Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của uỷ ban nhân dân huyện cư m’ga...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của uỷ ban nhân dân huyện cư m’gar, tỉnh đắk lắk

.PDF
119
489
140

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/………… BỘ NỘI VỤ ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Y HƯNG NIÊ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN HUYÊN CƯ M’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH ĐẮK LẮK - NĂM 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA Y HƯNG NIÊ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA UỶ BAN NHÂN DÂN HUYÊN CƯ M’GAR, TỈNH ĐĂK LĂK LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 Giáo viên hướng dẫn : TS. Trần thị diệu oanh ĐẮK LẮK - NĂM 2017 LỜI CẢM ƠN Luận văn thạc sĩ luật chuyên ngành luật hiến pháp & luật hành chính với đề tài “giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Uỷ Ban Nhân Dân huyên Cư M’ar, tỉnh Đăk Lăk” là kết quả của quá trình cố gắng không ngừng của bản thân và được sự giúp đỡ, động viên khích lệ của cô hướng dẫn, bạn bè đồng nghiệp và các đồng chí trong cơ quan thanh tra huyện Cư M’gar. Qua trang viết này tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa học vừa qua. Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với cô giáo TS. Trần Thị Diệu Oanh và các đồng chí trong cơ quan thanh tra huyện Cư M’gar đã trực tiếp tận tình hướng dẫn cũng như cung cấp tài liệu thông tin khoa học cần thiết cho luận văn này. Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo học viện hành chính quốc gia, khoa nhà n và đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc nghiên cứu khoa học của mình. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đồng nghiệp, đơn vị công tác đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện Luận văn. TÁC GIẢ Y Hưng Niê MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ...................... 11 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai .............. 11 1.2. Thẩm quyền và trình tự, thủ tục của Ủy ban nhân dân cấp huyện về giải quyết tranh chấp đất đai .................................................................................. 20 1.3. Các yếu tổ ảnh hưởng đến giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyển của UBND cấp huyện...................................................................................... 33 Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA UBND HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK .................. 41 2.1 Một số yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk ..... 41 2.2. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk ...................................................... 58 2.3 Đánh giá chung về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk................................................ 66 Chương 3 QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA UBND HUYỆN CƯ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK ....................................................................................................... 87 3.1. Quan điểm bảo đảm giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk.......................................... 87 3.2. Giải pháp bảo đảm giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’ gar, tỉnh Đắk Lắk.......................................... 91 1 KẾT LUẬN ................................................................................................... 109 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 112 DANH MỤC CAC KÝ HIỆU, CAC CHỮ VIẾT TẮT TANDTC Tòa Án Nhân Dân Tối Cao VKSNDTC Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao TTHC Thủ Tục hành Chính HC Hành Chính UBMTTQVN Uỷ Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam UBND Uỷ Ban Nhân Dân HĐND Hội Đồng Nhân Dân VLXD Vật Liệu Xây Dựng SDĐ Sử Dụng Đất TC Tố cáo TCĐĐ Tranh Chấp Đất Đai KN Khiếu nại CT Công Trình HSĐC Hồ Sơ Địa Chính HTX Hợp Tác Xã HCCB Hội cựu Chiến binh HND Hội nông dân XHCN Xã Hội Chủ Nghĩa P TN & MT Phòng Tài nguyên và Môi trương 2 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Đơn tranh chấp các cơ quan HC nhà nước huyện Cư M’gar tiếp nhận ................................................................................................................. 60 Bảng 2.2: Đơn tranh chấp đất đai UBND huyện Cư M’gar tiếp nhận ............ 61 Bảng 2.3: Kết quả giải quyết đơn của các cơ quan hành chính nhà nước huyện Cư M’gar ......................................................................................................... 64 Bảng 2.4: Kết quả giải quyết đơn tranh chấp của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar ............................................................................................................... 65 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng của mỗi quốc gia. Đất đai đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nhân loại. Nhiều nước trên thế giới đã giành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề đất đai, đã xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật về đất đai được điều chỉnh cho phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội của thế giới. Vì vậy quản lý nhà nước bằng pháp luật về đất đai ngày càng hoàn thiện, đã đạt được những tiến bộ rõ rệt, hệ thống quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường, từng bước phân cấp và phát huy tính tự chủ của địa phương. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình quản lý và sử dụng đất đai hiện nay đang có những hạn chế. Vấn đề quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa có tính chiến lược lâu dài và ổn định hoặc thiếu tính khả thi; cơ chế quản lý về đất đai thiếu hiệu quả; cơ quan quản lý đất đai các cấp nhìn chung còn nhiều yếu kém. Chính vì thế tình trạng tranh chấp, khiếu nại về quản lý và sử dụng đất đai có xu hướng diễn biến phức tạp. Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại còn chưa kịp thời, thiếu hiệu quả. Những yếu kém trong công tác quản lý và sử dụng đất nói chung cũng như những yếu kém trong giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai nói riêng có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng từ sự hạn chế, bất cập của chính sách, pháp luật đất đai và việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hệ thống các văn bản pháp luật đất đai ngày càng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, trong đó quy định việc giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân dân (UBND) (các Điều 21, 22 Luật Đất đai năm 4 1987; Điều 38 của Luật Đất đai năm 1993; Điều 136 Luật Đất đai năm 2003, Điều 203 - 209 luật đất đai năm 2013). Tuy nhiên, các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai mới chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, nên trên thực tế dẫn đến sự chồng chéo, đùn đẩy giữa UBND với Tòa án. Tranh chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong mọi đời sống xã hội, không phụ thuộc vào một chế độ sở hữu nào đất đai. Đối với Việt Nam ta từ trong suốt thời gian khi chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai từ năm 1980 đến nay. Tranh chấp đất đai luôn là vấn đề thời sự, có những diễn biến ảnh hưởng xấu đến việc quản lý, sử dụng đất (SDĐ) của nhà nước và gây bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế - xã hội . Bộ Tài nguyên - Môi trường đã từng đề xuất thành lập một cơ quan tài phán chuyên trách để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai đã phần nào cho thấy tính chất nghiêm trọng của vấn đề. Thực tiễn cho thấy không ít trường hợp TCĐĐ làm cho vụ việc trở nên gay gắt, kéo dài là do việc áp dụng pháp luật chưa đúng, chưa phù hợp. Điều này không những chưa bảo đảm tính đúng đắn, nghiêm minh của pháp luật mà còn chưa bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các bên tranh chấp đất đai diễn ra phức tạp ở một số tình, thành phố như: thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt giai đoạn hiện nay tranh chấp đất đai tại các tỉnh duyên hải miền trung giữa người dân của các tỉnh Hà tỉnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế với công ty nước ngoài Pormosa (xả chất thải làm ảnh hưởng đến đời sống của người dân) từ tình hình đó làm mất ổn định gây bức xúc trong nhân dân đối với công ty đóng trên địa bàn của tỉnh. Điều đó trở thành vấn đề hết sức bức xúc xã hội gây ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh, chính trị, trật tự và ổn định xã hội ở một số địa phương trong cả nước; có nơi đã trở thành điểm nóng của xã hội, thậm chí đã có dấu hiệu chuyển sang ảnh hưởng về chính trị- xã hội. Vấn đề cơ bản hiện nay là phải hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh 5 chấp về đất đai; khắc phục những điểm bất hợp lý, những bất cập về cơ chế, thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết các tranh chấp dẫn đến việc áp dụng các quy định pháp luật vào thực tế gặp những khó khăn, vướng mắc. Nâng cao hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp bằng các giải pháp hữu hiệu. Đắk Lắk là tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên chủ yếu là phát triển nhờ đất nông nghiệp và công nghiệp nhưng thời gian gần đây với sự phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, đất đai trở nên có giá trị kinh tế cao, với sự quản lý và sử dụng đất của tỉnh Đắk Lắk giai đoạn hiện nay chưa đồng nhất giữa các cơ quan từ tỉnh xuống cơ sở, sử dụng và quy hoạch xây dựng đất ở, đất nông nghiệp cho người dân chưa có sự đồng nhất còn gây tranh cãi, phiền toái cho nhân dân ở một số huyện còn diễn ra phức tạp như; huyện Cư Kiun tranh chấp đất đai giữa nhân dân và công ty cafe Việt Đức, công ty cafe Ea K’tur, công ty cafe Ea Tiêu..., Ở huyện Ea H’Leo tranh chấp giữa nhân dân với công ty cao su Ea H’Leo cũng diễn ra phức tạp, ở Cư M’gar có tranh chấp giữa người dân với công ty cafe Ea Pốk, tranh chấp giữa người dân với công ty lâm nghiệp Buôn Ya Wâm........ Cư M’gar là huyện thuộc tỉnh Đăk Lăk, chủ yếu là phát triển đất nông nghiệp chiếm hơn 70% tổng diện tích đất của huyện, nông dân chủ yếu sản xuất nông nghiệp nên rất gắn bó với đất đai. Những năm gần đây thực hiện chủ trương của Đảng về mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn huyện. Vì thế đã kéo theo một phần không nhỏ diện tích đất nông nghiệp được chuyển mục đích sử dụng thành đất công nghiệp, dịch vụ và xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông, cộng với tình hình bùng nổ dân số dẫn đến nông dân càng thiếu đất sản xuất. Quá trình đó phát sinh những tranh chấp, lấn chiếm đất đai thường xuyên xảy ra. Từ vấn đề quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ dẫn tới việc tranh chấp, khiếu nại của nhân dân trong 6 huyện có chiều hướng gia tăng, thậm chí có những vụ việc Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện phải trực tiếp chỉ đạo giải quyết để làm dịu tình hình vụ việc mới đi đến kết thúc. Nhận thức những vướng mắc cần phải được chấn chỉnh, tháo gỡ cũng như tầm quan trọng của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp về đất đai nói chung và của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar nói riêng. Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền huyện Cư M’gar, sự phối hợp đồng bộ của các Ngành, đoàn thể trên địa bàn huyện đã phấn đấu và đạt được những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Cơ cấu kinh tế phát triển theo hướng tích cực, đời sống văn hóa được bảo tồn, an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Song huyện Cư M’gar có đông đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, mặt bằng dân trí thấp, không đồng đều, sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật còn hạn chế. Sự quản lý đất rừng với diện tích rộng của 2 Công ty TNHH MTV LN Buôn Ya Wâm và Buôn Wing do UBND tỉnh Đắk Lắk giao chưa chặt chẽ, dẫn đến người dân lấn chiếm, mua, bán, tranh chấp đất đai, gây khiếu kiện đông người. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã kịp thời xử lý, giải quyết, đến nay cơ bản đã ổn định. Trong bối cảnh như vậy, việc nghiên cứu đề tài “Giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk” nhằm nâng cao chất lượng giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của UBND huyện vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có tính thực tiễn cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề đất đai, quản lý nhà nước về đất đai luôn là mối quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, các sinh viên thí sinh của các trường đại học, vì vậy những năm gần đây đã có nhiều công trình khoa học được công bố liên quan đến lĩnh vực đất đai, được nghiên cứu ở nhiều 7 góc độ khác nhau. Các công trình tiêu biểu được chia thành các nhóm vấn đề sau: Nhóm công trình khoa học nghiên cứu quản lý nhà nước về đất đai; pháp luật về đất đai có các công trình như: Các công trình khoa học đăng tải trên các tạp chí: Một số vấn đề quản lý nhà nước về đất đai trong giai đoạn hiện nay của tiến sĩ Nguyễn Đình Bồng, Tạp chí Quản lý nhà nước, 4/2001; Phạm Hữu Nghị với bài viết tiêu đề Về thực trạng chính sách đất đai ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 8/2002; Ths Trần Quang Huy với bài Luật Đất đai năm 2003 và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí luật học số 3/2005; Ths Trần Văn Sơn với bài Tăng cường giám sát việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước - giải pháp tăng cường pháp chế XHCN, Tạp chí Lập pháp tháng 8/2005… Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Hà Văn Khanh, năm 2007 với đề tài Áp dụng pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước về đất đai ở thành phố Hà Nội; Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Trần Nam Khởi, năm 2008 với đề tài Áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan hành chính nhà nước ở cấp huyện, huyện Bạc Liêu hiện nay... Với những công trình khoa học đã được nghiên cứu, đề cập của nhiều nhà khoa học, nhà quản lý liên quan đến đất đai nêu trên đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề cả lý luận và thực tiễn về chính sách quản lý nhà nước đối với đất đai, về hoàn thiện pháp luật và áp dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai. Các công trình đó đã luận chứng cơ chế điều chỉnh pháp luật đất đai dưới góc độ lý luận chung về nhà nước và pháp luật hoặc để phản ánh, phân tích, làm rõ về thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện về quyền sử dụng đất của hệ thống cơ quan nhà nước. Những công trình khoa học như đã nêu ở trên là những tư liệu sống động, có giá trị tham khảo tốt trong quá trình đầu tư nghiên cứu thực hiện hoàn thiện luận văn này. 8 Những vấn đề đã được nghiên cứu nêu trên cũng cho thấy chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ về giải quyết tranh chấp về đất đai của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar, Tỉnh Đắk Lắk. 3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn - Mục đích luận văn: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai và đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp về đất đai của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar. Từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm giải quyết tranh chấp về đất đai của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar hiện nay. - Nhiệm vụ luận văn: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: + Làm rõ cơ sở lý luận giải quyết tranh chấp về đất đai. + Đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế, yếu kém, tồn tại và nguyên nhân trong giải quyết tranh chấp về đất đai của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar từ 2012- 2016. + Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm giải quyết tranh chấp về đất đai của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu cuả Luận văn - Đối tượng nghiên cứu: giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện. - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: giải quyết tranh chấp về đất đai trên địa bàn huyện Cư M’gar thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân huyện Cư M’gar + Về thời gian: Từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của Luận văn - Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp chế và xây dựng 9 nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhất là quan điểm chỉ đạo của Đảng về chính sách quản lý nhà nước về đất đai và giải quyết tranh chấp về đất đai. Đồng thời luận văn còn dựa trên những vấn đề lý luận chung về áp dụng pháp luật xã hội chủ nghĩa. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trong đó chú trọng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp lịch sử và các phương pháp của các bộ môn khoa học khác như so sánh, thống kê, trao đổi với chuyên gia….,. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn Luận văn có ý nghĩa góp phần làm phong phú thêm lý luận giải quyết tranh chấp về đất đai . Đồng thời luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu hay phục vụ cho công tác giảng dạy ở các trường như: Trung cấp chính trị; quản lý nhà nước của huyện tổ chức. Đây cũng là tài liệu có giá trị nâng cao lý luận và nghiệp vụ đối với cán bộ làm công tác thực tiễn. 7. Kết cấu cuả luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Chương 2: Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai 1.1.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Mặt khác, về mặt thuật ngữ khoa học có thể hiểu theo nghĩa rộng như sau: “Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó như: khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (ao hồ, sông suối, đầm lầy...), các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng thái định cư của con người, những kết quả hoạt động của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa...)”. Như vậy, “Đất đai” là một khoảng không gian có giới hạn. Theo chiều thẳng đứng (gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt nước, tài nguyên nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất), theo chiều nằm ngang - trên mặt đất (là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thủy văn, thảm thực vật cùng với các thành phần khác) giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống của xã hội loài người. Trong bất kỳ xã hội nào, đất đai luôn có vai trò và vị trí quan trọng đối với con người, góp phần xây dựng và phát triển phồn vinh của mỗi quốc gia. Cùng với sự phát triển của sản xuất và đời sống, nhu cầu sử dụng đất của con 11 người ngày càng da dạng và phong phú hơn, xuất phát từ lợi ích của giai cấp, tầng lớp trong xã hội và dựa trên đòi hỏi của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhà nước đã sử dụng pháp luật để quản lý và điểu chỉnh mối quan hệ đất đai nhằm tạo môi trường pháp lý lành mạnh trong khai thác và sử dụng đất đai hợp lý và hiệu quả theo đúng pháp luật. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để giải quyết dứt điểm và có hiệu quả trong việc giải quyết tranh chấp đất đai. Tranh chấp đất đai là một hiện tượng trong xã hội xảy ra bất kỳ hình thái - kinh tế nào. Trong xã hội tồn tại lợi ích giai cấp đối kháng thì tranh chấp đất đai mang tính chính trị, đất đai luôn là đối tượng tranh chấp giữa giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. việc giải quyết tranh chấp đất đai triệt để ở xã hội có quản lý của pháp luật thì mang tính chất pháp luật, chính vì vậy nhà nước việt Nam xã hội chủ nghĩa đã xây dựng pháp luật và quản lý đất đai bằng pháp luật. “Tấc đất, tấc vàng”, xưa nay đất đai vốn luôn là tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng trong đời sống xã hội. Chính vì giá trị đặc biệt của đất đai rất to lớn nên những tranh chấp liên quan đến vấn đề này phát sinh một cách phổ biến trong xã hội. Việc giải quyết thỏa đáng những tranh chấp về đất đai sẽ giúp cho các bên giải quyết những xung đột, mâu thuẫn, qua đó góp phần tạo ra sự ổn định cho xã hội. So với Luật đất đai năm 2003, Luật đất đai năm 2013 có một số sửa đổi về cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai; trong đó có những điểm mới về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai. Theo Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai 2013 thì tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Trong khái niệm này chúng ta cần lưu ý: 12 Thứ nhất, đối tượng của tranh chấp đất đai không phải là quyền sở hữu đất, các chủ thể tham gia tranh chấp không phải là các chủ thể có quyền sở hữu đối với đất vì theo quy định tại Điều 53, Hiến pháp 2013, Điều 4, Luật Đất đai 2013 quy định rất rõ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Thứ hai, phân biệt giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết khiếu nại về đất đai. Theo quy định của Luật đất đai, thì quá trình giải quyết tranh chấp đất đai khác với giải quyết tranh khiếu nại, tố cáo về đất đai. Như trên đã phân tích, tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai, khiếu nại về đất đai là việc cơ quan tổ chức, công dân đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét lại các quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình; giải quyết tranh chấp đất đai có nhiều biện pháp giải quyết khác nhau là thương lượng, hòa giải, giải quyết tại cơ quan hành chính có thẩm quyền và giải quyết tại tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, còn đối với khiếu nại đất đai chỉ có hai trình tự giải quyết là khiếu nại đến cơ quan hành chính có thẩm quyền theo pháp luật khiếu nại hoặc khởi kiện theo pháp luật tố tụng hành chính. Tuy nhiên, Luật đất đai và Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đất đai chưa có sự thống nhất cũng như chưa có sự tách bạch giữa cụm từ giải quyết tranh chấp quyết định giải quyết tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp quyết định hành chính về quản lý đất đai. Tức chưa làm rõ được là khi đương sự yêu cầu giải quyết tranh chấp lần hai không được xem đó là tranh chấp quyết định hành chính; hoặc là không xác định rõ giai đoạn nào được gọi là thời hiệu, giai đoạn nào là thời hạn như Luật khiếu nại quy định.Tương tự, trong khi Luật đất đai quy định về thời hiệu, thời hạn tranh chấp và giải quyết tranh chấp quyết định hành chính, hành vi hành chính về 13 quản lý đất đai nhưng lại không có một quy định nào về thời hiệu yêu cầu và thời hạn giải quyết tranh chấp lần đầu, giải quyết tranh chấp tiếp theo về đất đai. Theo quy định tại Điều 5 Luật Đất đai năm 2013, người sử dụng đất bao gồm: “1. Tổ chức trong nước gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức sự nghiệp công lập và tổ chức khác theo quy định của pháp luật về dân sự (sau đây gọi chung là tổ chức); 2. Hộ gia đình, cá nhân trong nước (sau đây gọi chung là hộ gia đình, cá nhân); 3. Cộng đồng dân cư gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng địa bàn thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố và điểm dân cư tương tự có cùng phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ; 4. Cơ sở tôn giáo gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo; 5. Tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao gồm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện khác của nước ngoài có chức năng ngoại giao được Chính phủ Việt Nam thừa nhận; cơ quan đại diện của tổ chức thuộc Liên hợp quốc, cơ quan hoặc tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện của tổ chức liên chính phủ; 6. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về quốc tịch; 7. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gồm doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp Việt Nam mà nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại theo quy định của pháp luật về đầu tư.” [5,Tr 4] 14 Trên thực tế, tranh chấp đất đai không chỉ là hiện tượng phổ biến mà trong đó còn hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, về cơ bản tranh chấp đất đai được chia thành ba dạng như sau: - Tranh chấp về quyền sử dụng đất: Là những tranh chấp giữa các bên với nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó. Trong dạng tranh chấp này chúng ta thường gặp các loại tranh chấp về ranh giới đất; tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong các quan hệ ly hôn, thừa kế; tranh chấp để đòi lại đất (đất đã cho người khác mượn sử dụng mà không trả lại, hoặc tranh chấp giữa người dân tộc thiểu số với người đi xây dựng vùng kinh tế mới…) - Tranh chấp về quyền, nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất: Dạng tranh chấp này thường xảy ra khi các chủ thể có những giao dịch dân sự về quyền sử dụng đất hoặc các tranh chấp liên quan đến việc bồi thường giải phóng mặt bằng, tái định cư… - Tranh chấp về mục đích sử dụng đất: Đây là dạng tranh chấp ít gặp hơn, những tranh chấp này liên quan đến việc xác định mục đích sử dụng đất là gì. Thông thường những tranh chấp này cũng dễ có cơ sở để giải quyết vì trong quá trình phân bổ đất đai cho các chủ thể sử dụng, Nhà nước đã xác định mục đích sử dụng đất thông qua quy hoạch sử dụng đất. Tranh chấp chủ yếu do người sử dụng đất sử dụng sai mục đích so với khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất. Quan hệ đất đai là một dạng đặc biệt của quan hệ dân sự nên bên cạnh những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai còn mang những đặc điểm và đặc trừng riêng khác với tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, tranh chấp kinh tế… sự khác biệt đó thể hiện ở đặc điểm sau: Thứ nhất, chủ thể của tranh chấp đất đai chỉ có thể là chủ thể của quyền quản lý, quyền sử dụng đất mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất 15 đai. Quyền sử dụng đất của các chủ thể được xác lập và dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất của nhà nước hoặc được nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng đất từ các chủ thể khác hoặc nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của tranh chấp đất đai là các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc đang sử dụng đất. Thứ hai, tranh chấp đất đai rất đa dạng và phức tạp. hoạt động quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, sử dụng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng đất không dơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất. đất đai trở thành một hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương mại, giá đất lại biến động theo quy luật cung cầu trên thị trường, nên việc quản lý và sử dụng đất không đơn thuần là khai thác giá trị sử dụng mà bao gồm cả giá trị sinh lời của đất thông qua các việc mua bán chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tất nhiên, khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì những mầu thuẫn, bất đồng xung quanh việc quản lý và sử dụng đất đai trở nên gây gắt và trầm trọng hơn. Thứ ba, tranh chấp đất đai phát sinh gây ra hậu quả xấu về nhiều mặt như: Có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, làm mất đoàn kết nội bộ trong nhân dân, phá vỡ trật tự đất đai, gây đình trệ sản xuất của gia đình, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên tranh chấp mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước và xã hội. Thứ tư, đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý và quyền sử dụng đất. Đất đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Trong quá trình sử dụng đất không thể không xảy ra các tranh chấp, 16 khiếu nại, kiện tụng giữa các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân với nhau. Việc này xảy ra khi các đối tượng sử dụng đất bị xâm phạm đến lợi ích của mình. Chính vì vậy, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề này. Nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp đất đai trong nhân dân, đảm bảo trật tự công bằng xã hội đôi bên cùng có lợi. Công tác giải quyết các tranh chấp được quy định theo chức năng thẩm quyền của cơ quan quản lý từ UBND xã, huyện đến UBND tỉnh. Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Giải quyết các tranh chấp về đất đai phải đặc biệt chú trọng khâu hòa giải. Tại khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở” [202, Tr 120]. Khi phát sinh khiếu kiện phải tổ chức công tác hòa giải các mâu thuẫn phát sinh trong nội bộ nhân dân ngay từ cơ sở, tổ chức tốt các buổi đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại và những người có liên quan. Công tác hòa giải ở cơ sở phải được chú trọng và làm tốt ngay tại nơi phát sinh tranh chấp giúp giữ vững được tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, giảm đáng kể số lượng đơn thư tranh chấp, khiếu nại vượt cấp. Hòa giải cần đi đôi với giải thích pháp luật và dựa trên cơ sở đạo đức xã hội, tình làng nghĩa xóm để khuyên giải các bên nhìn ra cái sai, cái đúng giữ vững được sự đoàn kết ở nông thôn; đồng thời làm cho nhân dân hiểu biết và chấp hành các quy định của pháp luật. Trên cơ sở khái niệm tranh chấp đất đai, và trong nội dung phân tích của đề tài, chúng ta có khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai như sau: “Giải quyết tranh chấp đất đai là hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên để tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ của 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan