Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam hiện hành...

Tài liệu đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam hiện hành

.PDF
110
288
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ TUYÊT ĐƢƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG THỊ TUYẾT ĐƢƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60380103 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Triều Dƣơng Hà nội – 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Hoàng Thị Tuyết DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BPKCTT Biện pháp khẩn cấp tạm thời BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự HĐTP Hội đồng Thẩm phán HĐXX Hội đồng xét xử NQ Nghị quyết PLTTGQCTCLĐ Pháp lệnh giải quyết các tranh chấp lao động PLTTGQCVADS Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự PLTTGQCVAKT Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế QHHN Quan hệ hôn nhân QHPL Quan hệ pháp luật TA Tòa án TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TATC Tòa án tối cáo TCDS Tranh chấp dân sự TTDS Tố tụng dân sự VADS Vụ án dân sự VDS Việc dân sự VKS Viện kiểm sát VVDS Vụ việc dân sự MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................1 2. Nội dung, địa điểm nghiên cứu ............................................................................2 3. Dự kiến kết quả .....................................................................................................4 4. Kết cấu luận văn ....................................................................................................4 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..................................................................................................6 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...............................................................................................................................6 1.1.1. Khái niệm đƣơng sự trong tố tụng dân sự ....................................................6 1.1.2. Đặc điểm của đƣơng sự trong tố tụng dân sự ..............................................11 1.2. VAI TRÒ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ.........................13 1.3. CƠ SỞ CỦA VIỆC XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN, TƢ CÁCH TỐ TỤNG CỦA ĐƢƠNG SỰ....................................................................................................15 1.3.1 Cơ sở lý luận ...................................................................................................15 1.3.2 Cơ sở thực tiễn ................................................................................................17 1.4. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG MỘT SỐ NƢỚC VỀ ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ..........................................................................18 1.4.1. Quy định về đƣơng sự trong pháp luật một số nƣớc thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil law) .............................................................................19 1.4.2. Quy định về đƣơng sự trong pháp luật một số nƣớc thuộc hệ thống pháp luật án lệ (Common Law)……………………………………………………………...22 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................26 Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ...................................................28 2.1. QUY ĐỊNH VỀ THÀNH PHẦN, TƢ CÁCH CỦA ĐƢƠNG SỰ ................28 2.1.1. Quy định về thành phần của đƣơng sự .......................................................28 2.1.2. Quy định về tƣ cách của đƣơng sự ..............................................................29 2.2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ NĂNG LỰC CHỦ THỂ VÀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA ĐƢƠNG SỰ .............................................................................................................36 2.2.1. Năng lực chủ thể ............................................................................................36 2.2.2 Địa vị pháp lý...................................................................................................41 2.2.3. Các yếu tố bảo đảm việc tham gia tố tụng của đƣơng sự trong tố tụng dân ...........................................................................................................................44 2.3. QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ .......................................................................................................46 2.3.1. Quyền tự định đoạt của đƣơng sự ...............................................................46 2.3.2. Các quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự trong hoạt động cung cấp chứng cứ, chứng minh ..............................................................................................................62 2.3.3. Các quyền, nghĩa vụ khác của đƣơng sự.....................................................68 2.4. VIỆC KẾ THỪA QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TỐ TỤNG CỦA ĐƢƠNG SỰ .. 755 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ......................................................................................766 Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐƢƠNG SỰ TẠI TÒA ÁN TỈNH LẠNG SƠN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ .....78 3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐƢƠNG SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN ....................................................78 3.1.1. Những kết quả đạt đƣợc ...............................................................................78 3.1.2. Những tồn tại, hạn chế ..................................................................................80 3.1.3. Nguyên nhân ................................................................................................866 3.2. KIẾN NGHỊ ....................................................................................................899 3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đƣơng sự ..............................................90 3.2.2. Kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện các quy định về đƣơng sự trong tố tụng dân sự ........................................................................................................................92 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ......................................................................................933 KẾT LUẬN ............................................................................................................955 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................998 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đương sự là một chủ thể đặc biệt quan trong trong tố tụng dân sự. Đương sự có mối quan hệ chặt chẽ với Tòa án và là trung tâm của hoạt động tố tụng. Có thể khẳng định rằng không có đương sự thì không có vụ việc dân sự. Trong vụ việc dân sự đương sự là chủ thể quan trọng nhất, nếu thiếu chủ thể này thì vụ án dân sự không thể phát sinh. Việc ban hành Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004 và được sửa đổi bổ sung năm 2011 thay thế cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế năm 1994, Phap lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996 là một bước tiến quan trọng đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống các quy định về thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy phạm quy định khá rõ ràng và toàn diện về đương sự. Điều này có ý nghĩa quan trọng của việc xác định thành phần, tư cách đương sự trong vụ việc dân sự, góp phần vào việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ và đây cũng là cơ sở quan trọng cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự được chính xác, khách quan. Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự tại địa phương vẫn còn tồn tại trong việc xác định tư cách của đương sự, việc hiểu các quy định của pháp luật về vấn đề này đôi khi không đúng đã dẫn đến quá trình xét xử tại Tòa án còn nhiều hạn chế, sai sót. Kết quả giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án chưa cao, vẫn còn nhiều trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới bị cấp trên sửa, hủy. Các vụ việc dân sự phải giải quyết lại nhiều lần làm lãng phí về thời gian, tiền bạc, gây khó khăn cho đương sự trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Do đó, để góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự tôi đã lựa chọn đề tài: “Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá toàn diện các Bộ luật, luật, văn bản quy phạm pháp luật trong nước quy định về đương sự và việc xác định tư cách của đương sự. Thông qua thực tiễn xét xử tại địa phương đưa ra một số phương hướng đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của 1 pháp luật về đương sự và việc xác định tư cách của đương sự và giải pháp để thực thi một cách hiệu quả các quy định của pháp luật trong thực tiễn. 1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ khi có BLTTDS 2004 và BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu đầy đủ và chi tiết về đương sự trong TTDS. Việc nghiên cứu, tìm hiểu đương sự trong TTDS có thể kể đến như: “Quyền khởi kiện với vấn đề xác định tư cách của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Lê Nguyễn Hồng Phúc ; “Một số vấn đề của pháp luật tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng” của tác giả Lê Thị Thu Hà trên quyển Bình luận khoa học năm 2006; Bài viết “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong BLTTDS” của tác giả Nguyễn Thái Phúc đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10 năm 2005; Bài viết “Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng” của tác giả Trần Anh Tuấn trên Tạp chí TAND, số 23 tháng 12 năm 2008; Luận án tiến sỹ luật học năm 2006 với đề tài “Bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự trong TTDS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Công Bình (bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội). Bài báo “Đương sự trong vụ án dân sự” của Ths Nguyễn Việt Cường – Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bài viết “Việc xác định tư cách đương sự trong việc giải quyết các vụ việc dân sự” của tác giả Thành Nhân – Tạp chí Tòa án nhân dân. 1.3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 1.3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu, đánh giá dựa trên quá trình xét xử thực tế tại địa phương. Làm rõ tầm quan trọng của việc xác định đúng đương sự và tư cách của đương sự trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Đưa ra những yếu tố còn bất cập, qua đó đề xuất về mặt lý luận để góp phần hoàn thiện các quy định về đương sự trong pháp luật nước ta hiện nay. 1.3.2. Nhiệm vụ cụ thể Nhiệm vụ cụ thể của đề tài này là phân tích về mặt lý luận, đối chiếu với những kết quả thực tiễn tại địa phương để thấy rõ hơn bản chất khoa học, một số bất cập còn tồn tại và đề xuất hướng hoàn thiện các quy định về đương sự trong vụ án dân sự từ đó nâng cao nhận thức về các quy định của pháp luật. Từ việc nhận 2 thức chính xác các quy định của pháp luật việc áp dụng giải quyết các vụ án dân sự sẽ nhanh chóng, có chất lượng cao, nhằm hạn chế các trường hợp hủy, sửa do lỗi xác định không đúng tư cách của đương sự trong vụ án dân sự. 1.4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của để tài như đã dẫn giải trên đây sẽ tập trung vào việc thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về đương sự trong các vụ việc dân sự tại tỉnh Lạng Sơn thời gian qua. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đương sự theo pháp luật TTDS hiện hành là một đề tài đề cập đến các khía cạnh khác nhau về đương sự trong vụ án dân sự và đương sự trong việc dân sự. Tuy nhiên, để nghiên cứu chuyên sâu nên tác giả chỉ giới hạn tập trung vào nghiên cứu các vấn đề khác nhau về đương sự trong vụ án dân sự cụ thể trên phạm vi tỉnh Lạng Sơn để đánh giá, phân tích và đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật. 1.5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng, trong đó vận dụng quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử khi xem xét, đáng giá từng vấn đề cụ thể. Đồng thời, đề tài cũng dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về các vấn đề có liên quan. Ngoài ra, để đảm bảo tính khách quan và thực tế, đề tài đã sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp dựa trên các vụ án dân sự trên địa bàn nghiên cứu. Trên cơ sở các số liệu gốc và số liệu liên quan, cùng các văn bản luật và các văn bản quy phạm pháp luật, có khảo sát, đối chiếu và kết luận việc thực thi. 2. Nội dung, địa điểm nghiên cứu 2.1. Nội dung nghiên cứu - Nghiên cứu các lý luận, các quy định của pháp luật về đương sự và việc xác định tư cách của đương sự. - Nghiên cứu các lý luận, các quy định của pháp luật đối với đương sự và việc xác định tư cách của đương sự. - Qua các vụ án dân sự trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn nghiên cứu các lý luận, các quy định của pháp luật về đương sự và việc xác định tư cách của đương sự 3 trong vụ án dân sự. Từ kết quả thu được trên thực tiễn so sánh đối chiếu tìm ra những hạn chế bất cập và đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật. 2.2. Địa điểm nghiên cứu Địa điểm nghiên cứu chính của đề tài là địa bàn tỉnh Lạng Sơn, có tham khảo một số tỉnh, thành phố khác ... Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc, có đường biên giới giáp với Trung Quốc, địa hình chủ yếu là đồi núi, có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Là tỉnh miền núi nên tại một số khu vực vùng sâu xa điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu thốn, đi lại khó khăn, trình độ dân trí chưa cao, hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế. Vì vậy kết quả của việc nghiên cứu đề tài sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 3. Dự kiến kết quả - Phân tích đánh giá và tổng hợp được các quy định của pháp luật hiện hành tại Việt Nam về đương sự, đề xuất xây dựng quan điểm thống nhất về đương sự cho phù hợp với tình hình. - Áp dụng lý luận và các quy định của pháp luật cùng với các phân tích đánh giá sẽ đề xuất phương án thực thi các quy định của pháp luật về đương sự và việc xác định tư cách của đương sự. 4. Kết cấu luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đương sự trong vụ án dân sự Trong chương này làm rõ khái niệm của đương sự trong tố tụng dân sự nội hàm của khái niệm. Đặc điểm của đương sự trong tố tụng dân sự, vai trò của đương sự và cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn của việc xác định thành phần, tư cách tố tụng của đương sự... Trong chương này cũng đã phân tích pháp luật của một số nước quy định về đương sự trong tố tụng dân sự Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về đương sự trong tố tụng dân sự Trong chương đã đưa ra các quy định về thành phần và tư cách của đương sự. Các quy định về năng lực chủ thể của đương sự. Quy định về quyền, nghĩa vụ và 4 việc kế thừa quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự. Đánh giá những thành tựu và hạn chế của pháp luật Việt Nam trong những quy định này Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đương sự ở Tòa án tại tỉnh Lạng Sơn và một số kiến nghị. Trong chương này, tác giả tập trung phân tích quan điểm, phương hướng của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề hoàn thiện khuôn khổ pháp luật. Đã đưa ra những quy định của pháp luật và việc áp dụng giải quyết các vụ án dân sự. Qua những vụ án cụ thể tại địa phương đề xuất một số khuyến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật. 5 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm đƣơng sự trong tố tụng dân sự Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự thông thường là các chủ thể độc lập trong một hoặc nhiều quan hệ đang được xem xét, giải quyết trong vụ việc hoặc quan hệ phát sinh từ việc xem xét, giải quyết vụ việc đó. Do đó, muốn xác định được đầy đủ đương sự trong vụ việc thì cần phải xác định được những mối quan hệ phải được giải quyết trong vụ việc đó và những mối quan hệ có liên quan đến việc giải quyết vụ việc. Một vụ việc mà có nhiều mối quan hệ đan xen của nhiều chủ thể thì vụ việc đó có thể có nhiều đương sự tham gia và ngược lại trong vụ việc đó chỉ phải giải quyết một mối quan hệ giữa hai chủ thể thì chỉ hai bên chủ thể đó được xác định là đương sự. Ngoài ra, đương sự trong tố tụng dân sự phải là những chủ thể có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp với việc xem xét, giải quyết vụ việc đó. Vì vậy, để xác định được đầy đủ những ai là đương sự, trước hết cần xác định rõ bản chất của vụ việc mới có thể xác định được ai là chủ thể có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp với việc giải quyết vụ việc đó. Tùy thuộc vào từng vụ việc mà thành phần các chủ thể được xác định là đương sự sẽ khác nhau: có những vụ việc mà việc giải quyết vụ việc này có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhiều chủ thể, tuy nhiên có vụ việc thì việc giải quyết chỉ liên quan trực tiếp đến quyền lợi của hai bên chủ thể. Thông thường đương sự có quyền, lợi ích được giải quyết ngay trong vụ việc đó. Tuy nhiên, đương sự cũng còn bao gồm cả những người mà quyền và lợi ích không được giải quyết ngay trong vụ việc nhưng kết quả giải quyết vụ việc này có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của họ. Vì vậy, họ cũng phải được tham gia vào việc giải quyết vụ việc. 6 Như vậy, có thể hiểu rằng, theo nghĩa rộng thì đương sự trong một vụ việc là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc vì có quyền, lợi ích liên quan đến việc giải quyết vụ việc. Theo quan niệm của các nhà luật học đương sự trong TTDS là gì ? Trong Từ điển Luật học được xuất bản năm 1999 thì “đương sự là người có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong một khiếu nại hoặc một vụ án”[38]. Ngoài ra, theo cuốn Từ điển Luật học của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) thì đương sự được giải thích như sau: “Cá nhân, pháp nhân tham gia TTDS với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn, hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự là một trong các nhóm người tham gia TTDS tại TAND trong các vụ kiện về dân sự, kinh doanh, thương mại, hôn nhân gia đình và lao động. Những người tham gia TTDS đó bao gồm đương sự, người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung, VKS, người làm chứng, người phiên dịch” [41]. Qua đó, có thể thấy các nhà luật học đều có một quan niệm chung, đương sự là những người tham gia vào quá trình giải quyết VADS vì có quyền, nghĩa vụ được giải quyết trong VADS, bao gồm bên nguyên đơn, bên bị đơn. Tuy nhiên, các nhà luật học chưa đưa ra một khái niệm toàn diện về đương sự trong TTDS. Vì vậy, để có thể xây dựng được khái niệm đương sự trong TTDS thì trước hết chúng ta cần phải làm rõ TTDS là gì ? Những chủ thể nào có thể được xác định là đương sự ? Theo từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh [11]: "tố tụng" là việc thưa kiện (procès), "tố tụng pháp lý" là việc pháp luật quy định những thủ tục về cách tố tụng (code deprocédure)" Sách Tiếng nói nôm na của Lê Gia [26], dẫn giải 30.000 từ tiếng Việt thường dùng có liên quan đến từ Hán Việt (NXB Văn Nghệ TP HCM, 1999) giải thích chi tiết hơn: "Tố tụng" là vạch tội và đưa ra cửa công để phân giải phải trái do chữ "tố" là vạch tội; chữ "tụng" là thưa kiện ở cửa công để xin phân phải trái". Hiểu một cách đơn giản: "Tố tụng" là việc thưa kiện ở tòa án hay được hiểu là “việc kiện cáo trước toà án” [26]. Vì vậy, TTDS được hiểu là những việc kiện 7 cáo nhau ra TA về các quan hệ dân sự và yêu cầu TA giải quyết. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, khái niệm “tố tụng dân sự” cũng có nhiều cách hiểu khác nhau, tuỳ theo mô hình tố tụng và pháp luật của mỗi quốc gia thuộc mỗi hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới [11]. Trước khi có BLTTDS việc giải quyết các tranh chấp ở TA theo các thủ tục tố tụng khác nhau và được quy định trong các văn bản khác nhau. Việc giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình theo thủ tục giải quyết các VADS được quy định trong PLTTGQCVADS 1989 [14], giải quyết các tranh chấp kinh tế theo thủ tục giải quyết các VA kinh tế được quy định trong PLTTGQCVAKT 1994 [42], giải quyết các tranh chấp lao động theo thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động được quy định trong PLTTGQCTCLĐ 1996 [43]. Sở dĩ các loại tranh chấp này được giải quyết ở các thủ tục khác nhau vì trong hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này không phân chia hệ thống pháp luật thành hệ thống luật công và hệ thống luật tư như các nước theo hệ thống luật dân sự. Mỗi ngành luật được hiểu là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật. Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Kinh tế, Luật Lao động được xác định là các ngành luật độc lập và mỗi ngành luật này lại điều chỉnh một nhóm các quan hệ xã hội riêng biệt. Luật Dân sự và các ngành luật khác như Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Kinh tế, Luật Lao động (các ngành luật nội dung) là các ngành luật có vị trí ngang nhau trong hệ thống pháp luật. Vì vậy, hệ thống luật tố tụng (luật hình thức) cũng có sự tách biệt để giải quyết các loại tranh chấp trong từng ngành luật nội dung và TTDS chỉ là thủ tục giải quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, BLDS 2005 [8] ra đời đã đánh dấu một sự thay đổi rất lớn về vị trí của Luật Dân sự. Luật Dân sự được coi như là “luật gốc” trong hệ thống luật tư [11]. Các ngành luật thuộc hệ thống luật tư như Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Thương mại, Luật Lao động v.v... đã có sự thống nhất. Do vậy, TTDS, tố tụng kinh tế, tố tụng lao động đã có sự tương đồng. BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 [31] đã thống nhất các trình tự tố tụng để giải quyết các tranh chấp, yêu cầu thuộc lĩnh vực tư giống như pháp luật tố tụng của các nước trong hệ thống luật dân sự. Như vậy, với quan niệm này, đương sự trong TTDS là người tham gia vào quá trình TA giải 8 quyết các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Ngoài ra, pháp luật TTDS không chỉ điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết VVDS mà còn điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình THADS. Tuy nhiên, trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến đương sự trong quá trình TA giải quyết VVDS. Vì vậy, chúng tôi không bình luận và đánh giá về vấn đề này. Việc phân loại các đối tượng được giải quyết theo thủ tục TTDS cũng có những quan niệm rất khác nhau và từ đó dẫn đến những quan niệm khác nhau về đương sự trong TTDS. Trước khi có BLTTDS, nhiều nhà khoa học pháp lý Việt Nam cho rằng đối tượng được giải quyết theo thủ tục TTDS cũng chỉ là các VADS, trong đó TA giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình và cả các yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình [31]. Vì vậy, quan niệm thành phần đương sự trong VADS bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người dự sự (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập) [31]. Tại Điều 1 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011 đã quy định đối tượng giải quyết theo thủ tục TTDS các VVDS, VVDS bao gồm: VADS và VDS. VADS là VVDS mà trong đó TA giải quyết các loại tranh chấp còn VDS là VVDS mà trong đó TA không giải quyết các tranh chấp mà TA giải quyết yêu cầu công nhận hoặc không công nhận về một sự kiện pháp lý làm căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động hoặc TA giải quyết yêu cầu công nhận quyền dân sự, hôn nhân & gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Vì vậy, với cách phân loại đối tượng này, đương sự trong TTDS của Việt Nam được xác định bao gồm cả đương sự trong VADS và đương sự trong VDS. Nhưng chủ thể được xác định là đương sự trong TTDS thì trước hết phải là chủ thể của các QHPL dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (gọi chung là các QHPL nội dung). Chủ thể của QHPL nội dung là cá nhân, pháp nhân và các tổ chức khác là những thực thể pháp lý nhưng không có tư cách pháp nhân vẫn có thể trở thành chủ thể của QHPL như hộ gia đình, tổ hợp tác v.v...Vì vậy, đương sự trong TTDS có thể là cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác 9 tham gia vào quá trình TA giải quyết các VVDS. Tuy nhiên, không phải mọi chủ thể của QHPL nội dung đều có thể trở thành đương sự trong các quan hệ TTDS. Bởi vì, như nhận xét của một số nhà nghiên cứu: “Xét cho cùng, lợi ích chính là những phương thức, phương tiện tối ưu mà chủ thể lựa chọn nhằm đạt được các nhu cầu của mình, vì chủ thể giành lấy và sử dụng chúng tạo ra những điều kiện tốt nhất để trực tiếp thực hiện các nhu cầu cấp bách của bản thân” [21] hay “Quyền dân sự và chính trị không đơn thuần chỉ mang tính chất quyền cá nhân, chỉ bảo đảm mục đích cá nhân, mà còn có vai trò to lớn trong việc phục vụ mục đích toàn xã hội, vì sự tiến bộ và phát triển chung” [21]. Đồng thời, lợi ích cũng lại là nguyên nhân, nguồn gốc của các tranh chấp giữa các quốc gia, các dân tộc, các cá nhân, các tổ chức và các chủ thể khác trong các quan hệ xã hội hay các QHPL. Khi mà các chủ thể trong các QHPL nội dung tôn trọng lợi ích của nhau, thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ pháp lý với nhau thì sẽ không dẫn đến việc khởi kiện, yêu cầu đến TA và không có hoạt động tố tụng giải quyết thì các chủ thể của các quan hệ pháp luật nội dung này không trở thành là đương sự trong TTDS. Nhưng khi chủ thể của các QHPL nội dung này không tôn trọng lợi ích của nhau hoặc vi phạm, tranh chấp với nhau về quyền, nghĩa vụ dẫn đến việc khởi kiện, yêu cầu TA giải quyết và TA thụ lý giải quyết theo thủ tục TTDS thì các chủ thể của của các QHPL nội dung trở thành đương sự trong TTDS vì có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết các VVDS. Quá trình giải quyết VVDS nảy sinh nhiều QHPL giữa các chủ thể: TA, VKS, những người tham gia tố tụng và những người liên quan. Các chủ thể này tham gia vào QHPL TTDS với những động cơ và mục đích khác nhau. TA, VKS tham gia để thực hiện quyền tư pháp về dân sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác còn đương sự là chủ thể tham gia tố tụng là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình. Tóm lại, đương sự trong tố tụng dân sự là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác có quyền, lợi ích tranh chấp hoặc cần phải xác định tham gia vào quá trình TA giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 10 1.1.2. Đặc điểm của đƣơng sự trong tố tụng dân sự Đương sự trong TTDS là người tham gia TTDS. Do vậy, đương sự có đầy đủ các đặc điểm của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên, mục đích đương sự tham gia tố tụng là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình, những người tham gia tố tụng khác tham gia để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc để hỗ trợ cho hoạt động tố tụng. Vì vậy, so với những người tham gia tố tụng khác, đương sự còn có những đặc điểm khác biệt sau đây: - Đương sự là chủ thể của QHPL nội dung có quyền, lợi ích tranh chấp, bị xâm phạm hoặc cần được xác định trong VVDS; Trước khi trở thành đương sự trong TTDS, các chủ thể đã tham gia vào một QHPL nội dung như quan hệ dân sự, quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hệ kinh doanh thương mại, quan hệ lao động, họ đều có quyền, lợi ích gắn liền với các quan hệ đó. Lợi ích của các chủ thể có thể là lợi ích vật chất phát sinh từ tài sản hoặc là các lợi ích tinh thần phát sinh từ các giá trị nhân thân như danh dự, uy tín, nhân phẩm v.v... Khi có tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ các quan hệ nội dung, các chủ thể tham gia vì để bảo vệ quyền, lợi ích của mình đã đưa ra các yêu cầu thông qua việc khởi kiện hoặc nộp đơn yêu cầu TA giải quyết. Đương sự muốn khởi kiện hoặc yêu cầu thì trước hết họ phải chứng minh rằng họ có quyền, lợi ích cần được giải quyết trong vụ việc đó. Vì vậy, về nguyên tắc, cá nhân, tổ chức để trở thành đương sự của VVDS thì phải có quyền và lợi ích liên quan đến giải quyết VVDS. - Đương sự là chủ thể được TA chấp nhận tham gia vào quá trình giải quyết VVDS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; Đương sự có thể mong muốn tham gia hoặc buộc phải tham gia vào hoạt động tố tụng do việc "khởi động” vụ việc của nguyên đơn hoặc người yêu cầu và được TA thụ lý giải quyết. Tuy nhiên, các đương sự khi tham gia vào quá trình tố tụng trước hết là để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì để bảo vệ lợi ích của mình đương sự đưa ra yêu cầu, nêu ra các ý kiến đồng thời cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình là hợp pháp và có căn cứ với mong muốn để TA giải quyết bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết các VVDS. Các lợi ích mà đương sự hướng tới trong quá trình giải quyết 11 VVDS có thể là lợi ích cá nhân, cũng có thể là lợi ích của pháp nhân hoặc lợi ích của những chủ thể đặc biệt không có tư cách pháp nhân như của hộ gia đình, tổ hợp tác hay doanh nghiệp tư nhân. Đối với các cá nhân, tổ chức hay các chủ thể khác mà khởi kiện hoặc yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì người khởi kiện, người yêu cầu tham gia với tư cách là đại diện của đương sự, còn đương sự là chủ thể được bảo vệ quyền lợi. Trong một số trường hợp đặc biệt, các chủ thể là cơ quan Nhà nước, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng thì các chủ thể này có thể tham gia tố tụng và có các quyền, nghĩa vụ như của đương sự nhưng không phải là đương sự. Bởi vì, các cơ quan, tổ chức này khởi kiện nhưng không phải là chủ thể có quyền lợi bị tranh chấp hoặc vi phạm mà về nguyên tắc chỉ những chủ thể có quyền lợi mới có thể tự định đoạt về quyền lợi của mình thông qua hoà giải. - Đương sự là chủ thể bình đẳng với nhau trong tố tụng, có thể tham gia tố tụng độc lập hoặc thông qua người đại diện trong TTDS; Trong quá trình giải quyết VVDS, các đương sự là chủ thể bình đẳng với nhau về các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Pháp luật TTDS quy định các quyền, nghĩa vụ chung của đương sự, nhưng các đương sự ở các tư cách tố tụng khác nhau có một số quyền, nghĩa vụ khác nhau. Ngoài ra, đương sự có thể tham gia độc lập trong TTDS khi họ có đủ điều kiện về năng lực chủ thể, bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng. Tuy nhiên, trong trường hợp đương sự là người chưa thành niên hoặc đương sự là tổ chức có tư cách pháp nhân thì người đại diện của đương sự có thể thay mặt đương sự để tham gia vào quá trình giải quyết VVDS để thực hiện những quyền và nghĩa vụ của đương sự. Đặc biệt, trong trường hợp vì lý do nào đó đương sự không trực tiếp tham gia tố tụng, họ có thể uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng, trừ một số trường hợp pháp luật quy định không được uỷ quyền. Đây chính là đặc điểm để phân biệt giữa đương sự trong TTDS với những người tham gia tố tụng khác như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch v.v... - Đương sự là chủ thể có quyền tự định đoạt, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình là cơ sở để phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quá trình giải quyết các VVDS; 12 Đương sự là chủ thể có vai trò quan trọng đối với quá trình giải quyết các VVDS. Khác với các chủ thể tố tụng khác chỉ đương sự mới có quyền tự định đoạt trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ về dân sự và tố tụng. Các chủ thể tố tụng khác có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự. Việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng có thể làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hoạt động tố tụng. TA giải quyết VVDS thực chất là TA giải quyết các yêu cầu của đương sự hoặc người đại diện của đương sự. Vì vậy, chỉ khi các chủ thể này có đưa ra yêu cầu thì TA mới giải quyết nhưng khi các chủ thể đó thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu hay đưa ra ý kiến của mình thì hoạt động tố tụng có thể bị thay đổi hoặc chấm dứt. Như vậy, trong VVDS phát sinh tại TA do cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nộp đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước đang bị tranh chấp hoặc có liên quan đến sự kiện pháp lý mà TA có thẩm quyền xác định. Trong các VVDS, có những chủ thể tham gia có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết các VVDS và tham gia vào quá trình giải quyết VVDS để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, đó chính là đương sự trong TTDS. 1.2. VAI TRÒ CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ Đương sự là chủ thể có vai trò đặc biệt quan trọng trong TTDS bởi lợi ích của họ là nguyên nhân và mục đích của quá trình tố tụng. Pháp luật TTDS Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi mô hình thẩm xét, do vậy vai trò và trách nhiệm của đương sự còn phụ thuộc nhiều vào TA. TA với tư cách là cơ quan nhà nước được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc cơ bản của bộ máy nhà nước, được phân công thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp tiến hành giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và các việc khác theo một trình tự, thủ tục có tính bắt buộc do nhà nước quy định. TAND là cơ quan tiến hành TTDS có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các VVDS. Theo đó, trong TTDS thì TA là chủ thể trung tâm, chủ thể chủ yếu, chủ thể có quyền lực, các quyết định của TA buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải thi hành [28]. TA có vai trò quan trọng trong việc làm phát sinh QHPL tố tụng khi TA nhận được đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và TA thụ lý 13 VVDS. Việc khởi kiện, yêu cầu của đương sự là điều kiện tiên quyết còn việc TA thụ lý là điều kiện quyết định làm phát sinh hoạt động TTDS. TA đóng vai trò quyết định về thủ tục, quyết định mức độ cũng như giá trị của chứng cứ. Tuy nhiên, khi thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình TA cũng bị giới hạn bởi việc bảo đảm quyền của đương sự như TA chỉ giải quyết trong phạm vi những vấn đề mà đương sự có yêu cầu hay TA chỉ tiến hành những biện pháp nhất định mà pháp luật quy định, TA có quyền thực hiện khi đương sự có yêu cầu v.v... Vai trò của đương sự được thể hiện trong mối quan hệ giữa đương sự với VKS. Trong TTDS, VKS là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tố tụng bảo đảm cho việc giải quyết VA được đúng đắn và kịp thời. Việc pháp luật ghi nhận hay không ghi nhận sự tham gia của VKS trong TTDS phần nào tác động đến vai trò của đương sự trong TTDS. Vai trò của đương sự trong TTDS còn thể hiện ở việc đương sự có quyền quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt hoạt động TTDS. Các chủ thể tham gia vào các QHPL nội dung trên nguyên tắc bình đẳng, tự do, tự nguyên, cam kết, thoả thuận. Khi đương sự khởi kiện hoặc yêu cầu TA có thẩm quyền giải quyết và TA thụ lý để giải quyết làm phát sinh các VVDS tại TA, phát sinh hoạt động tố tụng. Ngược lại, khi đương sự quyết định không khởi kiện, yêu cầu đến TA thì cũng không làm xuất hiện hoạt động tố tụng ở TA. Các chủ thể khác không phải đương sự hoặc đại diện hợp pháp của đương sự thì không có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu để khởi động hoạt động tố tụng. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay theo yêu cầu của cải cách tư pháp nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, vấn đề quyền con người trong đó có các quyền dân sự, quyền tố tụng cần được tôn trọng, ghi nhận và bảo đảm. Do vậy khi việc khởi kiện, yêu cầu đó đáp ứng được đầy đủ các điều kiện khởi kiện hoặc yêu cầu thì TA không có quyền từ chối việc thụ lý để giải quyết. Điều này đã thể hiện qua việc thay đổi và hoàn thiện các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự trong thời gian qua. Mặt khác, việc thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự không chỉ làm cơ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan