi tức từ nguồn lợi dầu mỏ tương ứng đổ dông về cho chính phủ các nước Nigeria, Indonesia và Venez uela. N guồn lợi tứ c này làm tăng đầu tư công m à không hoàn trả cho tăng trưởng kinh t ế (Gelb và cộng sự. 1988). Tình hình có biến động nhẹ vào những năm 2000. Th eo các báo cáo của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IM F) khu vự c T rung Đông và Tr ung Á, ch ỉ riêng trong nhóm các nước H ội Đồng Hợp Tác Vùng Vịnh, đầu tư công dự kiến đã vượt quá con số gây sửng sốt 800 tỷ đô la Mỹ trong năm 2007-2008, đặt ra vấn đề về khả năng thu hút hiệu quả nguồn đầu tư lớn như thế. Ba là, doanh thu từ hydrocacbon làm giảm tổng thu nhập nội địa và chèn lấn doanh thu phi dầu mỏ, đặc biệt là thuế (Bornhorst và cộng sự, 2008). Thêm vào đó, các nư ớc xuất khẩu dầu thư ờng phải đối mặt với vay nợ bắt buộc trong suốt chu kỳ giá dầu thấp, điều này làm giảm khả năng của các cơ quan tài chính trong việc duy trì mức cho tiêu trước và áp lực p hải cắt giảm chi tiêu. Những cắt giảm n ày thường có chi phí xã hội cao do tái phân phối lại nguồn lực, nó cũng làm giảm năng suất của vốn công. 3. PHƯƠN G PH ÁP VÀ DỮ LIỆU THỰ C NGHIỆM Dữ liệu bảng năng động GMM tiếp cận việc sử dụng độ trễ thích hợp của các biến để tạo ra các công cụ nội bô. N goài ra, nó khai thác kích thư ớc gộp của các bảng và do đó không thay thế sự hạn chế trên chiều dài của mỗi chuỗi thời gian riêng trên bảng. Điều này cho phép sử dụng một cấu trúc độ trễ thích hợp để khai thác những kí hiệu Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 5 dữ liệu năng động. M ặc dù có nhữ ng lợi thế, nhưng điều đó dẫn đến nhiều thiếu sót quan trọng.Đầu tiên, nó chỉ cho phép ngăn lại, ko dốc xuống, các nhóm khác ở bên kia. Theo như sự biện hộ của pesaran, shin và smith (1997, 1999), sự giả định của đồng thể của các tham số dốc có thể không thích hợp khi mẫu thời gian của bảng không ngắn. T hứ hai, sự phụ thuộc m ặt cắt ngang thì không được giải quyết. Do đó, nghiên cứu đi theo 1 sự t iến gần sự ước tính thứ 2. Sự ư ớc lượng PM G của p esaran, shin và smith (1997, 1999), bằng cách sử dụng cả nhóm cá nhân và kích thước bảng có lợi thế của sự cho phép không đồng nhất trong thời kì ngắn hạn năng động nhưng giả định đồng nhất trong dài hạn. Sự ước lượng PMG cho phép chúng ta: (i) sự co giãn dài hạn của b ảng ước tính, (ii) ước tính tốc độ của sự điều chỉnh ngược lại của trạng thái cân bằng cho riêng mỗi đất nư ớc, (iii) kiểm tra mạnh mẽ kết quả tận bên trong của GMM , xem xét bảng không đồng nhất và mặt cắt ngang phụ thuộc lẫn nhau. 3.1. Một mô hình dữ liệu bảng năng động Xem xét mô hình dưới đây: ; i= 1,2,…,N; t= 2,3,…,T (1) Trong đó, y là tốc độ tăng trưởng thực tế GD P trên đầu người, V là 1 véc-tơ bao gồm giá dầu – các biến liên quan, F là 1 véc tơ của các biến chính sách tài khóa, H là 1 véctơ của các biến kiểm soát phi tài chính, , một thời gian không quan sát-bất biến ( cố định), ảnh hưởng quốc gia cụ thể và , m ột sự quan sát thời gian lỗi đặc biệt. Đặc điểm kĩ thuật năng động ở (1) gợi ý rằng ảnh hưởng cố định quốc gia cụ thể thì tương quan với biến phụ thuộc độ trễ và rằng 1 vài các biến giải t hích có thể là nội suy. Điều này làm tăng sự mâu thuẫn OLS và ư ớc lượng các mối quan t âm không dự kiến. sự ước lư ợng hệ thống GMM , được phát triển bởi Arellano và bover (1995) và Blundell và bond (1998) , khắc phục các vấn đề. Nó sử dụng sự khác biệt độ trễ của các biến được xác định trước như công cụ cho cấp độ của chúng và sự khác biệt của các biến nghiêm ngoại sinh (như trong thủ tục chuẩn IV) Để nắm bắt đư ợc sự ảnh hưởng trự c tiếp của sự t ăng trư ởng giá dầu, chúng ta bao gồm 2 biến giải thích: chỉ số tăng trưởng hàng năm của giá d ầu và sự biến động của giá dầu. Cái thứ 2 được đo lường bởi sự mâu thuẫn có điều kiện của giá dầu thay đổi được bởi sử dụng 1 mô hình GARCH (1,1). Chúng ta đi theo đặc đ iểm kĩ thuật của Lee, ni và ratti (1995), sử dụng dữ liệu hàng tháng của giá d ầu từ tháng 1 năm 1957 đến tháng 12 năm 2008. Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 6 Chính sách tài khóa đư ợc đại diện bởi véc tơ F. m ục tiêu chính của chúng ta là để nghiên cứu sự ảnh hư ởng của doanh thu khác đư ợc chuyển giao đến nền kinh tế thông qua sự t hay đổi của các loại khác nhau của sự tiêu dùng chính phủ hoặc sự thay đổi trong thặng dư ngân sách. Từ khi nền tài chính của chính phủ quyết định là phụ thuộc lẫn nhau, chúng t a giới thiệu quy định đầy đủ các ràng buộc ngân sách nhà nước (GBC) trong mô hình tăng trưởng. sự phụ thuộc lẫn nhau về t ài chính phát sinh từ sự ám chỉ sự tuy ến t ính của GBC yêu cầu bỏ qua 1 biến t ài chính, cho nhữ ng mục đích của sự ước tính. Bằng sự xây dựng, cet eris paribus, biến này đại diện cho phương pháp tài chính của 1 sự thay đổi trong 1 cái khác bao gồm các biến tài chính; Khi doanh thu chính phủ bị bỏ sót trong khi tổng chi tiêu và sự cân bằng ngân sách thì được bao gồm trong sự hồi quy, hệ số của tổng chi tiêu đư ợc giải thích như 1 ảnh hưởng ròng của 1 sự gia tăng trong tổng số chi t iêu trừ đi hiệu quả của 1 sự gia tăng phù hợp trong doanh thu, để lại cân bằng ngân sách không thay đổi. chính thức, véc tơ F tài chính có thể được diễn tả như F = và , trong đó: là nguồn tài chính, và ] là m ột véc tơ 1x k-1 của hệ số như vậy mà cho t ất cả j=1,…,k-1. Cuối cùng, véc tơ H phi tài chính điều khiển sự đ ầu tư riêng , mứ c độ của sự m ở cửa, giáo dục, lạm p hát, các tổ chức chính trị và sự cai trị. 3.2. Bảng điều khiển kiểm tra đơn vị gốc, cùng hội nh ập và sự đánh giá PMG Chúng ta kiểm tra đơn vị gốc trong bảng bằng cách sử dụng 2 phép kiểm tra để xem xét bảng không đồng nhất. đầu tiên, phép kiểm tra Fisher của Maddala và Wu (1999) thì dựa trên giá trị p của các phép kiểm tra đơn vị gốc rieng, như ng nó giả định rằng không có sự phụ thuộc m ặt cắt ngang giữ a các nhóm . T hứ hai, phép kiểm tra CIPs của Pesaran (2007) là phiên bản t ăng cư ờng m ặt cắt ngang của phép thử Im của Pesaran và shin (2003), cái mà khi đưa vào tài khoản có thể phụ thuộc vào mặt cắt ngang. Kế đó chúng ta tiến hành xác định sự hội nhập giữa các biến. chúng t a sử dụng bốn phép kiểm tra hội nhập bảng điều khiển được phát triển bởi westerlund (2007). Các phép thử này đúng cho sự phụ thuộc m ặt cắt ngang có thể giữ a tất cả các đơn vị bảng điều khiển và cho phép một mứ c độ lớn không đồng nhất. hai trong số các phép thử này đư ợc gộp lại nghĩa là các phép thử kiểm tra, trong đó tất cả các hệ số sử a lỗi đư ợc tự do thay đổi theo nhóm. Hai phép thử còn lại là phép kiểm tra bảng điều khiển gộp. chúng giả định rằng hệ số thời kì sửa lỗi không tự do thay đổi theo nhóm. PMG được dùng để ư ớc tính mô hình sửa lỗi dưới đây: Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 7 Và Trong đó, nó; I và là GDP thực tế trên thu nhập đầu người và là tốc độ tăng trưởng của là độ lệch của trạng thái cân bằng dài hạn tại bất kì giai đoạn nào của nhóm là hệ số sử a lỗi (tốc độ sự điều chỉnh). Véc- tơ bắt lấy hệ số dài hạn của sự lợi ích mà không thay đổi theo nhóm ; các hệ số này đại diện cho sự co giãn dài hạn của thu nhập trên đầu người với quan hệ đến mỗi biến trong , nơi mà cái cuối cùng là 1 véc t ơ của các biến đư ợc kì vọng sẽ ảnh hưởng đến sự tăng trư ởng cả trong dài hạn và ngắn hạn. câu trả lời trong ngắn hạn của các biến X là được bắt lấy bởi véc tơ ; là 1 véc tơ của các biến điều khiển được kì vọng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng chỉ trong ngắn hạn và hưởng cụ thể và là những hệ s ố ngắn hạn của nó. là nhóm ảnh là giới hạn lỗi. các biến trong X và Z thì giống như ở trên. T uy nhiên, sự phân vùng của các biến ở những cái ảnh hư ởng dài hạn và chỉ những cái ngắn hạn sẽ đư ợc hướng dẫn theo kết quả của chúng ta từ sự ư ớc tính GMM. 3.3. Dữ liệu: Bảng A 1 liệt kê đầy đủ tất cả các biên và nguồn dữ liệu. Bảng không cân bằng của quan sát hàng năm bao gồm tất cả hoặc một phần của giai đoạn 1970 – 2007. M ẫu gồm 15 nư ớc xuất khẩu dầu mỏ: Bahrain, Cameroon, Colombia, Hy Lạp, Indonesia, Iran, Kuwait, Maylaysia, Mexico, Ni- geria, Norwaym Oman, Syria, UA E, và Venezuela. Dữ liệu t ài chính thu được từ hệ thống thống kê tài chính chính phủ của IMF. Trong m ột vài trư ờng hợp như Nigeria và Indonesia, để hoàn thành bộ dữ liệu, chúng tôi phải quay về dữ liệu báo cáo của chính quyền địa phư ơng. Đáng chú ý là phương pháp của GFS thay đổi dữ liệu báo cáo từ nhữ ng năm 1991 trở đi. Vì vậy, để đảm bảo tính nhất quán, chúng ta giới hạn dữ liệu đến tài chính cá nhân và cấp ngân hàng trung ương. Ngoài ra, định nghĩa các biến đư ợc kết hợp một cách cẩn t hận. Ví dụ, định nghĩa của biến chi thư ờng xuyên cho dữ liệu cũ là giống với định nghĩa chi phí tiền mặt cho dữ liệu sau năm 1990, v.v. Bảng (1a) tóm tắt lại tỷ lệ trung bình của các loại khác trong tổng thu và tổng chi của chính phủ trong GDP của 15 nước xuất khẩu dầu. Nó miêu tả sự phát triển trong tài chính công (% của GDP) để đáp ứng với chu kỳ bùng nổ- phá sản- bùng nổ của dầu trong suốt thời kỳ 1970 – 2007. Chi phí đầu tư công và cơ s ở hạ tầng bị ảnh hưởng xấu nhất bởi cú sock tiêu cự c của nhữ ng năm 1980 và 1990, nhưng tiếp tục giảm m ột Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 8 tỷ lệ phần trăm trong GDP trong sự bùng nổ những năm 2000. Chi phí đầu tư bị cắt giảm mạnh từ 9.2% còn 5.6% trong những năm 80 và 90, và giảm hơn nữa để chỉ còn 4.7% của GDP giữa năm 2002 và 2007. Theo báo cáo của Quỹ tiền tệ q uốc t ế ở các nước Tr ung Đông và Trung Á (2007), đặc biệt là trong việc xử lý chi phí đầu tư, khi so sánh với những năm 1970 thì những nước xuất khẩu dầu phản ứng một cách thận trọng hơn đối với làn sóng giá dầu và doanh thu trong sự bùng nổ vừ a qua. Tuy nhiên, cần chú ý con số trong bảng 1a không phản ánh được toàn bộ chu kỳ bùng nổ m à đỉnh điểm là năm 2008. Vì vậy, sự sụt giảm tỷ trọng đầu tư công trong sự bùng nổ kéo dài có thể phản ánh độ trễ trong chi tiêu đầu tư. Ngư ợc lại, chuyển giao và chi tiêu cho xã hội như giáo dục, phúc lợi xã hội, y tế và nhà ở công cộng t ăng lên đáng kể trong những năm 1980 và 1990, và tiếp tục tăng lên trong những năm gần đây với giá rất cao. Điều này phản ánh một phần sự thay đổi ưu tiên từ vốn vật chất sang nguồn nhân lực. Tiêu dùng của chính phủ như m ột tỷ lệ phần trăm của GDP có xu hướng giảm liên tục kể từ khi làn sóng lớn của những năm 1970. Tóm lại, m ặc dù bảng 1a cho thấy một số đư ờng cong học tập chi tiêu từ những năm 1970, nó cho thấy dấu hiệu suy yếu cơ cấu doanh thu. Sự gia tăng m ạnh trong doanh thu từ năm 2002 đến năm 2007 dẫn đến một sự suy giảm đáng kể trong tỷ lệ phần trăm thuế trong tổng thu ngân sách từ 53% trong những năm 80 và 90 còn 41% trong nhữ ng năm 2000. Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 9 Bảng 1a cũng cho th ấy hiệu suất tăng trư ởng yếu kém của các nước trong điều kiện thu nhập bình quân đầu ngư ời thực t ế trong cả ba giai đoạn. Tuy nhiên, nó m iêu t ả m ột số dấu hiệu của một phản ứng bất đối xứng thu nhập bình quân đầu ngư ời đến chu kỳ dầu. Trong khi chúng ta hy vọng thu nhập bình quân đầu ngư ời tăng lên trong chu kỳ bùng nổ, chúng ta thấy rằng, trung bình, nó giảm nhẹ trong chu kỳ đầu tiên và chu kỳ thứ ba. Tuy nhiên, tỷ lệ tăng trư ởng thấp nhất là giai đoạn khủng hoảng giá d ầu, trong nhữ ng năm 1980 và 1990. T hu nhập bình quân đầu ngư ời theo giá thự c t ế đã giảm với tốc độ trung bình hàng năm là 2.65% trong thời gian đó. Bảng 1b tình bày sự t ăng trư ởng trung bình hàng năm ở mỗi quốc gia cho cả giai đoạn và độ lệch chuẩn của nó. Trong gần 4 thập kỷ, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là âm (-1.74%). Tuy nhiên, một số nư ớc tương đối làm tốt hơn so với những nư ớc khác. Venezuela, Nigeria, M exico và Iran có tỷ lệ t ăng trưởng t hấp nhất mà rõ ràng có liên quan đến tính dễ biến động cao của t hu nhập. Đó là bước nghiên cứu của chúng tôi về vai trò của chính sách tài khóa. Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 10 4. K ẾT QUẢ NGHIÊN CỨ U VÀ TH ẢO LUẬN CHÍNH SÁCH Sử dụng kiểm định F thông thư ờng, chúng tôi ư ớc lượng mô hình tăng trư ởng trong phương trình (2) để quyết định số lượng độ trễ. Từ 8 độ trễ trong biến chính sách tài khóa, mô hình ước lượng giảm xuống còn 5. Bảng (2) cho thấy những kết quả của ước lượng của một mô hình tăng trưởng cơ bản, được làm tăng thêm bởi nhữ ng thay đổi và đ ộ bất ổn của giá dầu. Ở cột 3, hai biến chính sách tài khóa thông thường – tiêu dùng của chính phủ và nguồn thu từ thuế được thêm vào một cách đặc biệt và xuất hiện không có ý nghĩa thống kê. Ở cột 4, mô Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 11 hình đư ợc ước lư ợng lại giới thiệu GBC trong hình thức tính gộp lại. Sự hồi quy 4b ( và những hồi quy xảy ra sau được chỉ rõ bởi chữ b) hạn chế m ẫu trong giai đoạn 1984 – 2002 để loại trừ những giai đoạn bất ngờ xuất hiện trong nhữ ng năm 1970 và 2000. Chúng tôi lần đầu tiên làm nổi bật những kết quả sơ bộ từ bảng (2). Thứ nhất, trong khi giá dầu ngày càng cao có ảnh hưởng tích cự c đến tăng trư ởng thì độ bất ổn ngày càng cao làm cho tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, môt khi chúng tôi kiểm chứ ng chính sách tài khóa, hệ số của sự thay đổi của giá dầu có ý nghĩa và giảm (từ 0.21 xuống 0.008) nhưng vẫn có ảnh hưởng t ích cực vàcó ý nghĩa và ảnh hưởng tiêu cực của độ bất ổn có xu hướng biến mất. Kết quả này giữ vữ ng trong tất cả các ước lượng sau đó. Do đó, sự thay đổi của giá dầu, tách khỏi kênh tài khóa, dường như giải thích cho một vài biến của những tốc độ tăng trưởng. Ví dụ, giá dầu sụt giảm trung bình hàng năm khoảng 7% từ 1984 đến 2002. Theo nhữ ng kết quả trong bảng (2), sự s ụt giảm này chỉ giải thích 0.14 đ iểm giảm (khoảng 2.7%) của tốc độ tăng trư ởng. Thứ hai, t ích lũy thặng dư ngân sách bất ngờ xuất hiện có ảnh hư ởng tiêu cự c và ý nghĩa đến tăng trư ởng. T hứ ba, chi tiêu chỉnh phủ - vấn đề tài chính nổi lên trong nguồn thu – có ảnh hưởng tích cực có lợi đến t ăng trư ởng. Thứ tư, tất cả nhữ ng biến kiểm sót khác đều có t ín hiệu đúng. Có m ột lưu ý là chế độ dân chủ dường như làm m ất ý nghĩa của biến chính sách tài khóa v à sự quản lý (sự thống trị). Sau khi kiểm chứng biến chính sách tài khóa, sự quản lý xuất hiện để gia tăng ảnh hưởng tích cự c lên tăng trưởng. Số dư của các kết quả này cần được nghiên cứu cẩn thận hơn. Trong bảng (3), toàn bộ chi tiêu của chính phủ đều được phân thành vốn và nhữ ng thành phần hiện t ại. Tiêu dùng hiện tại được chia rachi tiết hơn thành lươn g chính phủ, chi tiêu hàng hóa và dịch vụ, giao dịch hiện tại và t ất cả các chi phí khác trong bảng (4). Sự phân tích bởi hàm chi tiêu được chỉ ra trong bảng (5). Tổng chi tiêu được chia ra thành chi tiêu chính phủ cho tiêu dùng thiết yếu của xã hội, dịch vụ công cộng, cơ sở hạ tầng và chi tiêu ở các chứ c năng khác. Chú ý rằng tất cả các ước lượng chúng tôi giữ vữ ng những thừ a nhận tương tự. Chúng tôi cho rằng đầu t iên tổng nguồn thu, bao gồm cả nguồn thu từ thuế và phi thuế, và sau đó chúng tôi nhận thấy quan hệ mật thiết của nguồn thuế. T iếp theo, chúng tôi đào sâu thảo luận của mình và chính sách đư ợc chia thành 2 nhóm, tìm ra mối quan hệ với nguồn thu từ một phần của ngân sách và chúng ảnh hưởng đến tiêu dùng như thế nào. 4.1 Nguồn thu bất ngờ xuất hiện và sự tăng trưởng: Bảng (3), (4) và (5) chỉ ra ảnh hư ởng tiêu cự c lên tăng trư ởng của mở rộng tài khóa khi có sự nổi lên trong nguồn thu dư ờng như dừng sự phân chia tiêu dùng. Kết quả này cần đư ợc n ghiên cứu cẩn thận hơn. Chú ý rằng ảnh hư ởng tiêu cực n ày phản ánh hai hiện tượng: ảnh hưởng bên lề của cân bằng ngân sách và ảnh hưởng của các nguồn Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 12 thu của chính phủ. Nhữ ng hệ s ố đo lường ảnh hư ởng đến tăng trư ởng củatích lũy thặng dư ròng của chính phủ, sự ảnh hưởng của sự bùng nổ những nguồn thu. Do đó, mối quan hệ tiêu cực t ăng trưởng – thặng dư được dàn xếp bởi ảnh hưởng t iêu cực lên nền kinh t ế. Những nước giàu nguồn t ài nguyên như M exico, Nigeria, Venezuela và các nước khác tiết lộ rằng nhữ ng nguồn thu từ trên trời rơi xuống này gây bất lợi cho sự tăng trưởng bởi vì chúng gây ranhững cạnh tranh tìm kiếm không thể nào kìm chế được từ nguồn thu từ dầu lên toàn bộ các giai tầng của chính phủ. Tro ng sự suy giảm của hoạt động kinh tế, chính phủ thường thu được ít hơn hoặc sẽ dẫn đến th iếu hụt nhằm làm giảm bớt việc khai thác và cải thiện sản xuất cho tiêu dùng. Tuy nhiên điều này không khuyến khích các n ước giàu dầu mỏ không tận dụng nguồn thu cũa họ. Nó cảnh báo tầm quan trọng của việc thực hiên các chính sách tài khóa và xây dựng động cơ chính trị để đảm bảo quyền lợi cho họ. Đây là nhằm phục vụ cho nền tảng của việc đầu tư thành công nguồn thặng dư này vào Quỹ dự trữ Quốc Gia (Humphreys & Sandbu, 2007). Thêm vào đó, nó cũng quan trọng trong việc trả các khoản nợ với nguồn thu từ tự có này. Để ước lượng tốt hơn tác động t iêu cự c của nguồn thặng dư này, nguồn thu được chia thành 2 nhân tố là thuế và phi thuế. Ở một mức m à nguồn thu phi thuế không bao gồm hầu như từ dầu đóng góp vào ngân sách, biến của nó sẽ phản ánh những nguồn thu từ dầu như những quả bom và bùng nổ. Đây là sự thật ở những nước kém phát triển và phụ thuộc v à dầu mỏ. Trong cột 6, 8,và 10, thuế đư ợc tính vào nguồn của tài ch ính và phi thuế được xem như hồi quy. Do đó, giải thích rằng, sự thay đổi trong nguồn thu phi thuế được xem như sự thay đổi trong thuế, loại bỏ tiêu dùng vàsự không ảnh hưởng của thặng dư. Trong khinhữ ng nguồn thu phi thuế được bao gồm, hệ số của thặng dư ngân sách mất đi ý nghĩa, những vẫn mang ảnh hưởng tiêu cực, trong khi ảnh hưởng của ngữ ng nguồn thu phi thuế có ảnh hưởng tiêu cưc4 và có ý nghĩa. Kết quả này phù hợp với tranh cãi trên rằng ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng của thặng dư ngân sách từanh3 hưởng của nhữ ng nguồn thu tự có từ dầu (trong trư ờng hợp có thuế) tốt hơn thặng dư ngân sách. 4.2 Tăng trưởng và thành phần của chi tiêu công Trong t able 3, chi tiêu được phân thành các thành phần chi đầu tư và chi thường xuyên. Chúng ta xem khả năng của chi tiêu Chính phủ có thể có hiệu quả tăng trưởnt khác nhau dựa trên tầm quan trọng của sự thay đổi giá d ầu. Giai đoạn tác động qua lại giữ a sự thay đổi giá dầu với chi đầu tư và chi thường xuyên đư ợc thêm vào. Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 13 Không kể phư ơng thức t ài trợ, chi thư ờng xuyên còn lại thì không có ý nghĩa với sự tác động qua lại với sự thay đổi của giá dầu. Ngư ợc lại chi đầu tư được cấp vốn thông qua việc tăng thu đột ngột từ tài nguyên có tác dụng tích cự c trong dài hạn đối với xã hội. Hiệu quả này trở nên có ý nghĩa cao và chiếm vị trí quan trọng trong thời kỳ giá dầu thấp. Tuy nhiên, giai đoạn này được nhân lên nhiều khi chi đầu tư và sự biến động của giá dầu dẫn đến sự tiêu cự c đáng kể. Do đó, tăng trưởng biên hiệu quả biên của sự thay đổi trong chi đầu tư được đo lường bởi: growth =  ca p +  0 * real.oilprices ;  ca p và  0 là hệ số chi đầu tư và sự tác động qua lại của nó với sự thay đổi của giá dầu. Từ khi  0 thì tiêu cự c, cú sốc của giá dầu tiêu cực khi tác động xã hội sẽ thấp khi tăng chi đầu tư. T ầm quan trọng lớn lao của của cú sốc giá dầu thì có hiệu quả tích cực (thuần) thấp hon so với vốn đầu tư công cho phát triển. Ví dụ, khi chi đầu tư đư ợc tài trợ từ 45% tổng thu từ tài nguyên thiên nhiên sẽ làm xói mòn hiệu quả tích cực của việc tăng thêm đầu tư công trong GD P (0.41 – 0.91*45%). Nếu cú sốc giá dầu đạt ngư ỡng 45%, chi đầu tư sẽ tạo ra tích cực trở lại. Tro ng giai đoạn giá dầu thấp (cột 5), chúng ta thấy ngưỡng này đạt gấp đôi (94%).Điều này có ảnh hư ởng tiêu cực của sự tăng trưởng của cú sốc tích cực giá dầu đối với chi đầu tư. Phát hiện này phù hợp với sự trải nghiệm . Trong suốt thời gian Chính phủ thu chủ yếu từ tài nguyên t hiên nhiên thì phản ánh chính sách khuy ến khích chi tiêu lớn và giảm các dự án sản xuất. Ngoài ra, kết quả từ cột 6a và 6b ch ỉ ra là đầu tư công, (đầu tư công) được tài trợ thông qua thuế cao trong suốt thời gian bùng nổ giá dầu (sự thay đổi giá dầu có tác động tích cực), sẽ có tác động tiêu cực trở lại. N goài ra,  ca p trở nên không có ý nghĩa trong khi  0 không có ý nghĩa thống kê. Nhữ ng kết quả đó cho phép chỉ ra 2 chính sách quan trọng: đầu tiên, mở rộng chi đầu tư trong t hời kỳ bùng nổ tăng thu từ tài nguyên thiên nhiên thì làm chậm tăng trưởng; thứ 2, là t ác động trở lại việc giảm giá dầu bằng cách kích th ích tăng trưởng chi đầu tư, mà không phụ thuộc v ào phươn án tài chính. Ngược lại, cắt giảm chi đầu tư dẫn đến những cú sốc tiêu cự c của dầu càng sâu sắc hơn ảnh hưởng t ăng trư ởng bất lợi của nhữ ng cú sốc. Mức độ thiệt hại của t ăng trư ởng thì rất lớn lớn hơn cú sốc tiêu cự c và rõ ràng hơn trong việc cắt giảm chi phí vốn. Chúng ta có thể nhìn vào ảnh hưởng của tăng trưởng biên đối với sự thay đổi của giá dầu, ở phần của nguồn vốn công, có t hể được tính t oán như sau: growth   o ilp +  0 * capit al.Expenditure e.%GDP Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 14 Trong đó  o ilp là hệ số tăng trư ởng của giá dầu và  0 là hệ s ố của thời kỳ tương tác. Đó là, ảnh hư ởng của tăng trưởng đối với sự thay đổi của giá d ầu thì dựa trên phần của đầu tư công trong nền kinh tế. Kể từ khi  o ilp thì tích cực v à  0 thì tiêu cự c, thì 1 phần lớn của đầu tư công trong GDP có thể thấp hơn ảnh hưởng tiêu cực ròng của việc tăng giá dầu. Đó là, việc tăng giá dầu có thể cản trở sự tăng trư ởng của quốc gia với 1 phần lớn của chi tiêu nguồn vốn công, vì thế có thể làm thiệt hại của xã hội trên nguồn vốn công m ới. Ví dụ, Venezuela và Oman có mức chi đầu tư của Chính phủ trung bình khoảng 1.6% và 7.4% GDP. Khi nguồn vốn công đư ợc tài trợ từ nguồn thu từ t ài nguyên thiên nhiên ( cột 5a), với sự tăng trưởng nhanh của giá dầu thì cứ tăng 1% thì sẽ làm t ăng trư ởng chậm đi 0.23% ở Venezuela và khoảng 0.78% ở Oman. Ngư ợc lại, 1 phần chi đầu tư ban đầu lớn làm giảm ảnh hưởng tăng trư ởng bất lợi của cú sốc tiêu cực của giá dầu. Vì thế, những nước có hạ tầng cơ sở ban đầu và chi phí đầu tư công lớn thì có một vị trí tốt hơn để bảo vệ nền sản xuất khi có cú sốc tiêu cực của dầu bắt đầu diễn ra. Trong bảng 4, chúng ta tìm hiểu sâu hơn về ảnh hư ởng của chi thường xuy ên. Kết quả ở cột 7 và 8, chỉ ra là lương khu vự c công và chi mu a hàng hoá dịch vụ của Chính phủ đang tăng lên trong suốt thời kỳ giá dầu bùng nổ có ý nghĩa thống kê quyết định đến sự ảnh hưởng của tăng trưởng. Tuy nhiên, trong khi lương khu vự c công đang tăng lên thông qua việc tăng thuế thì không có ý nghĩa thống kê đ ối với ảnh hưởng của tăng trưởng; tăng chi t iêu hàng hoá dịch vụ của Chính phủ thì t ạo ra 1 sự thuận lợi nhỏ đối với ảnh hưởng của tăng trư ởng. N goài ra, sự xuất hiện của chuyển giao thư ờng xuyên và chi tiêu thường xuyên thì không có ý nghĩa thống kê mà không kể nguồn gốc của các quỹ, điều này chỉ ra là chúng hầu như không hiệu quả. Bảng phân tích tổng chi phí theo các chứ c năng. Chi tiêu cho cơ sở hạ tầng và dịch vụ công xuất hiện hiệu quả nhất, mà không kể phương pháp được tài trợ. Hiệu quả này thì có mối quan hệ lớn trong trường hợp của dịch vụ công, điều này đang chỉ ra 1 mối quan hệ trở lại cao đối với dịch vụ công. Mặt khác, chi tiêu cao hơn đối với nhữ ng chi tiêu xã hội cốt lõi bởi nguồn thu từ tài nguyên t hiên nhiên cản trở. Bảng 5: Chính sách t ài khoá, Giá dầu và tăng trư ởng: Chi t iêu theo chức năng TO TAL REVENUES TAX REVENUES (9a) (10b) (9a) (10b) 0.004** 0.02*** 0.007*** 0.04*** Finance Method Grow prices of Real oil Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 15 (2.53) (4.36) (2.81) (3.43) -0.03 -0.01 -0.02 -0.02 (1.60) (1.31) (1.27) (1.54) 0.17/*** 0.22*** -0.10 -0.13 (8.33) (7.89) (1.56) (1.18) 0.11*** 0.14*** (6.55) (6.01) -0.07 0.16 0.17 (2.62) (1.70) (0.98) (1.23) 0.29** 0.35** 0.49*** 0.36*** (2.45) (2.87) (3.79) (3.09) 0.93*** 0.83*** 1.03** 1.01*** (3.89) (3.74) (2.89) (3.58) 0.08 0.03 0.15 0.10 (1.52) (0.45) (0.98) (1.02) 0.02** 0.02** 0.02*** (1.79) (2.51) (2.88) (3.74) 0.04* 0.03* 0.03* 0.04** (1.97) (2.89) (1.99) (1.98) 0.03 0.14 0.05* 0.04* (1.69) (1.61) (1.99) (1.98) 0.03 0.02 0.06 0.03* (1.58) (1.54) (1.44) (1.99) 0.7 0.4 0.8 0.4 Volatility of oil prices Budget surplus Non-tax revenues Core exp enditures ** social 0.10 Infrastructure Public servies All other expenditures (non-oil) openness T rade 0.01 Inflation Human Capital Private investment Demoncratic institutions Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 16 (1.33) (0.45) (1.19) (0.68) 0.12*** 0.09** 0.10*** 0.07* (4.85) (2.85) (3.75) (2.10) Governance (1984) 4.3 Kiểm tra một cách m ạnh mẽ: Kết quả ư ớc lượng trên bị hạn chế 1 giai đoạn nhỏ của việc giảm giá dầu (1984-2002) chỉ ra rằng kết quả cốt lõi thì không có ý nghĩa thống kê khác nhau với ví dụ có giai đoạn đầy đủ. Kết quả này kết luận 1 cách mạnh mẽ của cú sốc tiêu cực của dầu và sự phụ thuộc vào dầu giả tạo cao. Chúng ta còn kiểm tra kết quả cho nhữ ng ảnh hưởng quan sát, loại bỏ 3 quan sát có tỷ lệ tăng trư ởng tiêu cực cao và thặng dư cao khác thường. Chúng t a còn sử dụng biến giả theo hướng m ở của Sachs và W arner thay vì sử dụng tổng của tỷ lệ xuất nhập khẩu (không tính dầu) trong GD P, chỉ số tự do chính trị (từ tự do nhà) thay cho điểm chính trị, kiểm soát giá trị chỉ số tham nhũng trong nhữ ng năm 1996 từ các chỉ số quản trị trên toàn thế giới (W B) thay cho chỉ s ố quản trị tổng hợp ICRG của nhữ ng năm 1984, và vấn đề gia tăng dân số cũng đư ợc thêm vào. Tất cả nhữ ng vấn đề cốt lõi tìm được của chính sách tài khoá thì khá là mạnh mẽ. Cuối cùng, một tranh cãi nữ a là những nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào dầu thì có nhiều th ặng dư và đồng thời chịu một tỷ lệ tăng trưởng trung bình thấp. Vì thế, ảnh hưởng tiêu cự c của thặng dư ngân sách tới sự tăng trưởng có thể bị gián tiếp thông qua mối quan hệ tiêu cự c giữa phục thuộc dầu và tăng trư ởng. Đ ể kiểm tra việc n ày, chúng ta xem xuất khẩu dầu như 1 tỷ lệ xuất khẩu hàng hoá. Nếu ảnh hưởng t iêu cực của thặng dư không xuất hiện, thì sự phụ thuộc thực sự vào dầu làm cả 2 thay đổi, mà không có liên hệ trực tiếp giữa thặng dư và tăng trư ởng. Chúng t a tóm lại là tác động tiêu cực có ý nghĩa thống kê của thặng dư là vẫn được tìm thấy. 4.4 Bảng điều khiển bất đồng nhất, đồng liên kết và kết quả PMG Trước tiên chúng tôi tiến hành bảng kiểm tra. Kết quả kiểm tra từ M addala và Wu’s Fisher (1999), nó thì nhạy cảm với việc tồn tại lát cắt ngang phụ thuộc, cho thấy rằng tất cả có thể thay đổi, ngoại trừ đầu tư cá nhân, lạm phát, chi tiêu chính phủ, và chi tiêu hiện nay thì không dừng mức độ. Tuy nhiên, sau khi lát cắt ngang phụ thuộc lẫn nhau được cho là đúng, CIPS kiểm tra cho biết rằn tất cả có thể thay đổi là I Một trở ngại của kỹ thuật PM G là cho phép chỉ một mối quan hệ đồng liên kết. Thêm vào đó, điều chúng ta quan tâm là mối qu an hệ trong thời gian dài giữa chính Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 17 sách tài chính, giá dầu và thu nhập bình quân đàu người. Nhữ ng điều này đư ợc chỉ ra bởi kết quả GMM trước đây, chúng tôi giới hạn nghiên cứu thực tiễn thay đổi có ý nghĩa xuất hiện trong phân tích trư ớc đây. Bảng 6 trình bày kết quả kiểm tra bảng điều khiển đồng liên kết của Westerlund. Khi tối thiểu 3 trong 4 bài kiểm tra loại bỏ không có hiệu lự c không cùng liên kết, phương sai được xem như đồng liên kết với thu nhập bình quân đầu người. Ba biến số tài chính không qua kiểm tra đồng liên kết: 1) Sứ c mua hàng hóa và dịch vụ của chính phủ; 2) Tiền lương; và 3) Dịch vụ công cộng. Do đó nhữ ng biến số khác không bao gồm trong hệ thức đồng liên kết. Trong phần khác, những bài kiểm tra khuyến khích mối quan hệ đồng liên kết giữa thu nhập bình quân đầu người và giá dầu, thặng dư ngân sách, tổng chi tiêu chính phủ, luồng tiền hoạt động đầu tư vào tài sản cố định, và chi t iêu công cho cơ sỡ hạ tầng. Dựa trên kết quả này, chúng tôi kiểm tra vecto đồng liên kết nhiều chiều của thu Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 18 nhập bình quân đầu ngư ời, giá dầu, thặng dư ngân sách và một số khái niệm chi tiêu. Tất cả 4 bài kiểm tra cho thấy sự t ồn t ại đồng liên kết trong 3 vecto. Như vậy chúng tôi tiếp tục ư ớc lượng PM G cho 3 chi tiết mà khác nhau chỉ có thể thay thế cho nhau bao gồm trong m ối quan hệ lâu dài. Kết quả đư ợc thể hiện trong bảng 7. Tất cả 3 só hạng lỗi sửa chữ a thì có ý nghĩa tiêu cực, xác nhận rằng tồn tại một đồng liên kết quan hệ dài hạn trong ít nhất 1 quốc gia. Đồng liên kết dài hạn thì cũng có ý nghĩa và có ký hiệu kỳ vọng. Trong thời gian dài, giá dầu cao, chi tiêu chính phủ cao ( chi t iêu công và cơ sỡ hạ t ầng) kéo theo thu nhập bình quân đầu người cao. Ngư ợc lại thặng dư ngân sách lớn kéo theo thu nhập bình quân đầu người thấp. Hệ số PMG ngắn hạn là trung bình của có hệ số thu đư ợc từ mô hình riêng của mỗi quốc gia trong bảng điều khiển, và do đó nên lấy cẩn thận. Nhưng kéo theo 1 sự quan trọng cần xác nhận. M ột điều bất ngờ là giảm phát triển tr ong ngắn hạn bởi vì ảnh hư ởng tiêu cự c của việc tăng luồng tiền hoạt động đầu tư vào tài sản cố định. Nhưng khi chi tiêu chính phủ, giá dầu và sản lượng kết hợp với nhau trong dài hạn; kết quả không cân bằng trong ngắn hạn dần dần hư ớng kỹ thuật sửa chữa theo nhữ ng năm trở lại cân bằng dài hạn. Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 19 5. K ẾT LUẬN Bài báo này đưa ra những câu hỏi cho bất kỳ chính sách tài chính đặc biệt nào của việc xuất khẩu dầu của các quốc gia đóng góp vào tài liệu chứng minh thâm hụt nặng của họ. Chúng tôi tìm thấy cách mà chính phủ phân phối nguồn thu nhập tự nhiên và cách điều chỉnh quá trình chi tiêu dầu không ổn định, giải t hích một vài sự thay đổi trong việc hiệu suất tăng t ăng dài hạn bởi các nhà xuất khẩu dầu. Trong trường hợp đặt biệt các kênh tài chính cho rằng thu nhập từ dầu có thể cản trở sự tăng trưởng là: i) giảm thu ế trong nước, ii) giảm phân phối vốn xã hội, iii) thặng dư cao. Nhóm 4 – Lớp NH Đêm 2 K22 Page 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất