Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Trung học cơ sở Giáo án tích hợp liên môn hóa học 12 bài 40. ancol ...

Tài liệu Giáo án tích hợp liên môn hóa học 12 bài 40. ancol

.DOC
21
1921
67

Mô tả:

Chủ đề: ANCOL I. Mô tả chuyên đề - Chuyên đề này gồm bài 40 chương VIII – Hoá học 12 và các kiến thức tích hợp liên môn trong chương IV, V, VI, các kiến thức của các môn khác như sinh học, vật lý, toán học … có liên quan. - Các bài, chủ đề liên quan Dẫn xuất halogen của hiđrocacbon Ankan Anken - Mạch kiến thức của chuyên đề 1. Định nghĩa, phân loại 2. Đồng phân, danh pháp 3. Tính chất vật lí 4. Tính chất hoá học 5. Điều chế 6. Ứng dụng - Thời lượng + Số tiết trên lớp: 02 tiết + Thời gian học ở nhà: 01 tuần II. Kiến thức cơ sở khoa học chuyên ngành của chuyên đề. - Môn Toán học: Tính khối lượng, phần trăm khối lượng của ancol, thể tích khí thoát ra… - Môn công nghệ: Tận dụng những phế phẩm của quá trình sản xuất rượu để sản xuất những sản phẩm khác. - Môn Giáo dục môi trường: Giải thích vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất ancol etylic, sử dụng nhiên liệu etanol thay thế cho xăng giúp bảo vệ môi trường. - Môn Vật lý: Sử dụng ống đong để pha một thể tích rượu với độ rượu cho trước, cơ chế đo độ rượu của ancol kế. - Môn Sinh học: +Sự lên men của tinh bột nhờ vi sinh vật , enzim amilaza. + Tác hại của rượu đối với sức khoẻ con người. + Cơ chế sát khuẩn của cồn III. Mục tiêu 1. Kiến thức 1.1 Môn Hoá học - Học sinh nêu được định nghĩa, công thức chung, đặc điểm cấu tạo phân tử, tính chất vật lí, phân loại ancol. - Học sinh viết được các đồng phân của ancol, gọi tên các đồng phân (gốc  chức và thay thế) - Học sinh nêu được tính chất hoá học: Phản ứng của nhóm OH (thế H, thế OH), phản ứng tách nước tạo thành anken hoặc ete, phản ứng oxi hoá ancol bậc I, bậc II thành anđehit, xeton ; phản ứng cháy. - Học sinh biết được phương pháp điều chế ancol từ anken, điều chế etanol từ tinh bột, điều chế glixerol. - Học sinh biết được công thức phân tử, cấu tạo, tính chất riêng của glixerol (phản ứng với Cu(OH)2). 1.2 Liên môn. - Sản xuất rượu… - Hiểu được vai trò cũng như tác hại của etanol đối với cơ thể con người. - Vai trò của etanol nói riêng và các ancol nói chung trong cuộc sống hiện đại. 2. Kĩ năng - Học sinh viết được các pthh minh hoạ tính chất hoá học của ancol, dự đoán được tính chất của một số ancol cụ thể. - Học sinh phân biệt được ancol đơn chức với với glixerol, etilen glicol, với các chất khác. - Học sinh xác định được công thức phân tử, công thức cấu tạo của ancol trong các bài tập hỗn hợp hoặc bài tập chỉ có 1 là ancol. 3. Thái độ - Học sinh nhận thức được vai trò của ancol etylic trong công nghiệp, trong y học... - Học sinh có ý thức vận dụng lý thuyết vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. - Tuyên truyền về tác hại của etanol đối với cơ thể con người. 4. Năng lực - Năng lực sử dụng ngôn ngữ hoá học - Năng lực tính toán - Năng lực giải quyết vấn đề thông qua môn hoá học - Năng lực vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống - Năng lực thực hành hoá học - Năng lực hợp tác - Năng lực giao tiếp * Bảng mô tả các mục tiêu của chủ đề. Mức độ nhận thức Nhận biết Thông hiểu Vận dụng thấp Vận dụng cao Các NL, KN hướng tới trong chủ đề ND1: Định nghĩa, phân loại - Nêu được định nghĩa ancol. - Viết được CTTQ ancol no đơn chức mạch hở - Phân loại được ancol. - Nêu được điều kiện tồn tại của 1 ancol - Nêu được bậc của ancol. - Diễn giải được cách xây dựng một công thức của một ancol bất kì. - Hiểu được điều kiện của các giá trị n, x trong công thức tổng quát của ancol ND2: Đồng phân, danh pháp - Chỉ ra được công thức tổng quát của một loại ancol bất kì. - KN tự học và tự nghiên cứu, KN định nghĩa - NL giải quyết vấn đề - Xác định được ancol có đồng phân mạch C và đồng phân vị trí nhóm chức. - Gọi tên được các ancol theo danh pháp IUPAC, tên thông thường. - Mô tả được cách đánh số, cách chọn mạch chính đều ưu tiên nhóm chức -OH - Đếm được số đồng phân ancol ứng với 1 công thức phân tử cụ thể. - Viết được công thức cấu tạo từ tên ancol cho trước. - KN tự học và tự nghiên cứu, KN định nghĩa - NL sử dụng ngôn ngữ hoá học, NL giải quyết vấn đề ND3: Tính chất vật lí - Nêu được các ancol đều là chất lỏng hoặc chất rắn ở điều kiện thường, t0s, t0nc , d tăng, độ tan giảm khi phân tử khối tăng. - Mô tả được các ancol tạo thành liên kết H nên có t0s cao hơn so với HC, ete có cùng số nguyên tử C - Liệt kê được các loại liên kết H trong hỗn hợp ancol và nước. - Giải thích được tại sao ancol có liên kết hiđro nên có t0s cao hơn so với HC, ete có cùng số nguyên tử C. - Sắp xếp được nhiệt độ sôi theo chiều tăng dần hoặc giảm dần của các ancol hoặc của ancol với hợp chất khác - KN tự học và tự nghiên cứu - NL sử dụng ngôn ngữ hoá học, NL giải quyết vấn đề, NL vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống ND4: Tính chất hoá học - Nêu được tính chất hoá học chung của ancol là phản ứng thế, phản ứng tách nước, phản ứng oxi hoá, phản ứng của gốc hiđrocacbon. Tính chất hoá học riêng của glixerol, etilen glicol. - Giải thích được tính chất hoá học của ancol do sự phân cực của liên kết C-O và liên kết O-H gây nên. - Viết được phương trình hóa học của phản ứng giữa ancol với các chất. - Dự đoán được tính chất hoá học của một ancol bất kì. - Phân biệt được ancol đơn chức với glixerol, etilen glicol, với các chất khác bằng phương pháp hoá học. - Xác định được CTPT, CTCT của ancol thông qua bài toán đốt cháy, tác dụng với Na… - Tính được khối lượng, phần trăm khối lượng của ancol trong hỗn hợp 2 ancol, hỗn hợp ancol với chất khác. - Xác định được CTPT, CTCT, khối lượng, phần trăm khối lượng của ancol trong hỗn hợp với axit, este… - KN suy luận, tự nghiên cứu. - NL sử dụng ngôn ngữ hoá học, NL giải quyết vấn đề, NL vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống - Giải thích được bản chất của các phương pháp điều chế ancol. - Viết được các phương trình điều chế ancol theo các phương pháp. - Tính được lượng ancol tạo thành khi điều chế ancol - Tính lượng tinh bột cần dùng để được điều chế được etanol có trong dung dịch có độ rượu cho trước với hiệu suất cho trước. - KN suy luận, tự nghiên cứu. - NL sử dụng ngôn ngữ hoá học, NL giải quyết vấn đề, NL vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống ND5: Điều chế - Nêu được phương pháp điều chế etanol từ etilen, từ glucozơ – tinh bột, phương pháp điều chế glixerol từ propilen. ND6: Ứng dụng - Liệt kê được ứng dụng của ancol trong đời sống - Mô tả được ancol là dung môi hữu cơ hoà tan được nhiều chất. - KN tự nghiên cứu. - NL vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống ND7: Ancol trong thực tiễn cuộc sống - HS biết được tác hại - Cơ chế của dụng cụ - HS tính toán được - KN suy luận, tự của việc lạm dụng rượu bia đo nồng độ cồn - Các phản ứng hoá học xảy ra trong quá trình sản xuất rượu uống từ tinh bột. hàm lượng rượu nguyên chất có trong rượu bia, cồn trên thị trường. nghiên cứu. - NL vận dụng kiến thức hoá học vào cuộc sống IV. Thiết kế các hoạt động dạy học 1. Thiết bị dạy học 1.1 Giáo viên Tranh ảnh, hình vẽ ứng dụng của etanol trong đời sống. Dụng cụ: Ống nghiệm, kẹp gỗ, giá, đèn cồn, nút ống nghiệm có đầu vuốt nhọn. Hoá chất: ancol etylic, Na, dây đồng, dung dịch CuSO4, NaOH. Máy tính, máy chiếu projector. Bảng phụ số 1 trên trình chiếu CƠ SỞ PHÂN LOẠI  No , m ạch hở Gốc hiđrocacbon ( hở, vòng) không no, mạch hở Thơm No (vòng) Số lượng nhóm -OH Một nhóm OH a) Ancol no, đơn chức, mạch hở. CnH2n+1OH b) Ancol không no, đơn chức, mạch hở(1lk đôi) CnH2n1OH c) Ancol thơm, đơn chức. d) Ancol vòng no, đơn chức. Nhiều nhóm OH e) Ancol no, mạch hở, đa chức CnH2n+2-x(OH)x Trong số các ancol trên, có: * Ancol bậc 1: là ancol có nhóm -OH liên kết với cacbon bậc 1. * Ancol bậc 2: là ancol có nhóm -OH liên kết với cacbon bậc 2. Bậc ancol * Ancol bậc 3: là ancol có nhóm -OH liên kết với cacbon bậc 3. * Không có ancol bậc 4. 1.2 Học sinh - Nghiên cứu bài học ở nhà trước - Thực hiện theo sự phân công hướng dẫn của giáo viên. 2. Hoạt động dạy học và tiến trình dạy học. 2.1 Phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học - Kết hợp các phương pháp dạy học: Dạy học nhóm, giải quyết vấn đề, đàm thoại, sử dụng thí nghiệm trực quan… - Dạy học theo dự án. 2.2 Tiến trình dạy học * Ổn định lớp * Kiểm tra bài cũ: GV: Viết CTCT và gọi tên, cho biết bậc của các dẫn xuất có CTPT C 4H9Cl, viết phương trình hóa học của một đồng phân bất kì khi cho tác dụng với dung dịch NaOH, đun sôi với KOH và C2H5OH. * Bài mới: - GV giới thiệu vào bài: Nghiên cứu loại hợp chất thứ 2 trong chương – hợp chất quan trọng làm tiền đề nghiên cứu nhiều loại hợp chất hữu cơ khác. Tích hợp liên môn Hoạt động của GV Hoạt động Nội dung kiến thức của HS HĐ1: Định nghĩa, phân loại GV: chiếu trên phông chiếu một số loại hợp chất là ancol và không phải là ancol: CH3OH, C2H5OH, C6H5OH, C6H13OH, C6H5CH2OH CH3CH2CH2OH, HOCH2CH2OH, CH2 = CH2- CH2 –OH CH2 = CH –OH, Và chỉ cho HS biết hợp chất nào là ancol, hợp chất nào không phải là ancol yêu cầu HS rút ra định nghĩa ancol. GV: chỉnh sửa bổ sung, nhấn mạnh giải thích nguyên tử cacbon no GV: công thức chung của dãy đồng đẳng của ancol no, đơn chức mạch hở? GV yêu cầu HS dựa vào kiến thức đã học phân loại các ancol đã cho GV chiếu bảng phụ trên phông chiếu. Quan sát phông chiếu, trả lời câu hỏi và ghi chép bài. I. Định nghĩa, phân loại 1. Định nghĩa. Ancol là những hợp chất hữu cơ trong phân tử có nhóm hiđroxyl –OH liên kết trực tiếp với nguyên tử cacbon no. Ví dụ: CH3OH, CH3CH2OH, CH2 = CH- CH2 – OH… Ancol no, đơn chức, mạch hở CnH2n+1OH (n 1) 2. Phân loại HS trả lời: Ancol no, đơn chức, mạch hở có công thức chung CnH2n+1OH (n 1) và giải thích HS nghiên cứu và trả lời câu hỏi HĐ2: Đồng phân, danh pháp. GV hướng dẫn HS cách viết CTCT các ancol đồng phân: Viết mạch C không nhánh, sau đó gắn nhóm –OH vào các nguyên tử C khác nhau trong mạch. GV yêu cầu HS so sánh mạch C và vị trí OH trong các CTCT, từ đó giới thiệu đồng phân mạch C, đồng phân vị trí nhóm chức. GV dẫn dắt HS cách làm thuận lợi để tạo ra CTCT các đồng phân mạch C, CTCT các đồng phân vị trí nhóm chức. HS viết các ĐP ancol của C4H9OH (4 đp). Các loại đồng phân của an col đồng phân mạch cacbon và đồng phân vị trí nhóm chức. - HS nghiên cứu SGK trả lời các câu hỏi và ghi chép bài. II. Đồng phân, danh pháp 1. Đồng phân. Có 3 loại: ĐP ancol có -OH 1. ĐP vị trí nhóm chức 2. ĐP mạch cacbon ĐP ete có -O- 3. ĐP nhóm chức. Chỉ xét đồng phân ancol. Thí dụ: các đồng phân rượu của C4H9OH là: CH3 –CH2 – CH2 – CH2OH (1) (2) CH3 - CH2 - CH - CH3 OH (3) CH3 - CH - CH - OH CH3 OH GV: Liên hệ đến cách gọi tên của dẫn xuất halogen của hiđrocacbon hướng dẫn cho HS. CH3 C CH3 CH3 (4) 2. Danh pháp. a) Tên thông thường: Qui tắc: Ancol + tên gốc ankyl+ ic Thí dụ: CH3OH Ancol metylic GV: Yêu cầu HS gọi tên các ancol đã viết. CH3 CH3 - C - OH Ancol tert r - butylic CH3 CH3-CH2-CH-OH Ancol sec-butylic CH3 … CH2 = CH–CHOH Ancol anlylic HOCH2 – CH2 OH Etilen glicol …. CH2OH–CHOH–CH2OH glixerol b) Tên thay thế: Các bước: * Chọn mạch chính dài nhất chứa OH * Đánh số thứ tự ưu tiên phía có OH gần nhất. Qui tắc: Tên hiđrocacbon tương ứng với mạch chính +số chỉ vị trí + ol Ví dụ: 3 1 CH3 2 CH3 - C - OH 2-metylpropan-2-ol CH3 HĐ3: Tính chất vật lí Liên hệ thực tế: ancol etylic tan vô hạn trong nước khi uống rượu xong cảm thấy khát nước, là dung môi hữu cơ nên được dùng để chiết suất các chất hữu cơ từ các chất khác ngâm rượu. GV hướng dẫn HS nghiên cứu bảng 8.2 SGK để tìm nguyên nhân nhiệt độ nóng chảy, nhiệt độ sôi, độ tan trong nước của ancol đều cao hơn nhiều so với các chất đồng phân. GV hướng dẫn HS giải quyết vấn đề theo hai bước. (1) Xét khái niệm lk hiđro. (2)Ảnh hưởng của (lk) hiđro đến tính chất vật lí. GV thông báo thêm: các poli ancol như etilen glicol, grixerol là các chất lỏng có khả năng tạo liên kết hiđro tốt hơn ancol đơn chức có phân tử khối tương đương, nặng hơn nước và có vị - HS nghiên cứu SGK trả lời các câu hỏi và ghi chép bài. III. TÍNH CHẤT VẬT LÍ (SGK). 1) Khái niệm về liên kết hiđro. - Liên kết giữa nguyên tử H mang một phần điện tích dương của nhóm –OH này khi ở gần nguyên tử O mang một phần điện tích âm của nhóm –OH kia tạo thành một liên kết yếu gọi là liên kết hiđro: Thí dụ: - Liên kết hiđro giữa các phân tử ancol: O-H R O-H R O-H R O-H R - Giữa các phân tử ancol với nước. O-H R O-H H O-H R O-H H ngọt. Các ancol trong dãy đồng đẳng của rượu etylic là những chất không màu. 2) Ảnh hưởng của liên kết hiđro đến tính chất vật lí. ( của ancol) - Tan nhiều trong nước. - Có nhiệt độ sôi cao hơn các hiđrocacbon có cùng M với rượu. HĐ4: Tính chất hoá học GV cho HS nhắc lại đặc điểm cấu tạo của phân tử ancol và trên cơ sở các tính chất của ancol etylic (lớp 9) từ đó HS có thể suy ra tính chất hoá học chung của ancol GV Khái quát: Các ancol đều có khả năng tác dụng với Na tạo ancolat + H2. Các ancolat dễ bị thuỷ phân thành Ancol + NaOH. GV làm TN theo hình 8.4 SGK trang 183. + Đ/c Cu(OH)2 + Glixerol + Cu(OH)2 tạo CH2 OH HO CH2 H H O CH CH O CH2 O Cu O CH2 Phản ứng tách nước ancol metylic tạo đimetyl ete có tác dụng gây mê dùng trong y học. Liên hệ thực tế: Không dùng nồi đồng để nấu rượu vì tạo ra anđehit là một phức tan màu xanh da trời ( Làm TN đối chứng) HS theo dõi TN GV cho HS nghiên cứu SGK trang 183 viết phản ứng minh hoạ A = Br, NO2, SO3H GV thông báo cơ chế: nhóm RO của phân tử này sẽ thay thế nhóm OH của phân tử kia: R – O – R’ ankyl ete. ( nếu R, R’ là gốc hiđrocacbon no) GV yêu cầu HS nhắc lại phản ứng điều chế etilen từ rượu etylic trong PTN đã học (SGK) trang 131. Trong đó: Phản ứng tách nhóm OH cùng với H trong gốc hiđrocacbon (C liền kề) để (loại H2O). Trừ metanol. Không nêu qui tắc Zai –xép mà chỉ dừng lại ở ví dụ etanol và propanol. GV trình bày hoặc biểu diễn thí nghiệm nêu trong SGK tr184. HS nhắc lại kiên thức cũ. VI. TÍNH CHẤT HOÁ HỌC - Do phân cực của các liên kết các phản ứng hoá học của ancol xảy ra chủ yếu ở nhóm chức OH: Đó là: * Phản ứng thế nguyên tử H ở nhóm OH * Phản ứng thế nhóm OH * Phản ứng tách nhóm OH cùng với H trong gốc hiđrocacbon(loại H2O). HS quan sát thì nghiệm, nêu hiện tượng, giải thích bằng phương trình hóa học. - HS nghiên cứu SGK trả lời các câu hỏi và ghi chép bài. 1. Phản ứng thế H của nhóm OH. a) Tính chất chung của ancol. - Tác dụng với kim loại kiềm ( Na, K) Tổng quát: 1 CnH2n + 1OH +NaCnH2n + 1ONa+ H2 2 - Các ancol + NaOH  hầu như không phản ứng. b) Tính chất đặc trưng của glixerol. Dùng phản ứng này để phân biệt ancol đơn chức với ancol đa chức (có nhóm OH liền kề). 2C3H5 (OH)3 + Cu(OH)2  [C3H5 (OH)2O]2Cu + 2H2O Màu xanh Đồng (II) glixerat Màu xanh lam 2. Phản ứng thế nhóm OH. a)Phản ứng với axit vô cơ.  R –A + H2O TQ: R-OH + HA (đặc)   b) Phản ứng với ancol (  tạo ete) TQ: R -OH + H -O-R’ 0  H2SO4   ñaëc , 140  C R – O – R’ + H2O Thí dụ: ,140o C 2 4 dac C2H5OH + C2H5OH       C2H5OC2H5 + H2O H SO 3. Phản ứng tách nước: Từ một phân tử rượu ( tạo anken) CH2 - CH2 OH H ancol etylic H2SO4 ñaë c 170 0C CH2 = CH2 + H2O etilen Đối với các ancol no, đơn chức, mạch hở (đk tương tự): CnH2n +1OH 0 C  H2SO4   ñaëc ,170  CnH2n + H2O 4. Phản ứng oxi hoá a) Phản ứng oxi hoá không hoàn toàn. Oxi hoaù khoâng Ancol baäc I Anñehit hoaøn toaøn Thí dụ: độc hại. O -H + Cu O CH3 - CH GV tóm tắt thành sơ đồ: Ancol baäc I oxi hoaù H Anñehit O t0 CH3 - C + Cu + H2O H anñehit axetic (CH3CHO) Ancol baäc II Oxi hoaù khoâng hoaøn toaøn xeton Thí dụ: t0 CH3 - CH - CH3 + CuO CH3 - C- CH3 + Cu + H2O OH Ancol không muội nên dùng nhiên sạch. O axeton t0 Ancol baäc III + CuO cháy tạo ra than được làm liệu Khoâng phaûn öùng b) Phản ứng oxi hoá hoàn toàn: Sản phẩm là CO2 và H2O Nếu đốt cháy ancol thu được số mol H 2O > số mol CO2 => ancol là no, mạch hở. HĐ5: Điều chế Liên hệ thực tế sản xuất ancol etylic từ tinh bột. GV: Yêu cầu HS nhớ lại kiến thức cũ của bài anken, dẫn xuất halogen của hiđrocacbon nêu các phương pháp điều chế ancol - HS nhớ lại kiến thức cũ lời các câu hỏi và ghi chép bài. IV. ĐIỀU CHẾ 1. Phương pháp tổng hợp. + Anken hợp nước ( có xt) CnH2n + H2O 0  xt,t  CnH2n+1 OH Thí dụ : C2H4 + H2O 0  H2SO4 , t C2H5OH + Thuỷ phân dẫn xuất halogen H O ,t o 2 R-X + NaOH     ROH + NaX Thí dụ: CH3Cl + NaOH 0  t CH3OH+ NaCl 2. Phương pháp sinh hoá. ( SGK) Từ tinh bột : (C6H10O5)n + nH2O    nC6H12O6 Tinh bột Glucozơ men men ,32o C C6H12O6     2C2H5OH + 2CO2 HĐ6: Ứng dụng Liên hệ thực tế: sản xuất thuốc gây mê, đồ uống, dung môi hữu cơ… GV yêu cầu HS đọc SGK tại lớp ( nếu còn thời gian) và tóm tắt cách điều chế, nêu ứng dụng của ancol hoặc coi như một bài tập về nhà. GV giúp HS phân biệt được qui mô điều chế. Có thể yêu cầu HS tìm hiểu quy trình sản xuất rượu uống trong nhà máy. HS lên bảng viết sơ đồ theo SGK tr185. GV Cho HS đọc tại lớp HS đọc bài theo yêu cầu của GV HĐ7 : Ancol và thực tiễn cuộc sống Nội Dung Hoạt động của GV V . ỨNG DỤNG Hoạt động của HS Tích hợp liên môn Nêu tên dự GV: Nêu tình huống có vấn đề án về thực tế sử dụng ancol etylic trong ngành công nghiệp rượu bia và trong Tình trạng vi phạm an toàn giao thông do sử dụng rượu bia quá mức nồng độ cồn trong máu vượt quá ngưỡng cho phép Xây dựng GV: xây dựng các tiểu chủ đề các tiểu chủ -Tác hại của việc lạm dụng đề/ý tưởng rượu bia đối với cơ thể con người, dẫn đến hiểm hoạ khi tham gia giao thông. - Lịch sử văn hoá sử và sản xuất rượu bia ở nước ta. Tích hợp lồng ghép các kiến thức liên môn Sinh học (Tác hại của rượu đối với sức khoẻ con người, cơ chế sát khuẩn của cồn ), môn Lịch sử (sự - Hoạt động nhóm, chia sẻ các ý du nhập của rượu bia vào tưởng. - Cùng GV thống nhất các tiểu Việt Nam) chủ đề nhỏ. + Nhận biết màu sắc, trạng thái của cồn, rượu uống. + Cách đo nồng độ cồn của người tham gia giao thông. + Những phương pháp sản xuất - GV: Yêu cầu học sinh thảo rượu bia được áp dụng ở nước ta luận và phát triển chủ đề nếu hiện nay. có + Số liệu các vụ tai nạn giao thông có liên quan đến rượu bia. Lập kế hoạch GV: Yêu cầu học sinh nêu các thực hiện dự nhiệm vụ cần thực hiện của dự án. án. GV: Gợi ý bằng các câu hỏi về nội dung cần thực hiện. GV: Giao cho các nhóm tìm hiểu về ancol và cuộc sống hiện đại. Nhận biết chủ đề dự án HS: Căn cứ vào chủ đề học tập và gợi ý của GV, HS nêu ra các nhiệm vụ phải thực hiện. - Thảo luận và lên kế hoạch thực hiện nhiệm vụ (Nhiệm vụ; Người thực hiện; Thời lượng; Phương pháp, phương tiện; Sản phẩm). + Thu thập thông tin + Điều tra, khảo sát hiện trạng (nếu có thể) + Thảo luận nhóm để xử lý thông tin + Viết báo cáo + Lập kế hoạch tuyên truyền. Bước 2: Thực hiện kế hoạch dự án và xây dựng sản phẩm (1 tuần) (Hoạt động vào thời gian ngoài giờ lên lớp) - Thu thập - Theo dõi, hướng dẫn, giúp đỡ - Thực hiện nhiệm vụ theo kế thông tin các nhóm (xây dựng câu hỏi hoạch. - Điều tra, phỏng vấn, câu hỏi trong phiếu khảo sát hiện điều tra, cách thu thập thông tin, kĩ năng giao tiếp...) trạng - Thảo luận - Theo dõi, giúp đỡ các nhóm - Từng nhóm phân tích kết quả nhóm để xử (xử lí thông tin, cách trình bày thu thập được và trao đổi về cách lý thông tin sản phẩm của các nhóm) trình bày sản phẩm. và lập dàn ý - Xây dựng báo cáo sản phẩm của báo cáo nhóm - Hoàn thành báo cáo của nhóm Bước 3: Báo cáo kết quả và trình bày tại lớp, mỗi nhóm 8 phút tối đa Báo cáo kết - Tổ chức cho các nhóm báo - Các nhóm báo cáo kết quả , có quả cáo kết quả và phản hồi thể trình chiếu Powerpoint, hoặc - Gợi ý các nhóm nhận xét, bổ dưới dạng các file video. - Kĩ năng trình sung cho các nhóm khác. - Các nhóm tham gia phản hồi về bày trước đám phần trình bày của nhóm bạn. đông - Học sinh trả lời câu hỏi dựa vào các kết quả thu thập được từ mỗi nhóm và ghi kiến thức cần đạt vào vở. Nhìn lại quá - Tổ chức các nhóm đánh giá, - Các nhóm tự đánh giá, đánh giá trình thực tuyên dương nhóm, cá nhân. lẫn nhau. hiện dự án GV tổng kết những vấn đề cơ bản về phân bón và thực tiễn cuộc sống. Công tác tuyên truyền… VI. Công cụ đánh giá A. TÁC HẠI CỦA VIỆC LẠM DỤNG RƯỢU BIA * Lịch sử sản xuất rượu bia Trước khi người Pháp đến Việt Nam trong cuộc xâm lăng và đô hộ các thuộc địa, ngành sản xuất rượu thủ công Việt Nam đã có lịch sử rất lâu đời vì người Việt nói chung rất phổ biến tập quán uống rượu, đặc biệt trong các ngày lễ, tết vốn vô tửu bất thành lễ. Năm 1858, khi những người Pháp đầu tiên đặt chân đến Việt Nam, vẫn chưa có sản xuất rượu ở quy mô công nghiệp. Chính phủ bảo hộ khuyến khích người Việt nấu rượu, uống rượu để thu thuế, cấp đăng ký sản xuất rượu, nhưng vẫn không có các biện pháp thu thuế triệt để. Hiện tượng trốn thuế, khai man thuế tràn lan không kiểm soát được. Kể từ khi sản xuất rượu công nghiệp ra đời, chính quyền bảo hộ ra sắc lệnh cấm dân tự nấu rượu, ngừng cấp giấy phép đăng ký kinh doanh nấu rượu cho các hộ gia đình đã từng sản xuất kinh doanh bằng nghề nấu rượu, chỉ duy trì một số làng nghề tập trung để dễ thu thuế. Việc cấm dân nấu rượu ngày càng được kiểm soát chặt chẽ đi đôi với đẩy mạnh sản xuất rượu công nghiệp, một số tổ chức thanh tra riêng do người Pháp trực tiếp chỉ huy đã được thành lập chuyên đi bắt phạt những hộ gia đình nấu rượu không phép, những đối tượng mà dân Việt thường gọi là "Tây đoan", hay "Tàu cáo" (một dạng thanh tra thuế). Một mặt chính phủ bảo hộ đưa ra chính sách ngăn cấm các làng nghề, ngăn cản người dân tự nấu rượu, mặt khác lại bắt người dân phải tiêu thụ theo định mức các loại rượu do nhà máy rượu của Chính phủ bảo hộ sản xuất (rượu công ty, còn gọi là rượu Ty). Nhà nào đóng môn bài đặc biệt mới được cấp tấm bảng to bằng cỡ miếng gạch tàu vẽ chữ "RA" (viết tắt của Régie d'Acool - Sở rượu) về treo trước cửa để bán sản phẩm của Công ty rượu Đông Dương (Société françaises des Distilleries de l’Indochine, thường được dân gian gọi là Công ty Fontaine vì công ty này do A.Fontaine thành lập năm 1901, hãng độc quyền sản xuất kinh doanh trên toàn cõi Đông Dương loại rượu tương đối nhạt được nấu bằng gạo và ngô. Chính phủ bảo hộ tính số người cho mỗi tỉnh, mỗi làng mà chia rượu giao cho quan lại đưa dân nhận lãnh rượu. Đồng thời giao kế hoạch tiêu thụ rượu đến các cấp chính quyền huyện, tổng, xã, đề ra các biện pháp cụ thể như ma chay, cưới xin, lễ hội đình đám bắt buộc phải mua rượu đủ theo quy định. Tuy vậy rượu Ty vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu của người dân, và vì muốn dùng thứ rượu dân tộc có nồng độ cao, cay và thơm hơn, khắp nơi người ta vẫn lén lút nấu rượu bằng gạo nếp rồi đem dấu trong những lùm tranh, lùm đế ở xa nhà, hoặc khi thấy Tây đoan, Tàu cáo đến bắt, nghe động thì bê tất cả nồi rượu, bình rượu chạy vội dấu dưới đồng cỏ hoang dại mọc toàn cây đế, một loài cây giống cỏ năn, cỏ lác, cỏ tranh, hay lau sậy mọc cao vút đầu. Tên gọi rượu đế trong Nam xuất xứ từ đó. Loại rượu này cũng còn được gọi là rượu lậu do quy trình nấu rượu và tiêu thụ rượu hầu hết đều là lậu. Rượu lậu được chuyên chở bằng mọi cách, thậm chí bằng cả áo quan, hay bằng bất cứ phương tiện nào có thể tránh con mắt xoi mói dò xét của những vị chức sẵc truy thu thuế và tình trạng buôn rượu lậu, nấu rượu lậu, tiêu thụ rượu lậu trở nên phổ biến trong suốt nửa cuối thế kỷ 19 kéo dài đến gần cuối thế kỷ 20 ngay cả khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được thành lập sau 1945. Năm 1933, do tình trạng buôn và nấu rượu lậu khó kiểm soát, do nguồn thu từ sản xuất và tiêu thụ rượu góp phần không nhỏ vào ngân sách, đồng thời, công nghiệp phát triển dẫn đến yêu cầu cồn ngày càng nhiều, rượu sản xuất công nghiệp không đủ đáp ứng yêu cầu của người dân. Vì thế chính quyền bảo hộ đã để cho một số làng nghề thủ công có truyền thống lâu đời nấu rượu thủ công ở Việt Nam, như làng Vân (Bắc Giang),Kim Sơn (Ninh Bình), Xuân Lai (Sóc Sơn), Quan Đình (Từ Sơn), Đỗ Xá (Hải Dương), Văn Điển (Hà Nội) v.v. tiếp tục sản xuất rượu để bán. Tuy nhiên, việc sản xuất vẫn phải chịu sự giám sát chặt chẽ của Chính phủ bảo hộ để thu thuế. Cũng vì rượu ta nấu nó cho rượu lậu, muối ta làm nó bảo muối gian (Phan Bội Châu, trong bài thơ Á tế Á ca), nên tại miền Bắc Việt Nam người dân đã tự đặt tên cho loại rượu mình nấu là rượu ngang vì rượu nấu và tiêu thụ theo kiểu đi ngang về tắt; rượu cuốc lủi vì vừa bán vừa lủi như con chim cuốc; hoặc để so sánh với rượu "quốc gia" khi các cụ nhà nho xưa nhại tiếng ngoại bang nationale spirit gọi rượu quê của người Việt là rượu quốc hồn quốc túy. Tiếng là quốc hồn quốc túy mà phải nấu chui nấu lủi, uống chui uống lủi thì gọi là rượu quốc lủi. Trong một cách hiểu khác, từ quốc lủi còn có ý đối lập với rượu quốc doanh, do bối cảnh Việt Nam từ 1945 đến trước thời kỳ đổi mới, ngành rượu bị nhà nước độc quyền và cấm dân nấu rượu, những năm tháng không ai dám nấu rượu công khai dù là nấu bằng sắn, và chỉ có lý do rất hợp lý là nấu rượu để lấy bỗng rượu nuôi lợn chứ không phải lấy rượu để đầu độc con người. Nguyên liệu để làm rượu cuốc lủi, rượu đế rất đơn giản gồm nguyên liệu chính là các loại ngũ cốc có hàm lượng tinh bột cao thông dụng như gạo tẻ, gạo nếp, gạo lứt, gạo nương lúa mạch, ngô hạt, mầm thóc, sắn, hạt mít, hạt dẻ, hạt bo bo v.v. Tuy một số vùng miền có những nguyên liệu đặc trưng (như mầm thóc, ngô, hạt mít, hạt dẻ v.v.), nhưng nói chung các loại gạo nếp cho thành phẩm rượu được ưa chuộng nhất trong cộng đồng tại khắp các vùng miền do gạo rất thơm và rượu có độ ngọt nhất định. Các loại gạo nếp như nếp cái hoa vàng, nếp bông chát, nếp ruồi, nếp mỡ, nếp mường, nếp sáp, nếp thơm[2], nếp hương, nếp ngự, nếp quạ, nếp cái, nếp tiêu, nếp sột soạt, nếp ba tháng [7] v.v. được sử dụng nấu rượu cho thấy sự đa dạng và đôi khi, là sự kén chọn hết sức cầu kỳ tại các gia đình nghệ nhân làm rượu. Rượu nấu bằng các loại gạo tẻ thường mang tính phổ thông, vùng miền nào cũng có thể sản xuất và tiêu thụ được, tuy có một số loại gạo tẻ ngon được lựa chọn nấu rượu như gạo cúc, gạo co, gạo trì, gạo ba trăng, gạo trăng biển, gạo tứ quý, gạo nhe, gạo bắc thơm, gạo tám, gạo nàng hương v.v. vẫn cho những chén rượu quý ngọt ngào hương vị. Men rượu được chế từ nhiều loại thảo dược (thuốc Nam, thuốc Bắc) như cam thảo, quế chi, gừng, hồi, thạch xương bồ, bạch chỉ, xuyên khung, rễ ớt v.v… theo những bí quyết, công thức riêng của từng gia đình. Những công thức này cùng với kỹ thuật ủ men nhiều khi không truyền cho người ngoài nhằm giữ bí quyết chất lượng rượu của nghệ nhân độc nhất vô nhị. Nhào trộn hỗn hợp với bột gạo, thậm chí cả bồ hóng và ủ cho bột hơi nở ra sau đó vo, nắm từng viên quả nhỏ để lên khay trấu cho khỏi dính. Đem phơi thật khô và cất dùng dần. Men rượu và kháp rượu quyết định chất lượng thành phẩm rượu. Tuy nhiên, quy trình ủ men, nấu rượu cũng hết sức quan trọng vì liên quan đến tay nghề, kinh nghiệm và công phu của người thực hiện. Ở một phương diện khác, nguồn nước được sử dụng khi đồ nguyên liệu, ủ men và khuấy trộn trong nồi chưng rượu cũng đặc biệt quan trọng để cho chất lượng rượu từng địa phương khác nhau, như rượu Bình Khương Thôn, rượu Mẫu Sơn, rượu Bàu Đá, rượu Làng Vân đều được quảng cáo là chất lượng quyết định bởi nguồn nước. Nguyên liệu chính được nấu, đồ chín, đánh tơi và trộn với men rượu tán thật nhỏ mịn cho đều khi nguyên liệu vẫn còn ấm. Đem ủ kín trong chỗ ấm một thời gian nhất định tùy theo thời tiết, loại nguyên liệu, loại men, vùng miền và kinh nghiệm người nấu rượu khoảng vài ngày cho sản phẩm lên men chuyển hóa tinh bột thành rượu. Sau đó cho sản phẩm đã lên men vào nồi chưng cất đun lửa đều để rượu (cồn) bay hơi. Trên miệng nồi có một ống nhỏ để dẫn hơi rượu và một phần hơi nước trong quá trình nấu ra ngoài. Ống dẫn dài và một phần lớn độ dài của ống được ngâm trong bồn nước lạnh để hơi rượu ngưng tụ thành giọt lỏng chảy vào bình/chai đựng rượu. Nếu lấy ít rượu ta sẽ được "rượu nước đầu" hay rượu bọt, có nồng độ cao nhất (thường 15 lít gạo cho được khoảng 5 lít rượu có nồng độ cao đến 64-65 độ). Tuy nhiên, hiếm khi người sản xuất rượu chỉ lấy nước đầu, thường người ta còn chế thêm nước vào nồi, khuấy kỹ và tiếp tục chưng cất cho các nước 2, nước 3, sau đó đem phối trộn với nước đầu để cho loại rượu có nồng độ vừa phải. Sản phẩm Sản phẩm của quy trình chưng cất sẽ là rượu có nồng độ cồn tùy theo yêu cầu và dụng ý của người chưng rượu. Nếu muốn độ rượu thật cao cho một mục đích nào đó (như dùng để ngâm rượu thuốc) có thể đem rượu chưng tiếp lần 2, nếu muốn nồng độ thấp thì người ta phối trộn các nước rượu đậm nhạt vào nhau. Những nước rượu cuối rất nhạt do độ cồn thấp, nhiều nước và đục màu nước vo gạo, sẽ được sử dụng làm dấm hay nước bỗng rượu, một loại gia vị dùng để nấu canh chua như canh cá, canh hến, canh riêu, hoặc một số món lẩu. Hèm rượu (có nơi gọi là bỗng rượu hay bã rượu) là sản phẩm còn lại của nguyên liệu sau khi đã chưng cất, có thể sử dụng chăn nuôi và là một thức ăn gia súc, nhất là cho lợn ăn rất tốt. Các gia đình nấu rượu thường kiêm chăn nuôi gia súc để cải thiện thu nhập. Quá trình chưng cất rượu nhằm tách hỗn hợp rượu và nước có nhiệt độ sôi khác nhau. Ở áp suất thường, rượu sôi và bốc hơi ở 78oC, còn nước là 100oC. Khi chưng cất rượu được tách ra khỏi nước nhờ bay hơi dễ hơn nước. Quá trình chưng cất được tiến hành bằng cách đun sôi hỗn hợp lên men, hơi bay lên được dẫn qua ống dẫn và được làm lạnh bằng cách cho qua bồn nước để ngưng tụ rượu. Dung dịch rượu thu được trong suốt có mùi thơm đặc trưng và nồng độ rượu sẽ giảm dần theo thời gian chưng cất. Tùy theo yêu cầu của khách hàng mà ta có thể tiến hành pha trộn các loại rượu thu được ở các khoảng thời gian chưng cất khác nhau để tạo ra rượu có nồng độ cao thấp khác nhau. * Tác hại của việc lạm dụng rượu bia Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng chóng mặt của ngành công nghiệp rượu, bia thì xu hướng lạm dụng rượu, bia ở Việt Nam đang ngày càng gia tăng một cách báo động. Đáng lo ngại hơn là giới trẻ sử dụng rượu, bia ngày càng nhiều… Mức độ nguy hại hơn cả thuốc lá Bà Nguyễn Thị Xuyên, Thứ trưởng Bộ Y tế cho biết: Rượu, bia đứng thứ 5 trong số 10 nguyên nhân gây tử vọng cao nhất trên toàn cầu. Chi phí dành cho rượu, bia đã tạo gánh nặng cho nền kinh tế, nhất là các nước đang phát triển. Ước tính, chi phí cho rượu, bia và giải quyết hậu quả tác hại của rượu, bia chiếm 2 - 8% GDP quốc gia. Trước vấn nạn này, một số nước triển khai về chính sách phòng ngừa lạm dụng rượu, bia. Ở Việt Nam, khi đời sống ngày một nâng cao thì xu hướng sử dụng rượu, bia trở nên tràn lan, gây hậu quả nghiêm trọng. Bình quân cả nước mỗi ngày có 40 người chết thì trong đó không ít người có nguyên nhân là do rượu, bia và tình trạng bạo lực cũng bắt nguồn từ đây. Rượu, bia là chất gây nghiện và có thể trở thành quốc nạn với nhiều vấn đề xã hội như tai nạn giao thông, hỏa hoạn, chết đuối, bạo lực, giết người và tự tử, gây rối trật tự xã hội: tan vỡ gia đình, lơ là công việc... Những năm trước, ở Việt Nam cũng có các chính sách phòng ngừa lạm dụng rượu bia nhưng vì nhiều lý do nên thực thi của các chính sách tác động đến sản xuất và kinh doanh rượu, bia không cao. Say rượu, bia là nguyên nhân nhiều vụ TNGT Theo thống kê của Viện Chiến lược chính sách y tế, có tới 4,4% người dân Việt Nam phải gánh chịu bệnh tật do hậu quả của rượu, bia mang lại. Xu hướng này đang ngày càng gia tăng đáng lo ngại trong giới trẻ. Qua điều tra về sức khoẻ vị thành niên và thanh niên (từ 14 - 15 tuổi) cho thấy: 69% nam và 28% nữ đã từng uống bia, rượu. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng đã thống kê: Rượu, bia có liên quan đến 3,2% tổng số tử vong trên thế giới và 4% người mắc bệnh tật có liên quan đến bia, rượu (58,3 triệu người/năm). GS. Sally Caswell, đại diện của WHO cảnh báo: Nghiên cứu gánh nặng toàn cầu về thương tật năm 2002 cho thấy, có tới trên 58 triệu người/năm sống với thương tật do rượu, bia trên toàn thế giới, gần xấp xỉ bằng thuốc lá. Tuy nhiên, mức độ nguy hại của rượu, bia còn lớn hơn so với thuốc lá nhiều vì nó còn gây sự rối loạn trật tự xã hội, tác hại đối với người khác, tác động về kinh tế. Đặc biệt, 10 năm gần đây, ngành công nghiệp rượu, bia đã có sự tăng trưởng, mở rộng đáng kể. Sự gia tăng nhanh chóng về mức tiêu thụ rượu, bia và tác hại của nó cùng với sự thiếu hụt chính sách phù hợp. Ở Việt Nam, sự xâm nhập của rượu, bia vào giới trẻ tăng đáng kể. Độ tuổi trung bình bắt đầu uống rượu, bia ở Việt Nam là 24 tuổi. Độ tuổi trung bình ở một số nước phương Tây là 15 tuổi. Đáng lo ngại là việc sử dụng nhiều của giới trẻ sẽ gây tổn thương phát triển của não, nguy cơ phụ thuộc sau này. Ông Nguyễn Văn Tiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng, hiện nay, chúng ta vẫn lẫn lộn giữa lợi và hại của rượu, bia. Chúng ta cần có những bằng chứng cụ thể về tác hại của rượu, bia đối với sức khỏe và cần có chính sách kiểm soát rượu bia, chứ không thể thả lỏng như hiện nay. Chính vì vậy, Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội đã gửi thư cảnh báo tác hại của việc lạm dụng rượu, bia đến Chính phủ và các bộ, ngành liên quan. Làm gì để giảm tác hại? Trước vấn nạn trên, Bộ Y tế đã tổ chức hội thảo nhằm chia sẻ kinh nghiệm của WHO thế giới và các nước trong việc phòng chống lạm dụng rượu, bia. Các nước đã chia sẻ kinh nghiệm về chính sách giảm cầu rượu bia, về giảm cung rượu bia (bởi rượu, bia không phải hàng hóa thông thường) và giảm tác hại của rượu bia. TS. Martin Wall, thành viên WHO cho rằng: Chính sách quốc gia để giảm cầu rượu, bia đó là cần phải có những quy định về giá, thu thuế và các loại thuế thu riêng. Mặc dù rượu, bia là chất gây nghiện, nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy, mức tiêu thụ rượu bia sẽ giảm khi tăng giá mặt hàng này và ngoài ra nó còn tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Giải pháp tiếp theo nữa là giảm nguồn cung cấp rượu, bia đó là: Tăng vai trò của Nhà nước trong sản xuất và kinh doanh rượu bia; Những quy định về những điểm cấm/hạn chế bán bia rượu; Giải quyết vấn đề về sử dụng rượu bia ngoài độ tuổi cho phép… Đại diện của Thái Lan chia sẻ kinh nghiệm được triển khai ở nước họ, đó là sử dụng thuế thu riêng chi cho mục đích y tế và sức khỏe. Việc triển khai giải pháp này đã làm giảm mức tiêu thụ rượu, bia và các tác hại có liên quan. Đến nay, đã có 9 chính sách quốc gia về kiểm soát rượu, bia như: cấm bán cho người dưới 18 tuổi; cấm bán trong trường học; tăng thuế hàng hóa; đạo luật về kiểm soát rượu bia… Bà Nguyễn Thị Xuyên cho biết: Năm 2009, sẽ trình Chính phủ Chính sách quốc gia phòng, chống tác hại lạm dụng rượu, bia giai đoạn 2010 - 2020. Trong dự thảo đề cương chính sách này, một trong những nội dung cơ bản là cấm quảng cáo, khuyến mãi rượu, bia dưới mọi hình thức./. * Đồ uống có cồn và những tác động đến cơ thể con người B. CÂU HỎI LIÊN HỆ THỰC TẾ CUỘC SỐNG * Vì sao dụng cụ phân tích rượu có thể phát hiện các lái xe đã uống rượu? Thành phần chính của các loại nước uống có cồn là rượu etylic. Đặc tính của rượu etylic là dễ bị oxi hóa. Có rất nhiều chất oxi hóa có thể tác dụng với rượu nhưng người chọn một chất oxi hóa là crom(VI) oxit CrO3. Đây là một chất oxi hóa rất mạnh, là chất ở dạng kết tinh thành tinh thể màu vàng da cam. Bột oxit CrO 3 khi gặp rượu etylic sẽ bị khử thành oxit Cr2O3 là một hợp chất có màu xanh đen. Các cảnh sát giao thông sử dụng các dụng cụ phân tích rượu etylic có chứa CrO3. Khi tài xế hà hơi thở vào dụng cụ phân tích trên, nếu trong hơi thở có chứa hơi rượu thì hơi rượu sẽ tác dụng với CrO3 và biến thành Cr2O3 có màu xanh đen. Dựa vào sự biến đổi màu sắc mà dụng cụ phân tích sẽ thông báo cho cảnh sát biết được mức độ uống rượu của tài xế. Đây là biện pháp nhằm phát hiện các tài xế đã uống rượu khi tham gia giao để ngăn chặn những tai nạn đáng tiếc xảy ra. Ở Việt Nam: 50 mg/100ml máu hoặc 25 mg/lít khí thở. Người điều khiển phương tiện trên đường mà trong máu, hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 80 miligam/100 mililít máu; hoặc vượt quá 0,4 miligam/1 lít khí thở sẽ bị phạt từ 2- 3 triệu đồng. Mức phạt từ 4-6 triệu đồng đối với người điều khiển phương tiện trên đường mà trong máu, hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá 50- 80 miligam/100 mililít máu; hoặc vượt quá 0,25 miligam- 0,4 miligam/1 lít khí thở. Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển phương tiện vi phạm còn bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 30 đến 60 ngày tùy theo mức độ vi phạm. Theo Phòng CSGT Công an TP Hà Nội, người vi phạm quy định trên còn phải học lại Luật Giao thông đường bộ. * Vì sao đốt xăng, cồn thì cháy hết sạch, còn khi đốt gỗ, than đá lại còn tro? Bởi vì so với gỗ và than đá thì xăng và cồn là những hợp chất hữu cơ có độ thuần khiết cao. Khi đốt xăng và cồn chúng sẽ cháy hoàn toàn tạo thành CO2 và hơi H2O, tất cả chúng đều bay vào không khí. Xăng tuy là hỗn hợp nhiều hiđrocacbon, nhưng chúng là những chất dễ cháy. Vì vậy cho dù ở trạng thái hỗn hợp nhưng khi đốt đều cháy hết. Với than đá và gỗ thì lại khác. Cả hai vật liệu đều có những thành phần rất phức tạp. Những thành phần của chúng như xenlulozơ, bán xenlulozơ, gỗ, nhựa là những hợp chất hữu cơ dễ cháy và có thể “cháy hết”. Nhưng gỗ thường dùng cón có các khoáng vật. Những khoáng vật này đều không cháy được.Vì vậy sau khi đốt cháy gỗ sẽ còn lại và tạo thành tro.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan