Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài ở việt...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài ở việt nam

.DOC
112
921
105

Mô tả:

-1- Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng phát triển tất yếu của các quốc gia trên thế giới hiện nay. Và Việt Nam chúng ta cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Ngay từ đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng đã xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, đặc biệt là đổi mới kinh tế đối ngoại. Hoạt động kinh tế đối ngoại rất phong phú bao gồm mua bán hàng hoá quốc tế, đầu tư quốc tế, chuyển giao công nghệ, hợp tác lao động quốc tế.... Trong đó mua bán hàng hoá quốc tế là hoạt động chủ yếu nhất. Sau hơn 20 năm thực hiện chiến dịch đổi mới, nền kinh tế Việt Nam không những thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng mà còn có những bước phát triển vững chắc. Điều này chứng tỏ Đảng ta đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình xây dựng CNXH ở nước ta. Cùng với việc chủ trương đổi mới quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, Việt Nam đang tích cực tham gia hội nhập KTQT. Một trong những yêu cầu của quá trình hội nhập này là bảo đảm tôn trọng và thực thi những quy định của các tổ chức quốc tế cũng như những cam kết trong các hiệp định mà Việt Nam là thành viên. Điều đó đòi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế để đảm bảo sự tương thích với pháp luật quốc tế và các nước trên thế giới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã yêu cầu: “…Chủ động, tích cực hội nhập kinh tế sau hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. Thực hiện có hiệu quả các cam kết với các nước, các tổ chức quốc tế về thương mại, đầu tư, dịch vụ và các lĩnh vực khác…Chuẩn bị tốt các điều kiện để thực hiện các cam kết sau khi nước ta gia nhập WTO. Khẩn trương đổi mới thể chế kinh tế, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật bảo đảm lợi ích quốc gia và phù hợp với các quy định, thông lệ quốc tế”1. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của ASEAN ngày 25/7/1995; tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) ngày 1/1/1996; tham gia ASEM tháng 3/1996; tham gia diễn đàn Châu á - Thái Bình Dương (APEC) tháng 11/1998; 1 Xem: Nguyến Đình Thơ (2008), “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6), tr.49 -2gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) tháng 11/2006; thực hiện Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ. Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 của Quốc hội khóa XII, Dự án Luật Trọng tài thương mại sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ VI tháng (10/2009). Đây là Dự án luật có ý nghĩa rất lớn trong việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới; khuyến khích sử dụng Trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên, trước hết xuất phát từ nhu cầu cầu các chủ thể kinh doanh, các thể nhân, pháp nhân muốn giải quyết vụ việc của mình một cách thuận lợi, nhanh chóng và có hiệu quả. Tuy nhiên, Dự thảo Luật vẫn cần thêm nhiều ý kiến đóng góp để tiếp tục được hoàn thiện2. Chính vì vậy, việc nghiên cứu làm sáng tỏ nội dung và hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài nói chung và tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng nói riêng là nhiệm vụ quan trọng cần thiết hiện nay. Do đó, tác giả đã chọn đề tài "Giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong lĩnh vực khoa học pháp lý về Trọng tài có một số công trình nghiên cứu như: Các bài viết của PTS Đinh Ngọc Hiện về giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án Việt Nam; PTS Dương Thanh Mai về hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Việt Nam hiện nay; Tiến Sỹ Hoàng Thế Liên về các phương thức giải quyết tranh chấp chủ yếu tại Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế và đầu tư nước ngoài. PTS Dương Đăng Huệ về vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; một số bài viết của tác giả Trần Hữu Huỳnh về trọng tài; tác giả Trần Đình Hảo về Hòa giải, thương lượng trong giải quyết hợp đồng kinh tế…Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình, bài viết nghiên cứu nào mang tính tổng thể và đề cập trực tiếp đến vấn đề giải quyết tranh chấp về hợp 22 Xem: Phạm Quý Tỵ (2009), “Một số ý kiến về Dự thảo Luật trọng tài thương mại”, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp, (20), tr.28 -3đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài ở Việt Nam. Do vậy, đề tài nghiên cứu này về cơ bản là mới, chưa được nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện. Đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc và kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình đã được đưa ra nhằm nghiên cứu một các tổng thể, toàn diện vấn đề này trong lý luận và thực tiễn. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế ®îc gi¶i quyÕt bằng Trọng tài. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một vấn đề khá rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực cã nhiÒu lo¹i chñ thÓ tham gia. Tuy nhiên, trong khuôn khổ đề tài, tác giả chỉ giới hạn nội dung cơ bản về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bằng trọng tài theo pháp luật Việt Nam vµ thực tiễn áp dụng trong thời gian qua. Đề tài không đi sâu nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh chấp mà một bên tham gia là Nhà nước hay cơ quan quyền lực nhà nước. 4. Mục đích nghiên cứu của đề tài và nhiệm vụ của đề tài - Về mục đích của luận văn Mục đích đề tài làm rõ một số vấn đề về bản chất giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài nói chung và giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế nói riêng, phân tích pháp luật hiện hành giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế, góp phần tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới. - Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ: - Tiếp cận cơ sở lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại nói chung, tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài riêng; -4- Tiếp cận làm rõ những mặt được, mặt còn hạn chế, bất hợp lý, bất cập trong của pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động để giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài ở Việt Nam hiện nay; - Đưa ra một số kiến nghị đề hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài. 5. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu trên đây, việc nghiên cứu đề tài này được thực hiện trên cơ sở của phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh. Đề tài này được thực hiện trên cơ sở lý luận của chũ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nhất là các quan điểm đổi mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Ý nghĩa của luận văn + Đề tài chỉ rõ đặc thù luật áp dụng giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài, đưa ra các phương thức chung trong việc điều chỉnh luật áp dụng theo pháp luật quốc gia và thông lệ quốc tế. + Đề tài đối chiếu pháp luật thương mại về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài hiện hành của Việt Nam để đưa ra những ưu điểm và hạn chế, trên cơ sở so sánh vói thực tiễn áp dụng và thông lệ quốc tế, để hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được thực hiện theo cơ cấu 3 chương Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế và giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế Chương 2: Pháp luật hiện hành và thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài và một số kiến nghị Kết luận -5Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC DẠNG TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 1.1.1. Khái niệm tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế Cùng với sự phát triển thương mại quốc tế các giao dịch quốc tế ngày càng trở nên đa dạng, đặc biệt là các quan hệ HĐMBHHQT và dẫn đến những tranh chấp phát sinh từ quan hệ này cũng rất phức tạp. Trên thực tế rất khó để xác định một khái niệm tranh chấp HĐMBHHQT trên bình diện quốc tế, thậm chí trong phạm vi quốc gia. Tuy nhiên, từ góc độ của luật thực định có thể xem tranh chấp từ HĐMBHHQT là tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại quốc tế và là loại tranh chấp có hợp đồng. Vậy một câu hỏi cần được trả lời là HĐMBHHQT là gì? Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận.3 Cơ sở pháp lý của việc mua bán hàng hóa là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là dạng hợp đồng được các bên chủ thể của quan hệ thương mại quốc tế sử dụng phổ biến và thường xuyên nhất trong các hoạt động thương mại của mình. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của hợp đồng thương mại quốc tế (hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài). Ngoài những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn có tính quốc tế (yếu tố nước ngoài). Theo Điều 1 Công ước LaHay 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình thì: “Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa trong đó các bên ký kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng hóa được chuyển 3 Xem: Khoản 8 Điều 3 Luật thương mại, NXB chính trị quốc gia-Hà Nội -6từ nước này sang nước khác hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa các bên ký kết được thiết lập ở các nước khác nhau”. Điều 1 Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế - Công ước Viena 1980, gián tiếp định nghĩa: “Công ước này áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau”. Ở Việt Nam, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được biết đến với nhiều tên gọi như là: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (theo Công ước Viena 1980), hợp đồng xuất nhập khẩu, hợp đồng mua bán ngoại thương (theo Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK ngày 31/7/1991 của Bộ Thương nghiệp, nay là Bộ Công thương), hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài (Luật thương mại 1997) và “Mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Mua bán hàng hoá quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”4. Như vậy có thể hiểu, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thống nhất về ý chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài mà thông qua đó, thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể đó với nhau. Các đặc điểm cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là: Chủ thể tham gia ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các chủ thể của hoạt động kinh doanh quốc tế, có thể là các thể nhân, pháp nhân, trong một số trường hợp nhất định, Nhà nước là chủ thể đặc biệt của quan hệ này. Các chủ thể có quốc tịch khác nhau hoặc trụ sở thương mại ở các quốc gia khác nhau; Hàng hóa - đối tượng của hợp đồng có thể có sự dịch chuyển qua biên giới quốc gia hoặc giai đoạn chào hàng, chấp nhận chào hàng có thể được thiết lập ở các nước khác nhau; Nội dung của hợp đồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc chuyển giao quyền sở hữu về hàng hóa từ người bán sang người mua ở các nước khác nhau; Đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong các bên; Luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng là 4 Xêm Điều 27 Luật thương mại, NXB chính trị quốc gia-Hà Nội -7luật quốc gia, các điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế về thương mại và hàng hải và ở một số nước áp dụng tiền lệ pháp (án lệ). Cụ thể, Luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm: - Pháp luật quốc gia (chủ yếu là Luật dân sự và thương mại của các quốc gia). Đối với các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế, pháp luật quốc gia có thể áp dụng trong các trường hợp sau: (i) Các bên trong hợp đồng thỏa thuận lựa chọn áp dụng; (ii) Điều ước quốc tế mà các quốc gia (có các chủ thể của hợp đồng mang quốc tịch của quốc gia đó) kí kết hoặctham gia có quy định điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán quốc tế là luật của một quốc gia nhất định; (iii) cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp chọn luật áp dụng (khi các bên không đạt được sự thỏa thuận về luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng)5. Pháp luật Việt Nam áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế bao gồm: Bộ luật dân sự 2005, Luật Thương mại 2005, Bộ luật hàng hải 2005, Luật hàng không dân dụng Việt Nam 2006, Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/02/2007 của Chính phủ quy định chi tiết Luật thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động có liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; - Các điều ước quốc tế chủ yếu sau: + Công ước LaHay ngày 15/6/1955 về luật áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; + Công ước của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Công ước Viena ký ngày ngày 11/4/1980, có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, được áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các nước khác nhau. Áp dụng trong hai trường hợp cụ thể là: 1) Khi trụ sở của các bên đóng tại các nước khác nhau là thành viên Công ước; 2) Khi nguyên tắc trong tư pháp quốc tế quy định luật được áp dụng là luật của các nước thành viên của Công ước; + Cụng ước Roma ngày 19/6/1980, có hiệu lực ngày 01/4/1991 về luật áp dụng đối với các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Đây là một Điều ước quốc tế quan 5 Xem: Giáo trình Luật thương mại tập II, NXB công an nhân dân 2008, tr.9 -8trọng được xây dựng trên cơ sở thống nhất các nguyên tắc của Tư pháp quốc tế trong lĩnh vực hợp đồng thương mại quốc tế. + Hiệp định Buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU, Hiệp định thương mại này chứa đựng những điều khoản liên quan đến xuất xứ của hàng hóa, điều khoản liên quan đến hạn ngạch (quota) và quy định danh mục mặt hàng và hạn ngạch. Hiệp định trực tiếp điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam với các thương nhân trong Liên minh Châu Âu; + Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, ký kết ngày 13/7/2000 tại Washington, D.C. có hiệu lực từ ngày 11/12/2001.Theo đó hoạt động trong lĩnh vực thương mại hàng hóa chính là hoạt động xuất nhập khẩu một cách tự do từ lãnh thổ của một Bên sang lãnh thổ của Bên kia. Hàng hóa xuất nhập khẩu được mở rộng cho mọi loại hàng hóa trừ các mặt hàng và một số chính sách do các bên đưa ra hạn chế cụ thể theo các phụ lục kèm theo. - Các tập quán thương mại quốc tế: + INCOTERMS (do phòng Thương mại quốc tế - ICC ban hành năm 1936, sử đổi bổ sung các năm 1953, 1967, 1980, 1990, và 2000) quy định về các điều kiện thương mại quốc tế; + Quy tắc chung về tập quán và thực hành tín dụng chứng từ (UCP 500); - Các án lệ (case law): Tùy theo hệ thống pháp luật của mình, ở một số nước áp dụng án lệ để điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Theo Từ điển Luật học (Black’s Law Dictionary) do West Pub Co. xuất bản năm 1991, khái niệm “Tranh chấp” được hiểu là sự mâu thuẫn hoặc bất đồng (tranh cãi) về các yêu cầu hay quyền lợi, sự đòi hỏi về yêu cầu hay quyền lợi từ một bên được đáp lại bởi một yêu cầu hay lập luận trái ngược từ bên kia. Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại. Như vậy, tranh chấp thương mại phải hội đủ các yếu tố sau đây: - Thứ nhất, tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn (bất đồng) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. - Thứ hai, những mâu thuẫn (bất đồng) đó phát sinh từ hoạt động thương mại. -9- Thứ ba, những mâu thuẫn (bất đồng) đó phát sinh chủ yếu giữa các thương nhân 6. Tranh chấp trong thương mại là hiện tượng kinh tế - xã hội tất yếu xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Tranh chấp thương mại có bản chất của tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể trong xã hội nói chung. Tranh chấp trong thương mại là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên tham gia quan hệ thương mại mà chủ yếu là liên quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. Tranh chấp có thể phát sinh từ nội dung hợp đồng, giải thích hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, thực hiện hợp đồng, sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng... Theo Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt Nam năm 2003 thì:“Tranh chấp (trong hoạt động thương mại) có yếu tố nước ngoài là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mà một bên hoặc các bên là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ có tranh chấp phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến tranh chấp đó ở nước ngoài ”. Hoạt động thương mại, được hiểu theo nghĩa rộng như Luật mẫu UNCITRAL, là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm, thăm dò, khai thác; liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Còn tại Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ quy định, tranh chấp thương mại là tranh chấp giữa các bên trong một giao dịch thương mại (khoản 4 Điều 9). Như vậy, tranh chấp hợp đồng thương mại quốc tế nói chung và tranh chấp HĐMBHHQT nói riêng cũng là những tranh chấp trong hoạt động kinh tế xã hội nói chung, nhưng phải có các dấu hiệu quốc tế như đã phân tích trên và có hoạt động thương mại thông qua hình thức pháp lý là hợp đồng. Tranh chấp trong hợp 6 Xem: Giáo trình Luật thương mại tập II, NXB công an nhân dân 2008, tr.432 - 10 đồng thương mại quốc tế khác với các tranh chấp giữa công ty với thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau bởi các chủ thể luôn phải là thương nhân (tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh) và các chủ thể có quan hệ với nhau thông qua một giao dịch là hợp đồng thương mại. Về nguyên nhân dẫn đến tranh chấp trong thương mại quốc tế, các bên tham gia quan hệ này thường là những chủ thể ở các nước khác nhau, có sự khác biệt về truyền thống pháp luật và tập quán thương mại, sự thiếu hiểu biết và tin cậy lẫn nhau như bạn hàng trong nước. Các điều kiện khách quan ngoại cảnh cũng làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng của các bên. Hoặc ngay trong ý thức chủ quan của các bên về việc tuân thủ hợp đồng, sự bất cẩn của bên bán, bên mua hoặc do bên vận chuyển cũng làm phát sinh tranh chấp hợp đồng thương mại giữa các bên Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên còn có thể bị ảnh hưởng bởi sự quản lý hoạt động thương mại của mỗi quốc gia. Hệ thống pháp luật của nước này có những quy định khác với nước khác về hình thức của các loại hợp đồng, nội dung chính của từng loại hợp đồng, địa vị pháp lý của các bên tham gia quan hệ hợp đồng thương mại quốc tế, hoặc quy định về thẩm quyền xét xử các tranh chấp từ hợp đồng thương mại quốc tế ở các nước khác nhau. Như vậy, có thể khái quát tranh chấp HĐMBHHQT là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên tham gia quan hệ HĐMBHHQT mà chủ yếu là liên quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng. 1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế Một là: Tranh chấp phát sinh trong HĐMBHHQT là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại; Hai là: Tranh chấp phát sinh trong HĐMBHHQT là tranh chấp mà chủ thể chủ yếu là các thương nhân hoặc ít nhất một bên là thương nhân; Ba là: Tranh chấp phát sinh trong HĐMBHHQT là tranh chấp có quan hệ hợp đồng thương mại tồn tại giữa các bên tranh chấp; Bốn là: Có yếu tố tài sản, gắn liền với lợi ích của các bên và phát sinh tranh chấp trực tiếp từ quan hệ hợp đồng; - 11 Năm là: Có sự vi phạm nghĩa vụ của một bên làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của bên kia; Sáu là: Có sự bất đồng quan điểm của các bên về sự vi phạm hoặc việc xử lý hậu quả phát sinh từ sự vi phạm; Bảy là: Các bên tranh chấp có quyền tự định đoạt và giải quyết theo nguyên tắc bình đẳng, thỏa thuận. Tóm lại tranh chấp về HĐMBHHQT là tranh chấp phát sinh trong đời sống kinh tế-xã hội. Vì vậy, nó cũng hội tụ đủ những đặc điểm của một tranh chấp nói chung. Tuy nhiên, tranh chấp về HĐMBHHQT là một tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, cụ thể đó là những tranh chấp phát sinh trong quá trình ký kết, thực hiện hiện việc mua bán hàng hóa. Cho nên đòi hỏi việc giải quyết tranh chấp này cũng phải có những phương thực giải quyết linh hoạt, hiệu quả đáp ứng nhu cầu của hoạt động kinh doanh quốc tế. 1.1.3. Các dạng tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế Tranh chấp từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, có thể là: + Các tranh chấp từ nghĩa vụ giao hàng của người bán (không giao hàng, giao hàng chậm, không giao hoặc giao chậm chứng từ liên quan, giao hàng không đúng quy cách, phẩm chất tiêu chuẩn chất lượng hàng hóa…). Theo Điều 30 của Công ước Vienna 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế, nếu không giao hàng đúng thời hạn đã quy định trong hợp đồng thì người bán bị coi là vi phạm điều khoản cơ bản của hợp đồng. Trong thực tiễn thương mại quốc tế, các bên thường có thể thỏa thuận với nhau về việc gia hạn thêm một thời gian hợp lý nếu đến hạn giao hàng mà người bán chưa thực hiện việc giao hàng. Tuy nhiên, nếu hết thời gian bổ sung này mà bên bán vẫn không giao hàng hoặc đang trong thời gian bổ sung nhưng bên bán tuyên bố không giao hàng thì bên mua có quyền hủy hợp đồng và yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại. Việc quy định nghĩa vụ của bên bán phải giao các chứng từ liên quan đến hàng hóa đúng thời hạn, đúng địa điểm và đúng hình thức quy định trong hợp đồng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người mua trong việc có đủ cơ sở pháp lý để làm thủ tục nhận hàng và thanh toán tiền hàng. - 12 Các tranh chấp phát sinh do bên mua vi phạm nghĩa vụ (nhận hàng chậm hoặc không nhận hàng, không trả tiền…). Bên mua đã không nhận hàng đúng thời gian quy định hoặc tuyên bố không nhận hàng, hoặc vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng hóa trong một thời gian làm thiệt hại đến người bán, vì vậy pháp luật quy định cho người bán có quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại trong trường hợp này. Các tranh chấp liên quan đến tư cách pháp lý của chủ thể ký kết hợp đồng: Chủ thể của HĐMBHHQT có thể là thể nhân, pháp nhân có sự khác nhau về quốc tịch, nơi cư trú, trụ sở thương mại ở những nước khác nhau. Do đó pháp luật các nước khác nhau cũng có những quy định khác nhau về tư cách của chủ thể khi tham gia ký kết hợp đồng thương mại quốc tế dễ dẫn đến những xung đột, phát sinh tranh chấp. Các tranh chấp liên quan đến hình thức của HĐMBHHQT: Hình thức của HĐMBHHQT, tùy theo từng hệ thống pháp luật khác nhau mà có những quy định khác nhau về cách xác định hình thức HĐMBHHQT như thế nào là hợp pháp. Pháp luật của Đức yêu cầu phải tuân thủ nghiêm ngặt điều kiện về hình thức để bảo vệ những người không có kinh nghiệm đối mặt với những tình huống bất ngờ, cũng như để hạn chế phương pháp chứng cứ; ở một số nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ (Common law) thì hình thức văn bản bắt buộc đối với các hợp đồng có giá trị; ngược lại một số nước theo hệ thống luật lục địa (Civil law) như Pháp, Thụy Sỹ thì tự do ký kết hợp đồng là nguyên tắc cơ bản, chỉ cần sự thỏa thuận ý chí chung của các bên đã được coi là đủ điều kiện để hình thành nên hợp đồng mà không cần quy định bắt buộc là bằng hình thức gì. Mặc dù được soạn thảo bằng văn bản hay những thỏa thuận bằng lời nói thì hình thức hợp đồng đều đóng vai trò “hòn đá tảng” cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh - thương mại của mỗi bên chủ thể. Thực tế cho thấy đã có nhiều trường hợp các bên đã giao kết hợp đồng với nhau và đã tiến hành các hoạt động kinh doanh thương mại, song khi có tranh chấp nhỏ xảy ra thì một trong các bên lợi dụng tính thiếu chặt chẽ của hợp đồng để thu lợi riêng cho mình, làm thiệt hại cho các bên đối tác. Hình thức của HĐMBHHQT còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng, - 13 bởi đó là chứng cứ xác nhận các quan hệ kinh doanh thương mại đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách nhiệm pháp lý khi có tranh chấp xảy ra. Như vậy, hình thức hợp đồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các HĐMBHHQT. Doanh nhân Việt Nam khi ký kết hợp đồng, đặc biệt là HĐMBHHQT thì dấu hiệu hình thức có tính bắt buộc các bên phải tuân thủ. Bởi, khi có sự vi phạm về hình thức hợp đồng thì hợp đồng có thể bị tuyên hủy do vô hiệu hoặc nếu các bên không có sự hiểu biết về pháp luật của đối tác quy định về hình thức của loại hợp đồng mình giao kết sẽ dẫn đến phát sinh tranh chấp, gây ra những thiệt hại không mong muốn. 1.2. TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN PHÁT SINH TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ 1.2.1. Tình hình tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế Từ khi Nhà nước ta thực hiện kinh tế mở, kinh tế thị trường, các thành phần kinh tế được tự do cạnh tranh với nhau trong khuân khổ pháp luật, các loại hình doanh nghiệp ra đời, hoạt động thương mại phát triển đa dạng và phức tạp ngày càng phát triển. Các hợp đồng thương mại nói chung Và hợp đồng mua bán trong nước, nước ngoài, đầu tư nước ngoài ngày càng tăng lên 7. Trong điều kiện như vậy, việc nảy sinh các vướng mắc dẫn đến các tranh chấp với chiếu hướng gia tăng là điều khó tránh khỏi, vấn đề cốt yếu là chúng ta đón nhận nó thế nào, cơ chế giải quyết những mâu thuẫn ra sao. 1.2.2. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế Sơ bộ có thể thấy một số nguyên nhân làm phát sịnh tranh chấp về HĐMBHHQT như sau: * Thứ nhất: Nhiều bản hợp đồng khi ký kết, người ký không đủ tư cách đại diện chủ thể, ký hợp đồng với nội dung không được pháp luật cho phép… các hợp đồng này khi đưa ra thực hiện tất yếu sẽ dẫn đến vướng mắc, thiệt hại cho nhau làm phát sinh tranh chấp. 7 Xem; phụ lục 2 - 14 * Thứ hai: Do sự thiếu kinh nghiệm của các nhà kinh doanh nên khi ký kết hợp đồng chỉ tập trung vào thuận lợi để tính toán kinh doanh, không lường trước được các khó khăn nên không có giao kết với nhau về trách nhiệm của mỗi bên khi xảy ra sự cố. Vì vậy, khi trục trặc xảy ra ở một khâu nào đó không có phương hướng giải quyết mà dẫn đến tranh chấp. * Thứ ba: HĐMBHHQT là hợp đồng liên quan đến ít nhất hai hệ thống pháp luật của hai quốc gia, ngoài ra còn liên quan đến tập quán quốc tế điều chỉnh các quan hệ HĐMBHHQT, thường các bên ký kết hợp đồng lại không hiểu biết về điều này, cũng không tìm hiểu kỹ lưỡng trước khi ký kết hợp đồng, dẫn đến nhiều hợp đồng quy định không đúng, không đủ, chung chung dẫn đến việc hiểu không thống nhất giữa các bên làm phát sinh tranh chấp. * Thứ tư: Một nguyên nhân nữa cũng rất quan trọng làm phát sinh tranh chấp HĐMBHHQT là do giá cả không ổn định, chính sách xuất khẩu, chính sách thuế đối với một số mặt hàng cũng dẫn đến việc đổ bể hợp đồng. Bên cạnh những nguyên nhân trên, tranh chấp nhiều khi xuất phát từ đặc điểm văn hóa của mỗi nước, sự bất đồng ngôn ngữ, đặc biệt là do sự không rõ ràng về các quy định của pháp luật và cơ chế điều chỉnh. Những yếu tố khách quan và chủ quan trên dẫn đến các tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và tranh chấp HĐMBHHQT nói riêng ngày càng gia tăng về số lượng, phức tạp về nội dung là một thực tế khách quan. Giải quyết tốt, giải quyết kịp thời các tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và tranh chấp HĐMBHHQT nói riêng nhằm bảo đảm quyền và lợi ích chính đắng của các bên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật, vừa tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, vừa góp phần tạo môi trường pháp lý có kỹ cương trong sản xuất kinh doanh, tạo niềm tin, sự công bằng, sự bình đẳng cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Vì vậy việc hoàn thiện pháp luật và các thiết chế giải quyết tranh chấp về thương mại quốc tế nói chung và về HĐMBHHQT nói riêng là vấn đề cần thiết. 1.3. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI - 15 1.3.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng trọng tài Tranh chấp HĐMBHHQT có thể được giải quyết bằng nhiều phương thức khác nhau. Những phương thức thường được áp dụng là giải quyết bằng thương lượng, giải quyết bằng hòa giải, giải quyết bằng Trọng tài và giải quyết bằng Tòa án. Mỗi phương thức giải quyết khác nhau lại có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau. Đôi khi các phương thức giải quyết trên lại đan xen, hỗ trợ cho nhau trong quá trình giải quyết vụ việc. Ở phương thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, Trọng tài mang tính thỏa thuận tự nguyện, quyền lực của Trọng tài viên là quyền lực theo hợp đồng do các bên tranh chấp giao cho, còn khi giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT bằng phương thức Tòa án thì quyền lực đó là quyền lực Nhà nước - quyền tư pháp, nhân danh nhà nước. Giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT bằng Trọng tài là hình thức giải quyết thông qua hoạt động của cơ quan tài phán phi chính phủ. Cơ quan tài phán này không có quyền nhân danh Nhà nước trong việc đưa ra phán quyết buộc các bên có nghĩa vụ thi hành. Theo Khoản 1 Điều 2 PLTTTM năm 2003 thì: “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định”. Phương thức giải quyết tranh chấp này có những ưu điểm hơn so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác như sau8: Thứ nhất: Giải quyết tranh chấp về HĐMBHHQTT bằng Trọng tài bảo đảm tối đa quyền tự chủ của các bên trong hợp đồng. Trọng tài không phải là phương thức giải quyết bắt buộc, việc đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài là quyết định của các bên. Các bên có quyền lựa chọn cơ quan trọng tài, hình thức trọng tài, quy tắc tố tụng trọng tài, trọng tài viên cho mình không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở hoặc nơi cư trú của các bên. Đồng thời giải quyết tranh chấp HĐMBHHQT còn cho phép các bên tính toán về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp để từ đó các bên xắp xếp hợp lý vừa đảm bảo việc giải quyết tranh chấp vừa đảm bảo việc kinh doanh của các bên 8 Xem: Phụ lục 1 - 16 Thứ hai: Thủ tục giải quyết đơn giản thuận tiện giúp cho việc giải quyết tranh chấp nhanh chóng, dứt điểm, hiệu quả. Tất cả các bên trong tranh chấp đều mong muốn công lý phải nhanh chóng, thủ tục đơn giản, thuận tiện. Điều đó rất dễ hiểu, đặc biệt đối với các thương nhân điều đó càng trở nên cấp thiết. Thứ ba: Tính bảo mật và duy trì đối quan hệ đối tác. Trọng tài là phương thức giải quyết tranhh chấp có tính riêng biệt. Hầu hết pháp luật các nước đều thừa nhận trọng tài xét xử kín (in camera) nếu các bên không quy định khác 9. Trong kinh tế thị trường thì thương trường trở thành chiến trường sự bảo vệ bí mật nghề nghiệp đã trở thành tính chất sống còn của các nhà kinh doanh. Cho nên tâm lý chung của các nhà kinh doanh là tranh chấp phát sinh cần được giải quyết một cách kín đáo, không ồn ào, không nghi thức rườm rà, không công khai. Nhu cầu này lại không được thỏa mãn tại con đường Tòa án. Việc giải quyết tranh chấp HĐMBHHQTT bằng Trọng tài rất phù hợp với các bên tranh chấp, bởi Trọng tài sẽ làm giảm mức độ xung đột, căng thẳng của những bất đồng phát sinh trên cơ sở câu hỏi gợi mở trong không gian kín đáo nhẹ nhàng. Đó là điều kiện tốt để các bên có thể tiếp tục duy trì quan hệ có thể trở thành đối tác quan trọng của nhau. Mặt khác sự tự nguyện của một bên trong việc thi hành quyết định trọng tài sẽ làm cho bên kia tin tưởng hơn trong quan hệ làm ăn trong tương lai. Việc xét xử không công khai giúp các bên giữ bí mật về kinh doanh, công nghệ. Thứ tư: Tính chung thẩm ràng buộc quyết định trọng tài. Đây là ưu điểm trọng tài so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Sau khi Trọng tài đưa ra phán quyết sẽ có hiệu lực thi hành đối với các bên, các bên không được kháng cáo. Điều này được giải thích xuất phát từ quyền tự định đoạt của các bên trong tranh chấp, do đó khi phán quyết được ban hành các bên có nghĩa vụ tuân thủ. Hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài mang tính tài phán có nghĩa là Trọng tài được ra phán quyết cuối cùng để giải quyết tranh chấp và phán quyết này có giá trị bắt buộc đối với các bên, nếu các bên không tự nguyện thi hành thì cưỡng chế thi hành. PLTTTM tạo ra một bước ngoặt trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, bởi nó tạo cơ sở pháp lý cho việc quy định quyết định Trọng tài có giá trị thi hành như một Bản án của Tòa án. Nếu các bên không tự nguyện thi hành sẽ bị áp 9 Xem:Điều 6 Pháp lệnh trọng tài thương mại của ủy ban thường vụ quốc hội số 08/2003/PLTVQH11 - 17 dụng các biện pháp cưỡng chế của cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có tụ sở, nơi cư trú, nơi có tài sản của bên phải thi hành. Cơ quan thi hành Luật Trọng tài của các nước thường tạo ít cơ hội cho các bên kháng một quyết định Trọng tài so với để kháng một quyết định của Tòa án. Quyết định Trọng tài có quyết giá trị chung thẩm và ràng buộc các bên về mặt pháp lý, buộc các bên phải thi hành quyết định này, nếu quyết định Trọng tài không bị Tòa án hủy. Điều này làm cho phương thức giải quyết tranh chấp bẳng Trọng tài khác hẳn so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác (Thương lương, hòa giả, Tòa án) Thứ năm: Tính độc lập của tố tụng Trọng tài. Là một tổ chức phi chính phủ, trọng tài không có tổ chức đa cấp nên Trọng tài độc lập trong xét xử, không chịu sự chi phối bởi yếu tố chính trị, không chịu sự chỉ đạo của cơ quan quản lý nào mà chỉ chịu sự giám sát của Tòa án trong một số mặt về tố tụng. Cho nên bảo đảm tính khách quan trung lập trong qua trình giải quyết tranh chấp. Thứ sáu: Tính chuyên môn của trọng tài viên. Danh sách trọng tài viên của trung tâm Trọng tài thương mại (đặc biệt là các trung tâm chuyên vào một lĩnh vực nhất định) thường bao gồm các chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, uy tín, kinh nghiệm được lựa chọn theo các tiêu chí chặt chẽ do trung tâm Trọng tài đưa ra. Chính vì thế ý kiến của các chuyên gia rất chính xác và có tính thuyết phục cao, cho nên xét tương đối Trọng tài viên tại các trung tâm trọng tài thương mại đáp ứng yêu cầu về chuyên môn để tìm ra giải pháp hợp lý, hợp pháp cho các tranh chấp. Thứ bảy: Tính nhanh chóng tiết kiệm thời gian, tố tụng Trọng tài nhanh chóng hơn tố tụng Tòa án, vì Trọng tài cho phép các bên tự thỏa thuận về nhiều hoặc tất cả về thủ tục (lựa chọn trọng tài viên, quy tắc tố tụng trọng tài…). Tố tụng Trọng tài mang tính chất linh hoạt, nhanh chóng hơn tố tụng Tòa án (Tòa án xét xử theo hai cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm), chưa kể tới các thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm trải qua nhiều năm. 1.3.2. Các hình thức trọng tài  Trọng tài vụ việc (Ad-hoc) Trọng tài vụ việc là Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết tranh chấp cụ thể giữa các bên có tranh chấp phát sinh và khi giải quyết xong tranh chấp đó thì chấm dứt sự tồn tại. - 18 Trọng tài Ad-hoc được xem là trọng tài nguyên thủy, được sử dụng rất lâu và rộng rãi ở các nước trên thế giới. Pháp luật về Trọng tài của các nước trên thế giới đều thừa nhận sự tồn tại của hình thức Trọng tài này. Ở nước ta cho phép Trọng tài phi chính phủ được thành lập và hoạt động khi có Nghị định 116/CP ngày 5/9/1994 nhưng trong Nghị định này chưa ghi nhận hình thức trọng tài vụ việc này. Khi PLTTTM do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 25/2/2003 mới quy định hình thức Trọng tài này 10.  Trọng tài thường trực Ở các nước trên thế giới hình thức Trọng tài thường trực được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau; Như các trung tâm Trọng tài (trung tâm trọng tài quốc tế sigapore, trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Australia, trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông…), các hiệp hội trọng tài (Hiệp hội trọng tài Hoa kỳ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản) hay các viện trọng tài (Viện trọng tài Stoc khom- Thụy Điển)…nhưng phổ biến được thể hiện dưới hình thức trung tâm trọng tài. Trọng tài thường trực đều thể hiện phổ biến dưới dạng trọng tài phi chính phủ và là tổ chức xã hội nghề nghiệp. Hệ thống Trọng tài này không nằm trong hệ thống bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, vẫn có ngoại lệ mang sắc thái riêng trong pháp luật trọng tài của một số nước, như Châu á (như trung quốc, Thái Lan). Ở Trung Quốc ủy ban trọng tài hợp đồng kinh tế Nhà nước là những cơ quan Nhà nước thuộc cục quản lý hành chính công thương các cấp. Còn Thái Lan thành lập viện trọng tài trực thuộc Bộ tư pháp có quy tắc tố tụng riêng nhằm hỗ trợ và phát triển các hoạt động hòa giải và Trọng tài. Ở Việt Nam, Trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định11. 1.3.3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế bằng Trọng tài  Nguyên tắc thỏa thuận Trọng tài 10 Xem: Điều 19-23 Pháp lệnh trọng tài thương mại của ủy ban thường vụ quốc hội số 08/2003/PLTVQH11 Xem: Khoản 1Điều 16 Pháp lệnh trọng tài thương mại của ủy ban thường vụ quốc hội số 08/2003/PLTVQH1 11 - 19 TTTT là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài các tranh chấp đã phát sinh hoặc có thể phát sinh trong quan hệ hợp đồng của các bên. Như vậy, các bên có thể TTTT khi ký kết hợp đống hoặc sau khi phát sinh tranh chấp, cho nên có thể coi TTTT tài là sợi chỉ đỏ, là nền móng của tố tụng Trọng tài. Nếu như không có TTTT thì không có tố tụng Trọng tài. Về bản chất: TTTT là sự thống nhất ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng, cho nên điều cốt lõi để có TTTT là có sự thống nhất ý chí của các bên tranh chấp trong hợp đồng. Trong mọi trường hợp ý chí phải tự nguyện, minh bạch, không bên nào bị lừa dối và bị đe dọa. Nội dung của TTTT là việc các bên giao cho Trọng tài việc giải quyết tranh chấp, mặc nhiên thừa nhận Trọng tài có quyền đưa ra phán quyết chung thẩm bắt buộc các bên phải thi hành. Như vậy, TTTT có vai trò then chốt và có vai trò quyết định đối với việc áp dụng Trọng tài như một phương thức giải quyết tranh chấp cho hợp đồng của các bên. TTTT chính là “luật” của các bên đề ra. Chức năng của TTTT: - Một TTTT có hiệu lực sẽ phủ nhận quyết định của Tòa án. Bằng việc xác nhận TTTT, các bên đã gián tiếp thỏa thuận khước từ thẩm quyền xét xử của của Tòa án đối với tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau. Đây là chức năng quan trọng nhất của TTTT, “cho phép loại trừ sự can thiệp của Tòa án quốc gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, ít nhất trước khi phán quyết của Trọng tài được thi hành” 12. - TTTT có tác dụng ràng buộc trách nhiệm các bên, bởi nó được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng giữa các bên tranh chấp, không bên nào được thoái thác việc giải quyết tranh chấp tại Trọng tài. - TTTT là cơ sở xác định thẩm quyền của Trọng tài, trọng tài viên, giao cho trọng tài viên quyền giải quyết tranh chấp có thể phát sinh giữa các bên. - Cho phép việc chọn nơi tiến hành Trọng tài trong những điều kiện tốt nhất, để quyết định Trọng tài được thi hành theo luật. Về hình thức của TTTT: 12 Xem: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam 2003: “Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn” - 20 TTTT có thể là một điều khoản riêng hoặc là một điều khoản nằm trong hợp đồng và phải được lập thành văn bản 13. Ngày cả khi hợp đồng của các bên không được lập bằng văn bản, thì TTTT vẫn được bằng văn bản. TTTT được coi như là bằng văn bản, nếu thỏa thuận đó nằm trong một văn bản được các bên ký kết hoặc nằm trong thư từ, telex, điện tín, Fax trao đổi giữa các bên hoặc bất cứ một phương thức liên lạc khác cho thấy sự tồn tại của thỏa thuận đó. Khi nộp đơn cho trung tâm Trọng tài, nguyên đơn phải nộp kèm theo TTTT. Nếu không có TTTT, trung tâm Trọng tài sẽ không cố thẩm quyền giải quyết. Ngay cả khi có TTTT nhưng TTTT vô hiệu, thì Trọng tài cũng không có thẩm quyền giả quyết tranh chấp14. Về mối quan hệ giữa thỏa thuận Trọng tài và hợp đồng: PLTTTM quy định rõ TTTT là một điều khoản trong hợp đồng hay là một thỏa thuận riêng thì TTTT vẫn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, giới hạn hay hủy bỏ hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản Trọng tài 15. Tính độc lập tương đối của TTTT này có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là khi hợp đồng bị hủy bỏ hoặc vô hiệu…thì thỏa thuận vẫn cố hiệu lực và đương nhiên phát sinh thẩm quyền của Trọng tài đối với tranh chấp. Đây là điểm tương đồng của pháp luật Việt Nam vối các nước trên thế giới. Ví dụ Điều 17 Luật trọng tài Anh năm 1996 quy định: Tính độc lập của TTTT: Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, một TTTT tạo thành hoặc được dự định tạo thành của một phần thỏa thuận khác (thành văn hoặc không thành văn) sẽ không bị coi là không có giá trị pháp lý, không tồn tại hoặc không có hiệu lực khi thỏa thuận kia bị mất giá trị pháp lý, không tồn tồn tại hoặc không có hiệu lực và vì mục đích này nó coi như một thỏa thuận riêng biệt”. Theo Điều 19 Luật trọng tài Trung Quốc năm 1994 cũng nhấn mạnh TTTT, tồn tại độc lập. Mọi sự thay đổi, chấm dứt, hủy bỏ hoặc không có hiệu lực của hợp đồng không ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của TTTT. Như vậy nguyên tắc TTTT được phán ánh đậm nét trong pháp luật Trọng tài của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng, TTTT trở thành nguyên tắc nền tảng, tạo tiền đề cho tố tụng Trọng tài. Trọng tài sẽ mất đi bản chất vốn có của nó 13 14 Xem: Điều 9 Pháp lệnh trọng tài thương mại của ủy ban thường vụ quốc hội số 08/2003/PLTVQH1 Xem: Điều 10 Pháp lệnh trọng tài thương mại của ủy ban thường vụ quốc hội số 08/2003/PLTVQH1 Xem: Điều 11 Pháp lệnh trọng tài thương mại của ủy ban thường vụ quốc hội số 08/2003/PLTVQH1 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan