VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI VIỆT HƯNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI VIỆT HƯNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả
Bùi Việt Hưng
LỜI CẢM ƠN
Trong hơn 2 năm học tập, nghiên cứu chương trình cao học Luật Kinh
tế tại Học viện khoa học xã hội, tôi đã tiếp thu được nhiều kiến thức mới,
những kinh nghiệm quý báu, là hành trang cho tôi tiếp tục thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ của mình.
Luận văn này là một phần kết quả quan trọng trong quá trình đào tạo
cao học. Với tất cả tình cảm của mình, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban
giám hiệu Học viện khoa học xã hội, các Thầy, Cô giáo trong và ngoài Học
viện khoa học xã hội đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn TS. Lê Đình Nghị – người đã hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình làm Luận văn. Thầy giáo đã cho tôi thêm nhiều kiến thức về khoa
học, cách tiếp cận và nghiên cứu về giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài
sản cũng như giúp em rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Mặc dù tôi đã có cố gắng trong quá trình làm luận văn, song không thể
tránh khỏi những hạn chế nhất định, rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý và
giúp đỡ quý báu của các Thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Tác giả
Bùi Việt Hưng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG
VAY TÀI SẢN ................................................................................................. 6
1.1. Khái niệm chung về hợp đồng vay tài sản ........................................... 6
1.2. Chủ thể, đối tượng, thời hạn, lãi suất trong hợp đồng vay tài sản ..... 16
1.3. Hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ .... 31
Chương 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
VAY TÀI SẢN CỦA TAND THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN .................. 41
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên ........................................ 41
2.2. Những kết quả đạt được trong giải quyết tranh chấp hợp đồng vay
tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên trong 5 năm gần đây............. 44
2.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên và nguyên nhân .... 49
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN ........................ 56
3.1. Sự cần thiết đối với việc hoàn thiện quy định pháp luật dân sự về
hợp đồng vay tài sản. ................................................................................ 56
3.2. Những yêu cầu đối với việc hoàn thiện các quy định về hợp đồng
vay tài sản.................................................................................................. 58
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản......................................................................................... 63
KẾT LUẬN .............................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................... 71
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
TAND
: Tòa án nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Thống kê các vụ án dân sự về tranh chấp hợp
Bảng 2.1
đồng vay tài sản được TAND thành phố Thái
Nguyên thụ lý từ năm 2014 đến năm 2018
44
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò đặc biệt của hợp đồng trong đời
sống hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ
quốc gia nào chế định hợp đồng luôn được coi là một chế định quan trọng vào
bậc nhất. Bởi hợp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh
hoạt các giá trị vật chất trong xã hội.
Hợp đồng vay tài sản có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, đặc
biệt trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển, các giao lưu dân sự, thương
mại ngày càng đa dạng. Các quy định về hợp đồng vay tài sản được quy định
trong BLDS năm 2015 đã góp phần đảm bảo sự ổn định của xã hội, đảm bảo
lợi ích chung của cộng đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể tham gia quan hệ hợp đồng vay. Trong thực tế, tranh chấp về hợp đồng
vay tài sản ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh kinh tế xã hội ngày càng phát
triển, yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản nhằm
đảm bảo lợi ích cho các chủ thể được đề ra một cách cấp thiết hơn. Tuy nhiên
những quy định về hợp đồng vay tài sản trong BLDS năm 2015 còn nhiều
thiếu sót, bất cập cần sớm có giải pháp hoàn thiện.
TAND thành phố Thái Nguyên là một trong những Tòa án lớn, số
lượng vụ án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản ở TAND thành phố Thái
Nguyên trong những năm qua có xu hướng ngày càng tăng. Mỗi vụ án có nội
dung đa dạng và tính phức tạp cũng khác nhau nên việc giải quyết loại án này
gặp không ít khó khăn, trong nhận thức vận dụng pháp luật cũng như khó
khăn từ khách quan mang lại. Tuy nhiên, quá trình giải quyết TAND thành
phố Thái Nguyên đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần vào việc
giải quyết số lượng án và nâng cao tỷ lệ giải quyết của đơn vị và toàn ngành.
Ngoài ra, qua thực tiễn giải quyết án vay tài sản sẽ phát hiện ra những thiếu
1
sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù
hợp với những đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
Chính vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên” làm
đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hợp đồng vay tài sản không phải là một đề tài mới trong
khoa học pháp lý. Liên quan đến nội dung luận văn của học viên, có nhiều
công trình khoa học đã nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
Ở góc độ các luận văn, luận án: Bùi Kim Hiếu, “Hợp đồng vay tài sản
trong Luật Dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học; Nguyễn Hương
Lan, “Hợp đồng vay tài sản theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ luật học – Khoa Luật, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội;
Nguyễn Quý Linh, “Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản từ thực tiễn
Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng”, Luận văn thạc sỹ Luật học – Viện
Đại học Mở Hà Nội; Đỗ Thị Hồng Hạnh, “Hợp đồng vay tài sản qua thực tiễn
giải quyết tranh chấp tại Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng”, luận văn thạc
sĩ luật học – Khoa Luật, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Ở góc độ các bài viết trên các tạp chí: Dương Quốc Thành, “Một số
vấn đề bảo lãnh trong hợp đồng vay tài sản”,Tạp chí Toà án nhân dân;
Nguyễn Minh Oanh, “Cần sửa đổi, bổ sung một số điều về hợp đồng vay tài
sản”, Tạp chí Luật học; Trần Văn Biên, “Một số vướng mắc trong việc giải
quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản liên quan đến trả lãi và lãi suất”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Trần Văn Biên, “Một số ý kiến góp ý cho
các quy định của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về hợp đồng vay tài
sản”, Viện Nhà nước và pháp luật; Trần Văn Biên, “Về chế định hợp đồng
vay tài sản”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Ngọc Điện, (2001),
2
“Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của luật dân sự”, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua nghiên cứu những công trình nghiên cứu nêu trên, tác giả nhận
thấy: Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ trong
việc giải quyết hợp đồng vay tài sản trên một địa bàn cụ thể. Việc làm rõ vấn
đề giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại một địa bàn cụ thể cần phải
được xác định và nghiên cứu để làm nổi bật những đặc thù trong quan hệ vay
tài sản tại một địa bàn lớn như thành phố Thái Nguyên là cần thiết. Vì đây là
một trong những thành phố có dân số đông nhất, có nhiều các doanh nghiệp,
trung tâm dịch vụ thương mại lớn, nhiều hộ làm ăn cá thể, tiểu thương phát
triển mạnh … Cùng với sự tăng trưởng về các sản phẩm do lao động, sản xuất
kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn thành phố cũng phát triển, nhu cầu về vốn
tăng cao, vì vậy quan hệ vay tài sản cũng không ngừng gia tăng về số lượng,
giá trị cũng như tính phức tạp. Nhận thức được tính phức tạp của quan hệ vay
tài sản nói chung và việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản của
TAND thành phố Thái Nguyên nói riêng nên việc nghiên cứu đề tài này là
hết sức quan trọng và cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng
tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định hợp đồng vay tài sản, đưa
ra những kiến nghị có tính ứng dụng cao trong hoạt động xét xử của Tòa án,
góp phần nâng cao chất lượng xét xử liên quan đến tranh chấp hợp đồng vay
tài sản trên địa bàn thành phố Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên luận văn có
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý của chế định hợp đồng vay tài
sản theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam.
3
+ Nghiên cứu tranh chấp thực tế đã phát sinh qua thực tiễn giải quyết
của TAND thành phố Thái Nguyên để làm rõ những điểm còn bất cập của
pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh hợp đồng vay tài sản hiện nay.
+ Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
hợp đồng vay tài sản.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
lý luận, nội dung các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản và việc
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại TAND thành phố Thái
Nguyên. Nguyên nhân và những bất cập trong việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng vay tài sản, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng xét xử và góp phần giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại
Tòa án ngày một tốt hơn.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét, nghiên cứu lý luận và các quy
định của pháp luật hiện hành về hợp đồng vay tài sản và việc giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên trong 05
năm gần đây, trong đó đi sâu phân tích nguyên nhân của những tồn tại và đưa
ra giải pháp khắc phục.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản.
Phương pháp nghiên cứu:Để giải quyết yêu cầu của đề tài, luận văn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp luận duy vật lịch sử: tiến hành nghiên cứu trên cơ sở quá
trình hình thành và phát triển của chế định hợp đồng vay tài sản ở Việt Nam;
+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: đây là phương pháp quan
trọng và được tác giả sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
4
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sưu tầm và phân tích các vụ tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản để làm rõ thực tiễn áp dụng chế định này. Các ví
dụ liên quan đến bản án, vụ việc tranh chấp do TAND thành phố Thái Nguyên
giải quyết được sử dụng để phân tích, tham chiếu trong luận văn được tác giả
mã hoá tên riêng của doanh nghiệp, cá nhân theo ký tự a, b, c ... để đảm bảo
tính bí mật thông tin cá nhân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn trong giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản, làm rõ những đặc thù của loại án này tại TAND
thành phố Thái Nguyên.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ở TAND thành phố Thái
Nguyên và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo cho hoạt động
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ở TAND thành phố Thái
Nguyên ngày càng hiệu quả, đáp ứng được công cuộc cải cách tư pháp. Đề
xuất phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài
sản, góp phần nâng cao chất lượng xét xử nói chung trong việc giải quyết
tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP
ĐỒNG VAY TÀI SẢN
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG VAY TÀI SẢN CỦA TAND THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
1.1. Khái niệm chung về hợp đồng vay tài sản
1.1.1. Định nghĩa hợp đồng vay tài sản
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động đều được tiền tệ hoá. Do
vậy, mỗi chủ thể phải có một nguồn vốn nhằm thoả mãn nhu cầu của mình và
tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu
cầu về vốn cũng được đáp ứng đầy đủ. Sự không ăn khớp giữa nguồn vốn và
sử dụng vốn của mỗi chủ thể trong xã hội dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu
vốn. Vấn đề đặt ra lúc này là nhu cầu giao lưu vốn xuất hiện. Hợp đồng vay
tài sản ra đời để giải quyết nhu cầu này. Nhà nước đã tạo điều kiện cho
nhân dân vay vốn của ngân hàng với mức lãi suất phù hợp, các hộ nông dân
nghèo có thể phát triển được sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nhân dân vay,
mượn tài sản của nhau để tiêu dùng cho những việc cần thiết trong gia đình
hoặc để kinh doanh là việc làm phổ biến và có ý nghĩa cần được Nhà nước
khuyến khích.
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mối quan hệ xã hội nói chung
và quan hệ pháp luật nói riêng. Trong khoa học pháp lý hiện đại, có nhiều
cách tiếp cận về tài sản. Theo quy định của Cộng Hoà Pháp, “Tất cả tài sản là
động sản hoặc bất động sản”. Từ quy định này có thể nhận thấy, pháp luật
của Cộng hoà Pháp không đưa ra một định nghĩa cụ thể về tài sản mà tiếp cận
thuật ngữ này gián tiếp thông qua hai “tiểu khái niệm” là “động sản” và “bất
động sản”. Nội hàm của khái niệm “tài sản” trong pháp luật của Cộng hoà
Pháp xoay quanh hai khái niệm: “động sản” và “bất động sản”.
Trong pháp luật Việt Nam, Điều 163 BLDS năm 2005 quy định: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Đến BLDS năm 2015,
quy định về tài sản có chút ít thay đổi theo đó: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
6
giá và quyền tài sản”. Đây không phải là một định nghĩa hoàn chỉnh về tài
sản, nhà làm luật đang cố gắng liệt kê tất cả các dạng tồn tại của tài sản trong
đời sống xã hội. Việc liệt kê các dạng tồn tại của tài sản này có thể dẫn đến
tình trạng bỏ sót một số tài sản đang hiện hữu trong thực tiễn cuộc sống, đồng
thời không chỉ rõ được các đặc tính pháp lý cơ bản để nhận diện tài sản.
Nghiên cứu quy định về tài sản trong Chương VII, BLDS năm 2015.Có
thể nhận thấy, mặc dù Điều 105 có nhắc đến tiền và giấy tờ có giá với tính
chất là một loại tài sản luật định tuy nhiên cả Chương VII hoàn toàn không
có quy định giải nghĩa hai loại tài sản này. Việc nhà lập pháp ghi nhận “quyền
tài sản” duy nhất ở một điều luật (Điều 115) trong BLDS năm 2015 và chỉ
đưa ra được một tiêu chí nhận diện quyền tài sản – “phải trị giá được bằng
tiền” là chưa làm rõ được nội hàm khái niệm quyền tài sản. Khi đối chiếu vào
điều 107 BLDS năm 2015 không thể xác định được quyền tài sản là động sản
hay bất động sản.
Theo quy định tài Điều 105 BLDS năm 2015, tài sản có thể là vật, tiền,
giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản.
Vật với tư cách là tài sản được hiểu là đối tượng của thế giới vật chất
theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, và tồn tại ở mọi trạng thái
(rắn, lỏng, khí). Tuy nhiên, để được coi là tài sản thì vật cũng phải thỏa mãn
được những đặc điểm của tài sản đã nêu ở trên. Ví dụ: nước trong một dòng
sông, không khí ngoài khí quyển không thể nằm trong sự kiểm soát, chi phối
của con người, do đó mặc dù cũng được coi là đối tượng tồn tại trong thế giới
vật chất nhưng chúng không được xem xét với tư cách là tài sản. Khi nước
được đóng vào chai, không khí được nén vào bình, con người có thể thực hiện
việc kiểm soát, chi phối chúng, khi đó nước và không khí lại được coi là tài
sản (tồn tại dưới dạng vật).
7
Tài sản là tiền. Tiền có chức năng trao đổi ngang giá với những loại tài
sản khác. Tiền do Ngân hàng Nhà nước độc quyền phát hành và được hiểu là
Việt Nam đồng. Giá trị của tiền được thể hiện ở mệnh giá trên chính đồng tiền
đó. Tiền giữ chủ quyền quốc gia, có giá trị sử dụng ổn định và được sử dụng
rộng rãi trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh chức năng trao đổi, tiền
còn có chức năng dự trữ và thanh toán trên thị trường. Bên cạnh những đồng
tiền Việt Nam thì những ngoại tệ như USD, bảng Anh… cũng là tài sản tại
dưới dạng tiền, tuy nhiên chúng thuộc nhóm tài sản hạn chế lưu thông.
Tài sản là giấy tờ có giá. Giấy tờ có giá được hiểu là những giấy tờ trị
giá được thành tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. BLDS
2015 không có quy phạm pháp luật quy định về giấy tờ có giá mà quy định về
loại tài sản này nằm Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật các
công cụ chuyển nhượng năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ
sung năm 2010)… Theo đó có các loại giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, trái
phiếu, hối phiếu, kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ ký quỹ…
Tài sản dưới dạng quyền tài sản. Quyền tài sản được quy định cụ thể tại
Điều 115 BLDS năm 2015. Theo đó quyền tài sản được hiểu là quyền có thể
trị giá được thành tiền, và chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Quyền tài
sản bao gồm quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất,
hoặc một số quyền tài sản khác như: quyền đòi nợ, quyền yêu cầu chi trả
khoản tiền bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm. Căn cứ vào cách thức
thực hiện quyền của chủ thể, quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có
thể được chia làm hai nhóm, quyền đối vật và quyền đối nhân. Trong quan
niệm của người La-tinh, khối tài sản có của một người được tạo thành từ hai
loại quyền: Quyền đối vật – tức là các quyền được thực hiện trên các vật cụ
8
thể và xác định; quyền đối nhân – bao gồm các quyền tương ứng với các
nghĩa vụ tài sản mà người khác phải thực hiện vì lợi ích của người có quyền.
Hiểu một cách khái quát, quyền đối vật là quyền của chủ thể được thực hiện
các hành vi trực tiếp trên những vật cụ thể mà không cần sự cho phép hay hợp
tác của các chủ thể khác. Các quyền tài sản thể hiện dưới dạng quyền đối vật
trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể kể đến là quyền sở hữu, quyền hưởng
dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề; quyền của bên bảo
đảm đối với tài sản bảo đảm…
Đối lập với quyền đối vật là quyền đối nhân. Quyền đối nhân được thiết
lập trong mối quan hệ giữa hai người, hai chủ thể của quan hệ pháp luật. Có
thể hiểu, quyền đối nhân là quyền cho phép một người yêu cầu một người
khác đáp ứng đòi hỏi của mình nhằm thoả mãn một nhu cầu gắn liền với một
lợi ích vật chất của mình. Mối quan hệ giữa hai người này còn gọi là quan hệ
nghĩa vụ. Bản chất quyền đối nhân là quyền của chủ thể (chủ thể quyền) được
yêu cầu một chủ thể khác (chủ thể có nghĩa vụ) phải thực hiện một hành vi
nhất định, nói cách khác quyền của chủ thể quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉ
được thỏa mãn thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ.
Tiêu biểu cho các quyền tài sản dưới dạng quyền đối nhân theo quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm quyền đòi nợ, quyền yêu cầu cấp dưỡng,
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm…
Từ điển Tiếng Việt giải nghĩa “vay” được hiểu là “nhận tiền hay vật gì
của người khác để chi dùng trước với điều kiện sẽ trả tương đương hoặc có
thêm phần lãi”. Như vậy, dưới góc độ là quan hệ xã hội, quan hệ vay tài sản
phải có ít nhất hai chủ thể tham gia, được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa
các bên, đối tượng của quan hệ là tiền hoặc vật bất kỳ. Về phương diện chủ
quan, hợp đồng vay tài sản là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự
9
trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định.
Ngay từ thời La Mã cổ đại, hợp đồng vay tài sản đã trở thành một trong
những hợp đồng thông dụng nhất của pháp luật về hợp đồng. Luật của
Justinian còn quy định: "Các bên trong hợp đồng vay tài sản cũng không được
thỏa thuận về lãi suất theo kiểu lãi mẹ đẻ lãi con". Dưới chế độ cũ ở miền
Nam Việt Nam, trong Bộ Dân luật Sài Gòn 1972, tại chương V: nói về khế
ước vay mượn, Điều 1156 quy định:
" Có hai loại khế ước vay mượn:
1. Vay mượn vật không bị tiêu thất vì sự hành dụng: đó là khế ước
mượn dùng;
2. Vay mượn vật nếu đã dùng sẽ không còn nữa: đó là khế ước vay nợ "
Tại Điều 1173, khế ước vay nợ được định nghĩa như sau: "Khế ước vay
nợ là khế ước trong đó, một bên đương sự giao cho bên kia một số đồ vật sẽ
bị tiêu thất do sự tiêu thụ, người vay khi tới hạn sẽ phải hoàn trả lại đúng số
lượng, cùng loại, cùng hạng như đồ vật đã vay, mặc dầu đồ vật ấy có tăng giá
hay sụt giá".
Trước đây, BLDS năm 2005 định nghĩa hợp đồng vay: “Hợp đồng vay
tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên theo đó, bên cho vay giao tài sản cho
bên vay; khi đến hạn trả, bên cho vay phải hoàn trả cho bên vay vật cùng loại
theo đúng số lượng, đúng chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận
hoặc pháp luật có quy định”.
Hiện nay, hơp đồng vay được quy định tại Điều 463 BLDS năm 2015:
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay
giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho
vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Có thể nhận thấy, về cơ bản định
nghĩa về hợp đồng vay tài sản trong hai BLDS không có gì khác nhau. Hợp
đồng vay tài sản được xác lập dựa trên các yếu tố: (i) sự thoả thuận, thống
10
nhất ý chí giữa các bên; (ii) thời hạn hợp đồng – do các bên thoả thuận; (iii)
Đối tượng của hợp đồng là tiền hoặc vật cùng loại.
Xuất phát từ nguyên tắc "tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận tại Điều
3 BLDS năm 2015, hợp đồng vay tài sản phải được hình thành sự thoả thuận
và thống nhất ý chí giữa các bên. Thỏa thuận ở đây là sự thỏa thuận giữa bên
cho vay và bên vay trong hợp đồng. Hợp đồng có được thiết lập hay không là
do sự thỏa thuận giữa các bên, tức phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên
trong việc làm phát sinh quyền và nghĩa vụ nhất định, bởi vì ý chí là khả năng
tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động của mình, khắc phục
khó khăn nhằm đạt mục đích đó. Sự thỏa thuận này tất nhiên không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Đặc biệt, các bên chủ thể khi
giao kết hợp đồng phải có sự tự nguyện – tức là phải có sự thống nhất ý chí và
bày tỏ ý chí của từng chủ thể trong hợp đồng. Khi đó, nếu các bên tham gia
hợp đồng không có sự tự nguyện thì hợp đồng sẽ dẫn đến vô hiệu và khi có
tranh chấp đối với hợp đồng này thì là cơ sở để cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền tham gia giải quyết.
Trên cơ sở những vấn đề pháp lý về hợp đồng vay tài sản trong BLDS
năm 2005 và BLDS năm 2015 cũng như những vấn đề có liên quan. Chúng
tôi có cùng quan điểm về định nghĩa hợp đồng vay như Điều 463 BLDS năm
2015, theo đó: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả
cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải
trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
1.1.2. Đặc điểm về hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là một dạng đặc biệt của hợp đồng dân sự, do vậy
bên cạnh những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự thì hợp đồng vay tài sản
cũng có những đặc điểm riêng của nó. Đây chính là cơ sở giúp ta phân biệt
hợp đồng vay tài sản với các loại hợp đồng dân sự khác.
- Hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng đơn vụ hoặc hợp đồng song vụ
11
Căn cứ vào mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ của các bên tại thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng. Các hợp đồng thông dụng được chia làm 02 loại:
hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà tại
thời điểm hợp đồng có hiệu lực, chỉ một bên chủ thể có quyền đối với bên kia
và ngược lại. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà từ thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng, các bên chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Do đó nếu
trong hợp đồng vay tài sản, các bên thoả thuận nghĩa vụ giao tài sản của bên
vay cho bên đi vay sau thời điểm giao kết (thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng) thì hợp đồng này được xác định là hợp đồng song vụ. Trường hợp các
bên có thoả thuận bên cho vay chuyển giao tài sản vay cho bên đi vay ngay tại
thời điểm giao kết, thì hợp đồng vay được xác định là hợp đồng đơn vụ.
Từ thời điểm này trở đi, người cho vay có quyền yêu cầu người vay sử
dụng tài sản vay đúng mục đích (nếu có thoả thuận), có quyền yêu cầu người vay
hoàn trả lại tài sản đã vay cùng loại, theo đúng số lượng, chất lượng và một
khoản lãi (nếu có) khi đến hạn, còn người vay không có quyền gì đối với người
cho vay. Chính vì vậy, hợp đồng vay tài sản được xem là hợp đồng đơn vụ.
- Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù
Căn cứ vào lợi ích đem lại cho các bên khi xác lập quan hệ hợp đồng.
Các hợp đồng dân sự được chia làm 02 loại, hợp đồng có đền bù và hợp đồng
không có đền bù. Hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng có đền bù hoặc
không có đền bù.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có tính đền bù khi một bên sau khi đã
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận lại một lợi ích tương ứng. Hợp đồng
vay tài sản có tính đền bù được áp dụng có tính chất bắt buộc trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng. Các tổ chức tín dụng cho vay tiền đều có quy định
mức lãi suất tương ứng tùy thuộc vào từng thời điểm, tính chất và đặc điểm
của hợp đồng vay tài sản. Hoặc trong trường hợp bên này cho bên kia vay và
12
có thỏa thuận là vay có lãi thì tới thời hạn trả nợ bên vay không những trả nợ
gốc mà còn trả số tiền lãi mà các bên đã thỏa thuận nhưng phải phù hợp với
quy định của pháp luật.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng không có tính đền bù khi trong hợp
đồng vay các bên không thoả thuận về lãi suất. Khi đến hạn trả nợ, bên vay
chỉ có nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ lại số tiền vay hoặc vật cùng loại cho bên cho
vay, mà không trả thêm bất kỳ một khoảng lợi ích vật chất nào khác, hay một
giá trị tài sản nào khác. Loại hợp đồng này có tính chất tương rợ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các chủ thể nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời của đời sống
hoặc giúp đỡ nhau phát triển sản xuất kinh doanh là chính, chủ yếu được giao
kết giữa các chủ thể có mối quan hệ quen biết lẫn nhau.
- Hợp đồng vay tài có hậu quả pháp lý làm chuyển giao quyền sở hữu
tài sản vay từ bên cho vay sang cho bên vay
Đây là dấu hiệu để phân biệt hợp đồng vay tài sản với các hợp đồng
dân sự thông dụng khác như: hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng thuê tài sản.
Vì trong hai hợp đồng này, người mượn và người thuê tài sản không trở thành
chủ sở hữu tài sản mượn và thuê, mà chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản
đã mượn, thuê trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Khi hết
hạn, bên mượn, bên thuê phải trả đúng tài sản đã mượn, thuê cho bên cho
mượn, bên cho thuê tài sản. Còn trong hợp đồng vay tài sản, "bên vay trở
thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó". Bên vay có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản vay. Hết thời hạn vay, bên vay
chỉ cần trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất
lượng, mà không phải trả lại đúng tài sản đã vay.
Như vậy, khi giao kết hợp đồng vay tài sản thì bên cho vay chuyển giao
tài sản đồng thời chuyển giao quyền sở hữu tài sản đó cho bên vay. Tuy
nhiên, bên vay chỉ trở thành chủ sở hữu đối với tài sản vay khi nhận được tài
13
- Xem thêm -