Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đời sống văn hóa của cư dân óc eo ở tây nam bộ (qua tư liệu khảo cổ học) ...

Tài liệu đời sống văn hóa của cư dân óc eo ở tây nam bộ (qua tư liệu khảo cổ học)

.PDF
189
468
131

Mô tả:

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI ********** NGUYỄN THỊ SONG THƯƠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN ÓC EO Ở TÂY NAM BỘ (Qua tư liệu khảo cổ học) LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI – 2015 BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI ********** NGUYỄN THỊ SONG THƯƠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN ÓC EO Ở TÂY NAM BỘ (Qua tư liệu khảo cổ học) Chuyên ngành Mã số : Văn hóa học : 62310640 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Văn Cần 2. TS. Lê Thị Liên HÀ NỘI – 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Cần và TS. Lê Thị Liên. Các số liệu, hình ảnh và kết quả nghiên cứu của luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tác giả luận án Nguyễn Thị Song Thương 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN VỀ MIỀN TÂY NAM BỘ VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VĂN HÓA ÓC EO 1.1. Những khái niệm liên quan đến đề tài Trang 3 8 1.2. Điều kiện hình thành văn hóa Óc Eo 8 13 1.3. Lịch sử nghiên cứu và các dấu tích văn hóa Óc Eo 23 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỜI SỐNG VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ÓC EO 2.1. Đời sống sinh hoạt 2.2. Đời sống mưu sinh Chương 3: ĐẶC ĐIỂM ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ÓC EO 3.1. Tín ngưỡng, tôn giáo 3.2. Nghệ thuật 3.3. Phong tục, tập quán 3.4. Chữ viết 3.5. Giải trí Chương 4: VĂN HÓA ÓC EO Ở TÂY NAM BỘ TRONG BỐI CẢNH GIAO LƯU VĂN HÓA VỚI CÁC NƯỚC LÁNG GIỀNG 4.1. Tây Nam Bộ và mạng lưới thương mại trên biển giai đoạn thiên niên kỷ I sau Công nguyên 4.2. Văn hóa Óc Eo giao lưu, tiếp biến với các nền văn hóa khác 4.3. Sự suy tàn của văn hóa Óc Eo 58 58 78 109 109 125 133 138 140 144 144 146 159 KẾT LUẬN 164 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 172 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 173 PHỤ LỤC 187 2 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DSVH : Di sản Văn hóa ĐSVH : Đời sống văn hóa BTLS HCM : Bảo tàng lịch sử tại thành phố Hồ Chí Minh BTĐT : Bảo tàng Đồng Tháp BTAG : Bảo tàng An Giang BTKG : Bảo tàng Kiên Giang BTCT : Bảo tàng Cần Thơ NPHMVKCH : Những phát hiện mới về khảo cổ học ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long TNB : Tây Nam Bộ NXB : Nhà xuất bản VHNT : Văn hóa Nghệ thuật VHTT : Văn hóa Thông tin VH, TT & DL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch CTQG : Chính trị Quốc gia KHXH : Khoa học Xã hội HN : Hà Nội SCN : Sau Công nguyên TCN : Trước Công nguyên LLCT : Lý luận chính trị Tp.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh PL : Phụ lục 3 MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA LUẬN ÁN 1.1. Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa khảo cổ, được giới khoa học biết đến từ cuối thế kỷ XIX. Tên gọi của nền văn hóa này do nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret đặt ra sau cuộc khai quật vào tháng 4 năm 1944 ở cánh đồng Óc Eo (Thoại Sơn - An Giang). Cho đến nay, hàng loạt di tích ở khắp các tỉnh TNB khác được khai quật. Các di tích khai quật đã làm lộ diện về sự tồn tại của một nền văn hóa khảo cổ, đều có chung đặc điểm, tính chất văn hóa với khu di tích Óc Eo (An Giang). Văn hóa Óc Eo tồn tại trong một không gian rộng và một thời gian dài, trải qua nhiều thời kỳ khác nhau; nó được nhìn nhận là chứng cứ vật chất của một “vương quốc” lớn có địa vực bao trùm cả một vùng Nam Đông Dương mà thư tịch cổ Trung Quốc gọi là “Phù Nam”. Bên cạnh đó, khu di tích Óc Eo luôn được coi như một điểm giao hội của văn hóa Đông - Tây, là “kho” hàng hoá lớn trên con đường thương mại quốc tế, giữa hai châu lục Âu - Á. Cho đến nay, hàng trăm di tích Óc Eo đã được phát hiện, phân bố trên diện rộng, rộng hơn về không gian, nhiều hơn về số lượng các di tích phát hiện trước năm 1975. Thêm vào đó, số lượng các hiện vật đã được phát hiện, sưu tầm ngày một nhiều, hiện đang lưu giữ trong các bảo tàng trung ương và bảo tàng các tỉnh, tiêu biểu là Bảo tàng Lịch sử Việt Nam tại TP.HCM, BTAG, BTKG, BTCT, BTĐT, BTLA... 1.2. Các nguồn tư liệu quan trọng trên giúp cho các nhà nghiên cứu tìm hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau về văn hóa Óc Eo. Đến nay, đã có hàng ngàn bài viết, sách chuyên khảo, kỷ yếu hội nghị và các báo cáo khảo sát điều tra liên quan tới nền văn hóa Óc Eo. Đây là kết quả nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước, nội dung bao gồm: thông báo các phát hiện mới; tình trạng của các di tích, các loại hình di vật phát lộ; nghiên cứu các vấn đề về nguồn gốc hình thành, sự phát triển của văn hóa Óc Eo; các quan hệ giao lưu văn hóa và thương mại với bên ngoài... Một số khía cạnh về đời sống văn hóa xã hội của cư dân được đề cập tới qua việc nghiên cứu các tài liệu lịch sử và so sánh với tài liệu khảo cổ học. 4 Những thành quả này của các nhà khoa học về văn hóa Óc Eo rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu nói trên mới chủ yếu là dưới góc độ các nghiên cứu khảo cổ học. Việc tìm hiểu khối tư liệu khảo cổ học từ hướng tiếp cận văn hóa học còn rất hạn chế. Việc nghiên cứu phạm vi phân bố, nội dung và đặc điểm, niên đại và quá trình phát triển của các di tích, cội nguồn và truyền thống của văn hóa Óc Eo... trong mối liên hệ với cư dân - chủ nhân của nền văn hóa này còn chưa đầy đủ. Những vấn đề lịch sử liên hệ văn hóa Óc Eo với các thể chế chính trị đương thời như nước Phù Nam, đến Chân Lạp... vẫn cần tiếp tục tìm tòi, lý giải, minh định. Trong đó, vấn đề mối quan hệ giữa con người với dấu tích văn hóa mà cư dân Óc Eo để lại; vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị DSVH đó trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế đang là những vấn đề có ý nghĩa khoa học và thực tiễn nhất cần được làm sáng tỏ. Với những lý do trên, tác giả mong muốn sẽ có những khám phá, cách tiếp cận mới về văn hóa Óc Eo ở TNB. 2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu các mặt đời sống văn hóa (đời sống vật chất và đời sống tinh thần) của cư dân Óc Eo ở miền TNB thông qua việc phân tích, diễn giải các nguồn tư liệu khảo cổ học. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá các tư liệu và kết quả nghiên cứu văn hóa Óc Eo cả về mặt khảo cổ lẫn các nghiên cứu của các học giả trong cũng như ngoài nước, nhằm cung cấp cho các nhà khoa học nguồn tư liệu cập nhật về văn hóa Óc Eo. - Trên cơ sở nguồn tư liệu văn hóa Óc Eo, luận án hướng tới việc phân định các di tích di vật là minh chứng cho đời sống văn hóa xã hội Óc Eo. Từ đó, tìm hiểu đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Óc Eo trong khung cảnh chung của quá trình phát triển từ giai đoạn tiền - sơ sử lên hình thức tổ chức nhà nước ở miền TNB; tìm hiểu sự biến đổi văn hóa của cư dân Óc Eo ở miền TNB trong quá trình giao lưu thương mại với các nền văn minh khác, nhằm xác định những nét đặc trưng của cư dân Óc Eo ở miền TNB. 5 - Bằng phương pháp tiếp cận văn hóa học, công trình làm rõ những khía cạnh đời sống văn hóa xã hội của cư dân Óc Eo ở miền TNB, góp phần nâng cao nhận thức về đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo ở một giai đoạn lịch sử quan trọng của vùng đất này. 3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là các tư liệu khảo cổ học, bao gồm các di tích trọng điểm, các sưu tập hiện vật trong các bảo tàng, các bài báo cáo khảo cổ học, các công trình nghiên cứu di tích, di vật dưới góc độ khảo cổ học… - Bên cạnh đó, các tư liệu thành văn như: thư tịch cổ và các công trình nghiên cứu có liên quan đến đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo ở miền TNB là những tài liệu bổ trợ, soi rọi thêm cho tư liệu khảo cổ học. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về không gian: Dấu vết của văn hóa Óc Eo được phát hiện trong phạm vi rất rộng, bao trùm hầu hết các tỉnh Nam Bộ. Trong luận án này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu các khía cạnh đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo ở các tỉnh miền TNB, bao gồm các tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu, trong đó, tập trung ở ba tỉnh có các di tích văn hóa Óc Eo tiêu biểu nhất là: An Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang. - Về thời gian: Việc phân kỳ các giai đoạn của văn hóa Óc Eo còn chưa được giải quyết triệt để cho nên luận án tập trung tìm hiểu văn hóa Óc Eo chủ yếu ở giai đoạn từ khoảng thế kỷ II đến thế kỷ VII, là thời kỳ hình thành rõ nét và phát triển những đặc trưng cơ bản của nền văn hóa này. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong nghiên cứu văn hóa quá khứ, nhằm nhìn nhận và đánh giá khách quan, khoa học về DSVH. 4.2. Văn hóa học là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp, cần được áp dụng nhiều phương pháp và có hướng tiếp cận đa ngành và liên ngành. Tuy nhiên, các 6 phương pháp nghiên cứu được lựa chọn tuỳ vào từng đối tượng cụ thể. Do đối tượng đặc thù của luận án là các tư liệu khảo cổ học (di tích, các sưu tập di vật trong bảo tàng và các tư liệu viết có liên quan), luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chuyên ngành dân tộc học, xã hội học và nhân học. Đặc biệt là sử dụng nhân học biểu tượng vào quá trình thu thập, phân tích tư liệu. Trong đó, các phương pháp định tính và định lượng trên cơ sở quan sát, mô tả, thống kê, chụp ảnh v.v. được đặc biệt chú trọng. Mặc dù phương pháp phỏng vấn không được áp dụng cho các đối tượng khảo cổ học, tác giả luận án đã tham gia một số đợt khảo sát khảo cổ học tới các di tích và các bảo tàng, thảo luận cùng với các nhà khảo cổ học về mối liên hệ của các bộ sưu tập với di tích và địa tầng khảo cổ học, cũng như môi trường sinh thái cổ. Từ đó có cơ sở để phân tích và phục dựng lại đời sống văn hóa của một xã hội nay không còn. 4.3. Trong quá trình phân tích tư liệu khảo cổ học, việc đối chiếu và so sánh với các nguồn sử liệu và tư liệu thành văn khác được thực hiện trên cơ sở áp dụng một số kết quả nghiên cứu đa ngành về lịch sử nghệ thuật, tôn giáo tín ngưỡng, phương thức sản xuất, giao lưu văn hóa … nhằm nhận ra hệ thống các hình thái biểu thị giá trị của xã hội và cư dân Óc Eo. 5. NHỮNG KẾT QUẢ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN 5.1. Luận án tổng hợp, hệ thống hoá tư liệu khảo cổ học, kết quả nghiên cứu văn hóa Óc Eo và các nguồn tư liệu khác, nhằm cung cấp một cách cập nhật và có hệ thống nguồn tư liệu về văn hóa Óc Eo ở TNB; giúp cho việc nhận thức nội dung văn hóa Óc Eo ở TNB được rõ ràng hơn, nhất là lĩnh vực đời sống văn hóa - xã hội. 5.2. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, so sánh, đối chiếu những dấu tích khảo cổ học và các sưu tập di vật của cư dân Óc Eo được phát hiện ở miền TNB, luận án cung cấp những kiến giải về đời sống vật chất, tinh thần và làm rõ các đặc điểm của nó nhằm có cái nhìn khách quan, toàn diện về bức tranh văn hóa thời sơ sử ở TNB, Việt Nam. 5.3. Bằng việc so sánh, đối chiếu với các tư liệu ở các khu vực khác, luận án xác định những đặc trưng văn hóa của cư dân Óc Eo ở TNB và sự biến đổi đời sống văn hóa của cư dân Óc Eo trong quá trình giao lưu với các cư dân láng giềng. 7 5.4. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp và góp thêm tư liệu cho việc tìm hiểu văn hóa Óc Eo ở TNB, lịch sử văn hóa miền TNB nói chung, phổ biến kiến thức văn hóa - lịch sử Óc Eo cho nhân dân miền TNB, nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế, góp phần cung cấp các kiến giải và luận cứ khoa học cho việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay. 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án được trình bày trong 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan về miền Tây Nam Bộ và lịch sử nghiên cứu văn hóa Óc Eo Chương 2: Đặc điểm đời sống văn hóa vật chất của cư dân Óc Eo Chương 3: Đặc điểm đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Óc Eo Chương 4: Văn hóa Óc Eo ở Tây Nam Bộ trong bối cảnh giao lưu văn hóa với các nước láng giềng 8 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ MIỀN TÂY NAM BỘ VÀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VĂN HÓA ÓC EO 1.1. Những khái niệm liên quan đến đề tài Văn hóa Óc Eo là một nền văn hóa khảo cổ. Tiếp cận văn hóa Óc Eo dưới góc độ văn hóa học, cần làm rõ một số khái niệm: Văn hóa, văn hóa khảo cổ, văn hóa Óc Eo, đời sống văn hóa. Chúng tôi xin đề cập một cách khái lược về những khái niệm này để làm công cụ lý luận cho nội dung luận án. Văn hóa là sản phẩm của con người, là hệ quả của sự tiến hoá nhân loại. Ngay những bước đi lịch sử đầu tiên của mình, loài người đã gắn liền với văn hóa. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên độc đáo trong thế giới sinh vật và khác biệt so với những con vật khác trong thế giới động vật. Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, 2000) [33,tr.35-36] thì từ văn hóa có 5 nghĩa: 1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử (Thí dụ: kho tàng văn hóa Việt Nam). 2. Những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần – nói một cách tổng quát (Thí dụ: phát triển văn hóa). 3. Tri thức, kiến thức khoa học (Thí dụ: Trình độ văn hóa). 4. Trình độ cao trong sinh hoạt văn hóa xã hội, biểu hiện của văn minh (Thí dụ: sống có văn hóa). 5. Nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau (Thí dụ: văn hóa Đông Sơn). Như vậy, có thể thấy văn hóa là một thuật ngữ đa nghĩa, thường được xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau. Đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa, trong đó có rất nhiều định nghĩa được các nhà khoa học ghi nhận, được nhiều giáo trình công bố, mà chúng tôi thấy phù hợp với nội dung của luận án. Quan niệm văn hóa của nguyên Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor nêu ra nhân dịp phát động “Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa” (1988 - 1997): 9 Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khử cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó, từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình [3, tr.15]. Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần hay trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội. Trong quá khứ hay hiện tại, văn hóa là những hệ thống có giá trị; là cái bản sắc của mỗi cộng đồng, dân tộc; là cái không thể lẫn vào đâu được. Như vậy, theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, 2000) văn hóa ở đây được hiểu theo nghĩa thứ nhất là kho tàng văn hóa. Hay một quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh được nhiều nhà khoa học nhắc đến trong những năm gần đây: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [99, tr.431]. Vậy với khái niệm này, văn hóa ở đây được hiểu theo nghĩa thứ hai, là do con người sáng tạo ra, nhằm thích ứng với nhu cầu của cuộc sống. Nó là sản phẩm của con người và chỉ dành riêng cho con người, cộng đồng người; nó được sinh ra, tồn tại và phát triển với con người. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Con người vừa là khách thể, vừa là chủ thể của sự phát triển, hay vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện, điều đó chứng tỏ, con người và môi trường văn hóa có mối quan hệ mật thiết với nhau. Theo Phan Ngọc, khái niệm văn hóa dùng để chỉ trình độ phát triển về vật chất và tinh thần của những xã hội, dân tộc, bộ lạc cụ thể; đôi khi theo nghĩa hẹp, văn hóa chỉ liên quan đến đời sống tinh thần của con người [102, tr.14-17]. 10 Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng, mỗi định nghĩa đề cập đến những dạng thức hoặc những lĩnh vực khác nhau trong văn hóa. Từ góc độ tiếp cận và mục đích nghiên cứu của mình, các nhà khoa học đã cố gắng làm sáng tỏ những yếu tố căn cốt nhất của văn hóa. Còn theo quan điểm của tôi, với hướng nghiên cứu một nền văn hóa khảo cổ, thì Văn hóa là hệ thống các giá trị vật chất (văn hóa vật thể) và tinh thần (phi vật thể) do con người sáng tạo ra trong quá trình lao động, sản xuất, được tích luỹ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ở đây, tôi xem xét các giá trị tinh thần không phải ở những phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng và những giá trị văn hóa hiện hữu, mà tiếp cận nó thông qua những sản phẩm vật chất (văn hóa vật thể) đã nằm sâu dưới lòng đất để làm rõ yếu tố tinh thần trong đó. Khảo cổ học là ngành khoa học nghiên cứu những nền văn hóa của loài người qua quá trình phục chế, tìm hiểu tài liệu và phân tích những dữ liệu như: di vật, di tích, hài cốt… Mục đích của khảo cổ học là đưa ra những lời giải đáp đầy đủ về nguồn gốc, sự phát triển và tiến trình tiến hoá, bề dày lịch sử của loài người và của văn hóa loài người. Đây là môn khoa học duy nhất đã thu thập và giải mã những thông tin về thời tiền sử. Nó giúp cho con người hiểu biết về đời sống văn hóa - xã hội của cư dân cổ đại [101, tr.29]. Văn hóa khảo cổ: là nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở tổng thể của một nhóm di tích khảo cổ có những đặc điểm giống nhau, phân bố liền khoảnh, tồn tại trong một khung thời gian nhất định, có một số về đặc trưng di tích, di vật ổn định phân biệt rõ với các văn hóa khác và chủ nhân của chúng thường là một tộc người nhất định [118, tr.14-15]. Trong một nền văn hóa khảo cổ có thể tồn tại nhiều loại hình văn hóa khác nhau. Mỗi loại hình văn hóa đều phản ánh những đặc tính của địa phương một cách rõ nét. Để xác định được một nền văn hóa khảo cổ, cần phải nghiên cứu một tập hợp các di tích khảo cổ, xác định giữa chúng có chung những đặc trưng, tính chất, niên đại, chủ nhân, nguồn gốc, các giai đoạn phát triển… Khi nghiên cứu nền văn hóa khảo cổ có thể phác thảo diện mạo văn hóa, làm rõ đời sống vật chất, tinh thần và các hình thái kinh - tế xã hội của cư dân cổ. 11 Văn hóa Óc Eo: “Óc Eo” là tên gọi của một địa danh thuộc xã Vọng Khê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Khái niệm“Văn hóa Óc Eo” được hiểu là một nền văn hóa khảo cổ, có những đặc điểm chung về di tích, di vật, được L. Malleret đặt ra sau cuộc khai quật vào năm 1944. Nền văn minh này được hình thành và phát triển từ thế kỷ I đến thế kỷ VII SCN. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học dựa vào các kết quả khai quật khảo cổ đã chứng minh văn hóa Óc Eo là sản phẩm vật chất của Vương quốc Phù Nam. Theo các nhà nghiên cứu, Phù Nam là tên gọi theo cách phát âm “founan” của người Trung Hoa. Còn phiên âm của tiếng Khmer cổ là “bnam”, ngày nay gọi là “phnom” có nghĩa là “núi”. Vua Phù Nam có nghĩa như “vua núi” theo tiếng Phạn là “parvatabhûpala”, tiếng Khmer là “kurung bnam” [56, tr.84]. Vương quốc Phù Nam được coi là thể chế nhà nước đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Nó hình thành từ thế kỷ I SCN, suy vong từ khoảng thế kỷ VI và mất hẳn từ thế kỷ VII. Phù Nam được hình thành trên cơ sở kết hợp giữa một bộ lạc Môn cổ sống bằng nghề săn bắn, thu hoạch lâm sản và một bộ lạc Nam Đảo làm nông nghiệp, đánh cá và buôn bán trên biển. Phù Nam là đế chế bao gồm nhiều tiểu vương quốc và lãnh địa. Trong mỗi tiểu vương quốc thường có một vị tiểu vương làm thủ lĩnh lãnh đạo các thủ lĩnh khác (chư hầu). Lãnh vực của vương quốc Phù Nam bao trùm một vùng rộng lớn, gồm phía Nam Việt Nam, Malaysia, một phần Campuchia và Thái Lan. Đời sống văn hóa là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam từ những năm 80, tuy nhiên đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa nào thống nhất, có tính chất thuyết phục. Theo tác giả Trần Độ thì “phải hiểu đời sống văn hóa theo nghĩa rộng, không bó hẹp tính văn hóa vào một số lĩnh vực đời sống văn hóa nào đó mà coi đời sống văn hóa là một khái niệm rộng rãi, bao quát mọi mặt của đời sống xã hội: sản xuất, trao đổi, tiêu dùng, nhận thức, sáng tạo” [36; tr.24]. Theo GS.TS Hoàng Vinh “đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, mà đời sống xã hội là một phức thể của những hoạt động sống của con người, nhằm đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần của nó”. Trong đó “Nhu cầu vật 12 chất được đáp ứng làm cho con người tồn tại như một sinh thể, còn nhu cầu tinh thần giúp cho con người tồn tại như một sinh thể xã hội, tức một nhân cách văn hóa” [153, tr.149]. Như vậy, ở đây tác giả nhìn nhận đời sống văn hóa gắn liền với những nhu cầu cơ bản của con người, con người không thể tách rời hai nhu cầu thiết yếu, đó là nhu cầu về vật chất và tinh thần. Tuy nhiên, sự phân biệt này cũng chỉ có ý nghĩa tương đối vì thực chất, nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần thường thống nhất với nhau trong hoạt động sống của con người. Theo GS. TS Đỗ Huy “đời sống văn hóa là hoạt động sản xuất của con người trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Sản xuất của con người không chỉ duy nhất tạo ra cuộc sống cá nhân, còn tạo ra đời sống nhiều người khác. Hoạt động sản xuất vật chất cũng như hoạt động sản xuất tinh thần đều tạo ra những mối quan hệ, ra các hình thức giao tiếp mới” [141, tr.15]. Như vậy, với quan điểm này, tác giả cho rằng, đời sống văn hóa phải bắt nguồn từ hoạt động sống của con người. Theo tác giả, “để hình thành đời sống văn hóa thì phải hình thành đời sống của con người”, vì con người là một thực thể văn hóa. Ngoài ra, còn có rất nhiều quan điểm khác nhau về đời sống văn hóa, mỗi quan điểm đều có lý luận và thực tiễn riêng. Tuy nhiên, có thể hiểu đời sống văn hóa là toàn bộ hoạt động văn hóa của con người, đáp ứng nhu cầu văn hóa vật chất và tinh thần nhằm duy trì cuộc sống của con người. Đời sống văn hóa và đời sống xã hội có sự giao thoa với nhau, song điểm khác biệt là đời sống văn hóa gạn lọc dần những yếu tố phản tiến bộ của đời sống xã hội, nhằm đảm bảo các giá trị văn hóa được biểu hiện ở mức độ cao nhất. Đời sống văn hóa của một cộng đồng được thể hiện qua đời sống văn hóa vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng đó. Đời sống văn hóa vật chất tồn tại hữu hình dưới dạng các sản phẩm văn hóa vật thể như các công trình kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, tác phẩm văn học, di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, cổ vật, bảo vật, các di tích khảo cổ học… Đời sống văn hóa tinh thần không hiện hữu một cách cố định, tồn tại dưới dạng các quan niệm về giá trị và chuẩn mực xã hội, được ghi nhận và lưu truyền trong ký ức của xã hội. Đó là các huyền thoại, truyền thuyết, lễ hội, tín ngưỡng dân 13 gian, anh hùng dân tộc, nhân thần có công dựng nước và giữ nước, loại hình nghệ thuật trình diễn như vũ điệu, âm nhạc, hò vè, sân chơi cổ truyền, đờn ca tài tử…; các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc như chủ nghĩa yêu nước, truyền thống nhân đạo, ý thức cộng đồng, tinh thần khoan dung, đề cao nghĩa tình, đạo lý, lạc quan, yêu đời. Đó là các giá trị về đạo đức, pháp lý và thẩm mỹ của dân tộc như lương tâm, phẩm giá, danh dự, trách nhiệm…Với đề tài này thì đời sống văn hóa tinh thần (những phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, các loại hình nghệ thuật…) được thể hiện thông qua các di vật, tức là thông qua đời sống vật chất. Như vậy, đời sống văn hóa mà chúng ta hiểu ở đây là một lát cắt trong đời sống chung của xã hội. Nó là tổng hoà của những yếu tố đời sống vật chất và đời sống tinh thần do con người sáng tạo ra. 1.2. Điều kiện hình thành văn hóa Óc Eo 1.2.1. Điều kiện tự nhiên Vùng ĐBSCL ngày nay là địa phận của 13 tỉnh, thành phố gồm: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau, với diện tích tự nhiên khoảng 40.604 km2. Phía Đông Bắc giáp vùng Đông Nam Bộ, Tây Bắc giáp Campuchia, Tây Nam giáp vịnh Thái Lan, Đông Nam giáp Biển Đông. Được xác định từ vĩ độ 8030’ Bắc - 10040’ Bắc và kinh độ 104026’ Đông - 106040’ Đông. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo, có nền nhiệt độ cao và ổn định. Nhiệt độ trung bình phổ biến khoảng từ 25 - 280C. Một năm chia làm hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Vùng TNB có hai con sông lớn chảy qua: sông Tiền (ở phía Bắc) và sông Hậu (ở phía Nam) là hạ lưu của hệ thống sông Mê Kông bắt nguồn từ Tây Trạng (Trung Quốc). Sông Tiền nhận 2/3 lưu lượng nước của sông Mê Kông, từ biên giới Campuchia đến cửa sông dài khoảng 200 km, chạy qua các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre. Đến Cai Lậy (Tiền Giang), sông Tiền chia làm bốn con sông đổ ra biển bằng 6 cửa: sông Mỹ Tho (Cửa Đại, Cửa Tiểu); sông Cổ Chiên (cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu); sông Hàm Luông (cửa Hàm Luông) và sông Ba Lai (cửa Ba Lai). 14 Sông Hậu chảy qua An Giang (Châu Đốc, Long Xuyên), đến Cần Thơ chia thành nhiều nhánh làm ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh Đồng Tháp và Cần Thơ, Vĩnh Long và Cần Thơ, Hậu Giang và Vĩnh Long, Trà Vinh và Sóc Trăng rồi hội nhập lại, cuối cùng đổ ra biển Đông bằng cửa Ba Thắc (bị bồi lấp vào khoảng những năm 70 của thế kỷ XIX), cửa Định An và cửa Tranh Đề. Ngoài ra, còn có một số sông như: sông Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây; sông Sở Thượng, sông Sở Hạ; sông Giang Thành; sông Châu Đốc; sông Cái Lớn, sông Cái Bé... và một hệ thống kênh đào chằng chịt thuận tiện cho việc đi lại và sản xuất nông nghiệp của cư dân nơi đây. TNB là sản phẩm bồi lắng phù sa của sông Mê Kông và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển. Qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo ven sông lẫn một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên - Hà Tiên, Tây Nam sông Hậu và bán đảo Cà Mau. Địa hình khá bằng phẳng với đa phần diện tích có cao độ nằm khoảng 0,5 - 1,5m, thấp dần theo hướng Bắc - Nam và Tây - Đông. Dựa theo đặc tính về địa hình, TNB có thể được chia thành hai vùng chính. Đó là vùng cửa sông, ven biển và vùng ngập lũ: Vùng cửa sông, ven biển có địa hình khá bằng phẳng và thấp. Khu vực có địa hình cao hơn là do quá trình hình thành các giồng cát ở cửa sông (Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng…), có độ cao từ 0,75 - 1,81m so với mực nước biển; khu vực có địa hình thấp hơn bởi quá trình bồi lắng trầm tích phù sa (khu vực Bán đảo Cà Mau, ven vịnh Thái Lan), có độ cao từ 0,25 - 0,50m so với mực nước biển. Vùng ngập lũ nằm phía Bắc và Tây Bắc TNB, chủ yếu thuộc các tỉnh Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, An Giang và Kiên Giang. Các khu vực dọc sông Hậu và sông Tiền có địa hình tương đối cao hơn (1 - 3m) do quá trình bồi đắp phù sa. Dựa vào phân vùng sinh thái đất nông nghiệp, vùng ngập lũ TNB có thể chia thành 4 tiểu vùng chính: Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên, khu vực Tây sông Hậu và khu vực giữa sông Tiền - sông Hậu [5, tr.3-4]. 15 Quá trình hình thành và biến đổi của vùng TNB cùng với những đặc điểm về môi trường sinh thái là một trong những yếu tố rất cần thiết để hiểu hơn về sự phân bố và cuộc sống của các cộng đồng cư dân vùng này qua các thời kỳ lịch sử. Theo các nhà địa chất, quá trình hình thành vùng đất TNB diễn ra trong thời gian khá dài và phức tạp, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: quá trình biển tiến, biển thoái, vận động của vỏ trái đất qua hàng trăm triệu năm, các hoạt động bào mòn và tích tụ… đã tạo nên những vùng sụt lún như vùng Đồng Tháp Mười hay vùng trồi lên cao như dãy Bảy Núi (An Giang), đảo Phú Quốc (Kiên Giang)… Trong đó, các đợt biển tiến, biển thoái có tác động mạnh mẽ nhất đến sự hình thành vùng đất Nam Bộ [PL1.2, tr.190]. Đợt biển tiến đầu tiên cách nay khoảng 11.000 đến 6.000 năm thì đạt đến mức cực đại, cao hơn mực nước biển hiện tại 4 - 5m. Thời điểm đó, toàn vùng TNB ngày nay tràn ngập nước mặn, trở thành vịnh biển nông rộng lớn. Những ngọn đồi, quả núi trong vùng Bảy Núi (An Giang), Hà Tiên (Kiên Giang) đều trở thành những hòn đảo nhấp nhô trong vịnh biển. Giai đoạn biển tiến này đã phân hoá đồng bằng thành nhiều vùng có đặc điểm khác nhau: biển nông, biển nông ven bờ, đầm lầy ven biển… Tại các vùng biển nông ven bờ động vật thân mềm, da gai, san hô phát triển rất phong phú... Đặc biệt, thời kỳ này hình thành và phát triển phong phú thực vật nhiệt đới, tạo điều kiện cho sự hình thành các vùng chứa than bùn rộng lớn ở thời kỳ tiếp theo [27, tr.18; 30, tr.16]… Sau khi biển tiến đạt đến cực đại (+4 đến +5m), thì bắt đầu rút liên tục khỏi đồng bằng (khoảng 1.600 năm) và dừng ở mực cao +2m (trong vòng 700 năm). Quá trình mực nước biển rút và sự bồi lắng của phù sa mới từ hệ thống sông Mê Kông, miền TNB bắt đầu xuất lộ, hình thành nên các thềm phù sa ở độ cao +3, +2m lấn ra phía biển [27, tr.18]. Quá trình này được thể hiện khá rõ trên các giồng cát từ Cai Lậy trở xuống phía nam (có tuổi C14 khoảng 4.000 - 4.500 năm). Các giồng cát này có hướng song song với đường bờ hiện tại. Khi mực nước biển rút đã để lại các vùng đầm lầy rộng lớn thuận lợi cho sự phát triển của thực vật tạo than... [34, tr.16-17]. Sau đó, nước biển tiếp tục hạ thấp với tốc độ nhanh hơn (khoảng 250 năm), đây được xem là đợt biển thoái đầu tiên. Từ năm 1650 - 1400 TCN (3650 - 3400 16 năm cách nay), mực nước biển từ độ cao khoảng +2m đã hạ thấp dưới mực nước biển hiện nay. Khi mực nước biển hạ thấp đến độ cao 1,5 - 1m thì cửa biển Châu Đốc, sông Mê Kông tách chia hai nhánh, đồng thời chuyển dòng chảy theo Tây Bắc - Đông Nam. Hai dòng chảy này về sau trở thành hai con sông chính ảnh hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển chung diện mạo của toàn vùng TNB… Tuy nhiên, phải tiếp tục trải qua quá trình trên dưới ngàn năm, sau đợt biển tiến, biển thoái thứ hai, vào khoảng TCN, bề mặt vùng TNB mới thực sự hiện rõ nét [27, tr.19]. Đợt biển thoái thứ ba kéo dài khoảng 500 năm đầu Công nguyên (từ năm 50 TCN đến năm 500 SCN) có thể được xem là thời điểm mở đầu một thời kỳ mới trong quá trình hình thành vùng TNB ngày nay. Thời điểm đó, mực nước biển từ độ cao +0,4m (50 năm TCN) hạ thấp dần dưới mực nước biển hiện tại là -0,8m, vùng TNB theo đó lại được mở rộng thêm về phía Đông nhờ nước biển rút dần. Phù sa của các dòng chảy ngày càng bồi tụ mạnh về phía biển. Tiếp đến, từ khoảng giữa thế kỷ VI, lại bắt đầu đợt biển tiến mới kéo dài đến 800 năm (từ khoảng năm 550 đến khoảng năm 1150 SCN), với mực nước biển dâng cao trung bình +0,8m. Nước mặn đã tràn ngập các vùng đất thấp ven biển, có thể xâm nhập sâu vào những vùng trũng không có hệ thống giồng cát che chắn (vùng rừng U Minh, Tứ Giác Long Xuyên). Ngoài ra, nước mặn còn theo các sông rạch, lan toả vào các vùng trũng trong lòng châu thổ (vùng Đồng Tháp Mười). Sự xâm nhập của nước biển đã ảnh hưởng đến cảnh quan tự nhiên, môi trường sinh thái tại những địa bàn thấp trũng của châu thổ. Đến giữa thế kỷ XII về sau, mực nước biển dần hạ thấp rồi dừng lại ở mức hiện tại. Vùng TNB bước vào thời kỳ phát triển mới theo chiều hướng không ngừng mở rộng, phù hợp với quy luật tự nhiên của nó [27, tr.20-21]. Theo thư tịch cổ: Khang Thái và Chu Ứng là quan triều đình nhà Ngô thời Tam Quốc (230 - 280) được cử đi sứ đến nước Phù Nam. Khi về nước, hai vị quan này viết một vài quyển sách nói về chuyến đi của mình đến đất nước Phù Nam như: Phù Nam ký, Phù Nam thổ tục, Phù Nam thổ tục truyện, Phù Nam dị vật chí. Tuy nhiên, các sách này đều đã thất lạc, chỉ còn biết đến qua các trích dẫn trong một số thư tịch cổ được ghi chép từ thế kỷ V - VI SCN như: Lương Thư, Nam Tề Thư, Tuỳ Thư, Đường Thư... Những nội dung này đã cho chúng ta những hình dung về địa 17 hình, thiên nhiên và môi trường sinh thái vùng TNB thời bấy giờ (tương đương với thời kỳ biển thoái kéo dài khoảng 800 năm SCN). Theo Nam Tề Thư: Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong vịnh lớn phía Tây biển lớn, diện tích rộng hơn 3.000 dặm, nước ấy có một con sông lớn chảy theo hướng tây ra biển [120, tr.268]. Theo Lương thư: Nước phù Nam cách Nhật Nam khoảng 7.000 dặm, ở phía Tây Lâm Ấp, cách nước ấy 3.000 dặm. Kinh thành cách biển 500 dặm. Trong nước có con sông lớn, rộng 10 dặm, chảy theo hướng Tây Bắc sang phía Đông đổ ra biển. Diện tích cả nước rộng hơn 3.000 dặm. Đất đai nước ấy thấp và bằng phẳng. Khí hậu và phong tục giống như Lâm Ấp [120, tr.273]. Sách Tam Tạng kinh - Cao Tăng truyện còn có đoạn bổ sung “Phù Nam là cửa biển có ngàn con sông” [27, tr.23]. Dựa vào những mô tả khái quát về nước Phù Nam qua các ghi chép của thư tịch cổ Trung Quốc, đa số các nhà khoa học đều có chung nhận định: vị trí của nước Phù Nam nằm ở phía Nam Đông Dương, phía Nam quận Nhật Nam (một phần đất phía Nam Việt Nam xưa) và Lâm Ấp (Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay). Trong đó, vịnh lớn phía Tây biển lớn là vịnh Thái Lan; con sông lớn, rộng 10 dặm chảy theo hướng Tây đổ ra biển (hoặc chảy theo hướng Tây Bắc sang phía Đông rồi đổ ra biển) tương ứng với phần hạ lưu sông Mê Kông, với đất đai thấp, trũng và bằng phẳng. Có thể suy đoán đây là vùng TNB ngày nay. Từ đó có thể cho rằng, vào khoảng thế kỷ V - VI vùng TNB đã hình thành, với đồng bằng rộng lớn (có phần trũng thấp). Bên cạnh đó, theo thư tịch cổ, kinh thành cách biển 500 dặm (trên 200 km), chứng tỏ là vùng đất được con người khai phá với quy mô khá rộng lớn. Đến thời kỳ tiếp theo, vùng đất này được xem là vùng đất của Thuỷ Chân Lạp, Tuỳ thư mô tả nước này có bờ biển bao quanh và có nhiều hồ lớn. Tân Đường thư khi viết về Thuỷ Chân Lạp thì viết là vùng đầm lầy rộng lớn. Theo mô tả như trên vào khoảng thế kỷ VII - IX, vùng đồng bằng châu thổ rộng lớn từ bằng phẳng, mênh mông, nhiều sông ngòi đã bị biến thành nhiều hồ lớn, vùng đầm lầy rộng [27, tr.23-24]. Sự biến động này có thể liên quan trực tiếp đến đợt biển tiến thứ tư dâng cao đến +1m diễn ra cùng thời.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan