VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ PHƯƠNG DUNG
GÓP VỐN THÀNH LẬP
CÔNG TY TNHH HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ chính
xác cao, trung thực và đáng tin cậy.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện khoa học xã hội.
Tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện khoa học xã hội xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Thị Phương Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH
LẬP CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN
TRỞ LÊN ........................................................................................................ 6
1.1.Khái quát chung về Công Ty TNHH Hai Thành Viên Trở Lên ......... 6
1.2. Khái quát chung về góp vốn thành lập Công ty TNHH hai thành
viên trở lên .............................................................................................. 13
1.3. Những yếu tố tác động đến việc góp vốn thành lập công ty TNHH
hai thành viên trở lên............................................................................... 22
1.4. Pháp luật điều chỉnh việc góp vốn cho công ty TNHH hai thành
viên trở lên: ............................................................................................. 23
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP
CÔNG TY TNHH HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ..................................................................................................... 26
2.1. Quy định pháp luật về góp vốn thành lập công ty TNHH hai thành
viên trở lên và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay .......................... 26
2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật góp vốn
thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam hiện nay......... 50
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY TNHH HAI THÀNH VIÊN TRỞ
LÊN THEO PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY. 56
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập công ty
TNHH hai thành viên trở lên .................................................................. 56
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập công
ty TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam hiện nay............................ 58
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 65
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DN
: Doanh nghiệp
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận
chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt
động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng
và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế
xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim
ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các
vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo.... Theo Luật doanh
nghiệp 2014, ở Việt Nam hiện nay có những loại hình doanh nghiệp sau:
Doanh nghiệp nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty TNHH một thành viên,
Công ty TNHH hai thành viên trở lên, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư
nhân. Trong các loại hình doanh nghiệp trên, công ty TNHH hai thành viên
trở lên giữ tỉ trọng lớn và có đóng góp đáng kể trong sự phát triển cuả xã hội.
Trong doanh nghiệp, vốn là điều kiện quan trọng quyết định sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Dân ta từng có câu: “Buôn tài không bằng dài
vốn” do vậy, có thể nói vốn là yếu tố then chốt quyết định sự thành công hay
thất bại của doanh nghiệp. Vốn là cơ sở xác lập địa vị pháp lý của doanh
nghiệp, vốn đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo mục tiêu
đã định.
Nhận thấy tầm quan trọng của vốn trong doanh nghiệp, các doanh nghiệp
đặc biệt quan tâm đến vấn đề tạo lập, quản lý và sử dụng đồng vốn sản xuất
kinh doanh sao cho đem lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp. Về phương
diện quản lý nhà nước, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã cải thiện các quy
định liên quan đến vốn như tài sản góp vốn, thời hạn góp vốn, tăng giảm vốn,
mua bán chuyển nhượng vốn góp… trong doanh nghiệp nói chung và từng
loại hình doanh nghiệp cụ thể, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho doanh
nghiệp trong quá trình góp vốn thành lập và trong quá trình hoạt động, kinh
1
doanh. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng quy định về góp vốn thành lập công ty
TNHH hai thành viên trở lên vẫn bộc lộ những thiếu sót về hình thức góp
vốn, đối tượng tham gia góp vốn, thời gian góp vốn, …
Để tìm hiểu và nghiên cứu sâu hơn về công ty TNHH hai thành viên trở lên
cũng như thấy được sự quan trọng của góp vốn thành lập trong Công ty TNHH
hai thành viên nên em chọn đề tài: “Góp vốn thành lập Công ty TNHH hai
thành viên trở lên theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có một số đề tài nghiên cứu và một số bài viết chuyên ngành có đề
cập ở nhiều góc độ khác nhau về góp vốn như:
- Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay
– Luận văn thạc sỹ của tác giả: Hoàng Tố Uyên năm 2013
- Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ vào công ty theo pháp luật Việt
Nam hiện nay – Luận văn Thạc sỹ của tác giả: Phạm Thu Trang năm 2013
- Tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện
nay – Luận văn thạc sỹ của tác giả: Lý Thị Kim Phượng năm 2016
- Phương thức góp vốn bằng tiền mặt thành lập doanh nghiệp liên
doanh theo pháp luật Việt Nam hiện nay - Luận văn thạc sỹ của tác giả: Phạm
Xuân Hà năm 2016
- Góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi thành lập Công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên theo pháp luật Việt Nam hiện nay – Luận văn
thạc sỹ của tác giả: Trần Thị Yến năm 2016
- Pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất - Luận Án Tiến Sỹ của
tác giả Sỹ Hồng Nam năm 2016.
- Những hạn chế, bất cập về thành lập, góp vốn vào doanh nghiệp trong
Luật doanh nghiệp 2014, Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thanh Tùng
năm 2018.
2
- Định giá tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên theo Luật doanh nghiệp 2014, Luận văn thạc sỹ Trần Bình
An (2015);
- Định đoạt phần vốn góp của thành viên trong công ty trách nhiệm hữu
hạn theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giá Vũ Tuấn
Anh (2012);
Mặc dù các nghiên cứu trên đã nghiên cứu về góp vốn có tính hệ thống
và tương đối đầy đủ nhưng liên quan đến đề tài này vẫn chưa có một công
trình nào đề cập một cách chi tiết và toàn diện. Trong một khía cạnh nhất
định, các công trình nghiên cứu trên đã đưa ra nhiều cơ sở lý luận và thực tiễn
quan trọng giúp tác giả có thể kế thừa những luận cứ khoa học đó để góp phần
hoàn thiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là phân tích, luận giải cơ sở lý luận và thực trạng
pháp luật về góp vốn thành lập Công ty TNHH hai thành viên trở lên theo
pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Từ đó nêu lên những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy định pháp luật về góp vốn trong công
ty TNHH hai thành viên trở lên tạo cơ sở cho việc góp vốn trong loại hình
doanh nghiệp này một cách minh bạch, rõ ràng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của những bên tham gia.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, lý giải một số vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn thành lập
công ty TNHH hai thành viên trở lên.
- Làm sáng tỏ những quy định mới của Luật Doanh nghiệp 2014 và
pháp luật có liên quan về góp vốn trong công ty TNHH hai thành viên trở lên
ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng pháp luật điều chỉnh về góp vốn trong công ty
TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam hiện nay.
3
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về góp vốn trong công ty TNHH hai thành viên trở lên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Tập trung phân tích các quy định về góp vốn trong công ty TNHH hai
thành viên trở lên trong Luật doanh nghiệp 2014, các văn bản hướng dẫn thi
hành. Đồng thời nghiên cứu, phân tích và so sánh các loại Luật doanh nghiệp
trước đây để thấy rõ sự phát triển có kế thừa, có học hỏi kinh nghiệm của
nước ngoài trong quy định của pháp luật về góp vốn trong công ty TNHH hai
thành viên trở lên.
Luận văn tập trung nghiên cứu về pháp luật góp vốn thành lập công ty
TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê Nin, cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử; bám sát các văn bản chỉ đạo của Đảng, quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và
hoạt động của Doanh nghiệp nói riêng.
Các phương pháp được vận dụng để giải quyết những nội dung trong
luận văn là phương pháp tổng hợp, phương pháp đối chiếu, phương pháp so
sánh luật học, diễn giải, chứng minh, …
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Làm rõ bản chất pháp lý và nghĩa vụ của các bên tham gia góp vốn
thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên.
- Nêu một số hạn chế, bất cập liên quan đến việc góp vốn khi thành lập
và góp vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH hai thành
viên trở lên nảy sinh từ thực tiễn thực thi Luật Doanh nghiệp năm 2014 từ đó
đưa ra giải pháp hoàn thiện.
4
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm phần mở đầu và 3 chương với nội dung như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về góp vốn thành lập công ty TNHH
hai thành viên trở lên
Chương 2: Thực trạng pháp luật về góp vốn thành lập công ty TNHH hai
thành viên trở lên và thực tiễn áp dụng ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về góp vốn thành lập
công ty TNHH hai thành viên trở lên theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
1.1.Khái quát chung về Công Ty TNHH Hai Thành Viên Trở Lên
1.1.1. Khái niệm Công Ty TNHH Hai Thành Viên Trở Lên
Trên phương diện lý thuyết hiện nay có khá nhiều cách hiểu về doanh
nghiệp vì suy cho cùng tiếp cận doanh nghiệp ở góc độ nào thì sẽ có định
nghĩa doanh nghiệp ở góc độ đó. Theo M.Francois Peroux, “doanh nghiệp là
một đơn vị tổ chức sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có
sự quan tâm giá cả của các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty
thực hiện nhằm bán ra trên thị trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ
để nhận được khoản tiền chênh lệch giữa giá bán sản phẩm với giá thành của
sản phẩm ấy.”.
Còn theo quan điểm phát triển, doanh nghiệp là một cộng đồng người
sản xuất ra những của cải.
Trước đó, các hoạt động kinh doanh thực hiện dưới hình thức hợp
danh hoặc doanh nghiệp tư nhân. Cũng kể từ thế kỷ 19 và đặc biệt trong nửa
đầu thế kỷ 20, công ty là loại hình kinh doanh phát triển mạnh mẽ nhất. Trên
thế giới hiện nay nhiều nước thay vì thiết lập luật doanh nghiệp, đã thiên về
quy định tổ chức và hoạt động của các loại hình công ty.
Tại các nước tư bản, họ quan điểm công ty là một tổ chức kinh tế
được thành lập theo vốn, thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về trái vụ
của công ty trong phạm vi số vốn mà thành viên đó góp vào công ty. Công ty
được thành lập dựa trên một thỏa thuận về quản lý điều hành, thường gọi là
điều lệ, có thể phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn và được thừa
nhận là pháp nhân ở hầu hết các nước.
6
Như vậy, dù định nghĩa ở góc độ mở rộng là doanh nghiệp hoặc xem
xét ở góc độ hẹp là công ty, thì hình thức thể hiện phổ biến nhất của doanh
nghiệp là một tổ chức kinh tế và mục đích chủ yếu nhất của n ó là kinh doanh.
Theo Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014 của Quốc Hội
thì “doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm
mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.” (Khoản 7 điều 4)
Hiện nay, khoa học pháp lý tồn tại nhiều tiêu chí để phân loại doanh
nghiệp như phân loại theo hình thức sở hữu, mục đích hoạt động, quy mô
kinh doanh nhưng chủ yếu dựa vào các tiêu chí như: hình thức pháp lý, tư
cách pháp nhân và chế độ chịu trách nhiệm về tài sản
Thứ nhất, nếu dựa vào tiêu chí hình thức pháp lý, Luật Doanh nghiệp
2014 quy định có bốn hình công ty bao gồm: Công ty TNHH, Công ty cổ
phần, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân.
Công ty cổ phần là công ty mà vốn điều lệ của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ
phần của doanh nghiệp được gọi là cổ đông và chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh
nghiệp.
Công ty hợp danh là công ty trong đó có ít nhất hai thành viên là chủ
sở hữu của công ty, cùng kinh doanh dưới một cái tên chung. Thành viên hợp
danh phải là cá nhân và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các
nghĩa vụ của công ty, thường là các cá nhân có sự thân cận về mặt nhân thân.
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ.
7
Công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, là công
ty mà các thành viên trong công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Thứ hai, nếu dựa vào tiều chí tư cách pháp nhân để phân loại doanh
nghiệp thì có hai loại: doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và doanh nghiệp
không có tư cách pháp nhân.
Một tổ chức có tư cách pháp nhân là tổ chức có tài sản riêng độc lập và
tự chịu trách nhiệm bằng tài sản ấy đối với mọi nghĩa vụ phát sinh của mình.
Ngoài ra nó tự nhân danh mình tham gia vào các quan hệ do pháp luật quy
định.
Căn cứ vào định nghĩa trên, Luật doanh nghiệp quy định rằng chỉ có
doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân do tài sản của doanh
nghiệp tư nhân không được tách riêng ra với tài sản của chủ doanh nghiệp tư
nhân. Các công ty khác như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty hợp danh đều có tư cách pháp nhân. Vậy công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên là công ty có tư cách pháp nhân.
Thứ ba, nếu dựa vào tiêu chí chế độ trách nhiệm thì các doanh nghiệp
được chia làm hai loại: doanh nghiệp chịu chế độ trách nhiệm hữu hạn và
doanh nghiệp chịu chế đọ trách nhiệm vô hạn.
Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn là việc chủ sở hữu/thành viên công ty
phải chịu trách nhiệm bằng mọi tài sản của mình đối với việc thực hiện nghĩa
vụ của công ty khi công ty không có đủ tài sản để thực hiện nghĩa vụ tài chính
của nó. Theo Luật Doanh nghiệp 2014, chỉ có doanh nghiệp tư nhân và thành
viên góp danh trong công ty hợp danh phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn
khi tham gia vào mô hình công ty này.
Chế độ trách nhiệm hữu hạn là việc chủ sở hữu hoặc các thành viên thực
hiện góp vốn vào công ty chỉ phải chịu trách nhiệm với công ty về các khoản
8
nợ và nhận lợi ích tương ứng với phần mình góp vào công ty mà không phải
lấy tài sản cá nhân ra để chịu trách nhiệm. Dựa vào chế độ chịu trách nhiệm
này để phân loại doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định có công ty
TNHH trong đó có Công ty TNHH hai thành viên trở lên, công ty cổ phần và
thành viên góp vốn trong công ty hợp danh sẽ có trách nhiệm hữu hạn, tức là
cổ đông/thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
Như vậy, công ty TNHH hai thành viên trở lên là doanh nghiệp, trong
đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân. Số lượng thành viên không vượt quá
năm mươi. Thành viên trong công ty TNHH hai thành viên chịu phải trách
nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác phát sinh của doanh nghiệp
trong phạm vi số vốn đã đóng góp vào doanh nghiệp. Công ty TNHH hai
thành viên có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền cấp.
1.1.2. Đặc điểm của Công ty TNHH hai thành viên trở lên:
Do công ty TNHH hai thành viên trở lên là một loại hình doanh
nghiệp. Vì vậy, mô hình công ty này có những đặc điểm chung của doanh
nghiệp như sau:
Một là, Công ty TNHH hai thành viên trở lên có hoạt động kinh doanh
hoặc cung ứng dịch vụ thường xuyên. Công ty TNHH hai thành viên cũng
như đa phần các doanh nghiệp được thành lập nhằm mục đích kinh doanh,
buôn bán hàng hóa nhằm tạo ra phần chênh lêch hay tạo lợi nhuận hoặc cung
ứng dịch vụ hoặc có thể vừa cung cấp hàng hóa và dịch vụ để phục vụ lợi ích
của cá nhân, tập thể trong xã hội. Tuy nhiên, hiện nay cũng có một số doanh
nghiệp đặc biệt, được thành lập và hoạt động nhưng mục tiêu chính không vì
lợi nhuận. Các doanh nghiệp này phần lớn là doanh nghiệp do Nhà nước
thành lập và chủ sở hữu hoạt động trong lĩnh vực công ích hoặc doanh nghiệp
xã hội, thực hiện các hoạt động vì nhiệm vụ được nhà nước giao hoặc lợi ích
9
của cộng đồng và xã hội, chẳng hạn các doanh nghiệp về điện, nước, vệ sinh
công cộng...
Trong đời sống kinh tế xã hội, bất kỳ thực thể nào cũng có thể làm nảy
sinh các hoạt động sản xuất kinh doanh hay cung ứng dịch vụ. Ví dụ: một
người nông dân trồng cây, khi thu hoạch, có thể bán sản phẩm của mình để
kiếm thêm thu nhập sau khi đã đủ để ăn, họ thực hiện hoạt động này một lần
trong trong năm hoặc vài năm một lần một cách tự phát. Các hoạt động lẻ tẻ
và mang tính không liên tục như vậy không phải đặc trưng của doanh nghiệp,
vốn có hoạt động sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ rất thường xuyên,
chuyên nghiệp và liên tục. Một doanh nghiệp phải có đầy đủ hoạt động kinh
doanh mà hoạt động đó phải được thực hiện trong một quá trình lâu dài. Theo
các quy định hiện hành của Việt Nam, kinh doanh là việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến
tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh
lợi. Như vậy, chỉ khi một tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động kinh doanh,
cung ứng dịch vụ cho người tiêu dùng một cách chuyên nghiệp, liên tục,
thường xuyên, lâu dài thì tổ chức đó mới có thể được coi là một doanh
nghiệp.
Hai là, Công ty TNHH hai thành viên trở lên có tính tổ chức chặt chẽ.
Đa phần các doanh nghiệp đều là những thực thể có tính tổ chức. Công ty
TNHH hai thành viên cũng không năm ngoài quy luật đó. Chính vì vậy, pháp
luật nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, quy định về tư cách “pháp nhân”
của hầu hết các loại hình doanh nghiệp, trừ doanh nghiệp tư nhân vốn gắn liền
với một cá nhân kinh doanh.
Ba là, Công ty TNHH hai thành viên trở lên có tính hợp pháp. Tại
phần lớn các quốc gia trên thế giới, doanh nghiệp muốn được thừa nhận là
một pháp nhân, tham gia hoạt động kinh doanh và chịu trách nhiệm bằng tài
sản của mình thì phải đăng ký một cách hợp pháp. Pháp luật nhiều nơi quy
10
định về trình tự, thủ tục đăng ký hoặc công nhận một tổ chức là doanh nghiệp.
Việc đăng ký doanh nghiệp thực hiện thông qua thủ tục “hai chiều”, tức là
chủ sở hữu khi muốn thành lập doanh nghiệp phải nộp hồ sơ xin cấp phép, và
cơ quan quản lý nhà nước, khi chấp thuận bộ hồ sơ ấy thì ban hành giấy phép
thành lập doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp được “cấp phép”, nó đương
nhiên được thừa nhận ra đời, được pháp luật bảo hộ và phải chịu sự ràng buộc
bởi các quy định pháp lý có liên quan. Có thể nói, giấy phép hay chấp thuận
của cơ quan nhà nước về việc thành lập doanh nghiệp chính là giấy khai sinh
của doanh nghiệp vậy.
Tính hợp pháp không chỉ thể hiện ở việc doanh nghiệp cũng như công ty
TNHH hai thành viên trở lên xin phép đăng ký và được cấp phép thành lập và
hoạt động, để nhà nước ghi nhận sự hình thành hay tồn tại của Công ty, mà
còn thể hiện ở việc, khi tham gia vào các quan hệ xã hội, công ty TNHH hai
thành viên cũng là một thực thể độc lập và phải chịu trách nhiệm cho các hoạt
động của mình, bằng tài sản riêng của mình. Điều này đòi hỏi công ty TNHH
hai thành viên phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ tài chính trong việc thanh
toán những khoản công nợ khi phá sản hay giải thể. Do vậy, Công ty TNHH
hai thành viên trở lên có tư cách pháp nhân kể từ thời điểm được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Ngoài những đặc điểm chung của doanh nghiệp, Công ty TNHH có
những đặc điểm riêng có như sau:
Thứ nhất, về số lượng thành viên: Công ty phải có ít nhất hai thành
viên và có tối đa không qúa 50 thành viên. Thành viên công ty có thể là cá
nhân hoặc tổ chức. Trong thực tế, các thành viên công ty TNHH thường có
mối liên hệ mật thiết với nhau về nhân thân. Nếu vượt quá 50 thành viên thì
công ty phải chuyển đổi thành mô hình công ty cổ phần. Để giải thích việc
giới hạn thành viên này chưa có một cơ sở pháp lý nào khẳng định điều này,
luật quy định và chúng ta là người thực hiện theo pháp luật. Theo quan điểm
11
mỗi người có một cách lý giải khác nhau, không thống nhất, có thể là để phù
hợp với quy mô của công ty cũng như những tính chất của công ty khác so
với công ty cổ phần.
Thứ hai, về cấu trúc vốn: Sự khác biệt cơ bản giữa công ty TNHH hai
thành viên trở lên và công ty cổ phần thể hiện ở đặc điểm về cấu trúc vốn.
Theo pháp luật hiện nay, công ty TNHH hai thành viên trở lên có đặt điểm về
vốn đó là vốn có cấu trúc vốn “đóng”. Vốn điều lệ của công ty không nhất
thiết phải chia thành những phần có giá trị bằng nhau và không được thể hiện
dưới hình thức cổ phần. Việc chuyển nhượng vốn của thành viên cho người
không phải là thành viên công ty bị hạn chế bởi quyền ưu tiên nhận chuyển
nhượng của các thành viên còn lại trong Công ty (Điều 52, 53, 54 – Luật
Doanh nghiệp 2014).
Thứ ba, về huy động vốn: Công ty TNHH hai thành viên trở lên không
được quyền phát hành cổ phần. Khi cần huy động vốn, công ty TNHH hai
thành viên trở lên có thể huy động bằng các cách sau:
+ Huy động bằng cách tăng vốn điều lệ: Tăng vốn góp của thành viên;
tiếp nhận vốn góp của thành viên mới.Trường hợp tăng vốn góp của thành
viên thì vốn góp thêm được phân chia cho các thành viên theo tỷ lệ tương ứng
với phần vốn góp của họ trong vốn điều lệ công ty. Như vậy, công ty TNHH
hai thành viên trở lên đầu tiên phải bắt đầu từ việc góp vốn của chính thành
viên công ty, việc lựa chọn sự góp vốn của bên ngoài chỉ là một sự lựa chọn
thứ yếu.
+ Huy động bằng cách phát hành trái phiếu: Theo luật hiện nay, công ty
TNHH hai thành viên trở lên không thể phát hành cổ phiếu nhưng để huy
động vốn, công ty TNHH hai thành viên có thể phát hành trái phiếu của chính
doanh nghiệp mình. Trong đó trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của
công ty mà họ có nghĩa vụ phải trả cho cá nhân/tổ chức hữu trái phiếu đối với
một số tiền được ghi trên mệnh giá của trái phiếu, trong một thời gian cụ thể
12
và với một lợi tức đã được ghi rõ trên trái phiếu. Ngoài ra, công ty TNHH hai
thành viên trở lên có thể tăng vốn bằng các vay từ các tổ chức, cá nhân. Cá
nhân có thể là các thành viên tham gia góp vốn, cá nhân bên ngoài.. hoặc các
tổ chức là ngân hàng, tổ chức tính dụng, các công ty khác...
+ Huy động bằng các cách thức khác: Ngoài những hình thức huy động
vốn kể trên, trong thực tiễn kinh doanh hiện đại, công ty TNHH hai thành
viên cũng có thể lựa chọn các phương thức khác như: Quỹ đầu tư, cá nhân, tổ
chức; cho thuê tài chính,...
Thứ tư, về chế độ chịu trách nhiệm: Các thành viên của Công ty chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong
phạm vi số vốn đã cam kết góp vào công ty (TNHH). Công ty chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi tài sản của công ty. Đối với
chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn thì các thành viên góp vốn, chủ đầu tư vẫn
có quyền đóng góp ý kiến trong quá trình quản lý công ty. Bên cạnh đó, khi
Công ty TNHH hai thành viên trở lên làm ăn phát đạt họ sẽ được chia lợi
nhuận trong phạm vi góp vốn. Và khi thua lỗ thì trách nhiệm cũng được giới
hạn trong phạm vi này.
1.2.Khái quát chung về góp vốn thành lập Công ty TNHH hai thành viên
trở lên
1.2.1. Khái niệm về góp vốn thành lập Công ty TNHH hai thành viên trở lên
Theo quan điểm của K.Marx, vốn là tư bản, mà tư bản được hiểu là giá
trị mang lại giá trị thặng dư.
Như vậy, hiểu một cách thông thường, vốn là toàn bộ giá trị vật chất
được doanh nghiệp đầu tư để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn
có thể là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra và tích luỹ được qua thời
gian sản xuất kinh doanh cũng có thể là những của cải mà thiên nhiên ban cho
như đất đai, khoáng sản…
13
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các ngành nghề mới liên
tục ra đời, quan niệm về vốn cũng ngày càng được mở rộng. Bên cạnh vốn
hữu hình, dễ dàng được nhận biết, còn tồn tại và được thừa nhận là vốn vô
hình như: các sáng chế phát minh, nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công
nghiệp, vị trí đặt trụ sở của doanh nghiệp…Theo cách hiểu rộng hơn, người
lao động cũng được rất nhiều doanh nghiệp coi là một trong những nguồn vốn
quan trọng.
Có thể thấy, vốn tồn tại trong mọi giai đoạn sản xuất kinh doanh, từ dự
trữ; sản xuất đến lưu thông; doanh nghiệp cần vốn để đầu tư xây dựng cơ bản;
cần vốn để duy trì sản xuất và để đầu tư nâng cao năng lực sản xuất… Quyết
định tài trợ, do đó, là một trong 3 nhóm quyết định quan trọng của tài chính
doanh nghiệp và có ảnh hưởng sâu sắc tời mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp – tối đa hoá giá trị doanh nghiệp.
Góp vốn là việc thành viên thanm gia thành lập công ty chuyển tài sản
thuộc sở hữu của mình vào công ty và trở thành chủ sở hữu hoặc các đồng sở
hữu công ty. Trên thực tế, việc góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp khác
nhau, sẽ tạo nên qui chế pháp lí khác nhau đối với người góp vốn. Với vai trò
là đạo luật ghi nhận các mô hình kinh doanh, việc tạo lập nên sự phong phú
của các mô hình là một điều cần thiết cho các lựa chọn khởi nghiệp.
Nếu nhìn nhận từ góc độ của truyền thống luật Châu âu lục địa, người ta
thừa nhận rằng công ty TNHH là loại hình doanh nghiệp kết hợp sự “ưu việt”
của mô hình công ty đối nhân và công ty đối vốn. Kết quả của sự kết hợp này
là, công ty TNHH mang trong mình bản chất của một công ty “đóng” như
việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên cho người không phải là
thành viên của công bị hạn chế, việc phát hành cổ phần bị cấm đoán... Tóm
lại, có thể nói mô hình công ty TNHH là mô hình dành cho việc kinh doanh
có qui mô vừa và nhỏ. Xuất phát từ đó, vốn điều lệ của công ty TNHH được
đặc trưng bởi:
14
Thứ nhất: vốn điều lệ được xác định bởi con số mà các thành viên công
ty góp hoặc cam kết góp vốn. Trong so sánh với công ty cổ phần, vốn điều lệ
của công ty TNHH là con số “thực”. Nói cách khác với hành vi góp vốn, số
vốn do các thành viên góp trở thành vốn của công ty và được ghi nhận vào
điều lệ của công ty. Sự khác biệt giữa việc thực góp và cam kết góp chỉ là yếu
tố thời gian. Việc hoàn thành hành vi góp vốn theo cam kết góp vốn được
thực hiện tại một thời điểm trong tương lai.
Thứ hai: theo phân tích trên, mặc dù công ty TNHH có vốn là một con
số xác định và người ta có thể xác định được dễ dàng phần vốn góp của mỗi
thành viên công ty là bao nhiêu nhưng luật cũng cho phép tình trạng “nợ” vốn
trong công ty TNHH.
Tóm lại, trong công ty TNHH người ta phải xác định một cách rõ ràng số
vốn mà công ty có để làm cơ sở xác định trách nhiệm của công ty với bên thứ
ba. Nhưng cũng xuất phát từ bản chất là một công ty “đóng” nên việc lựa
chọn thời điểm hoàn thành việc góp vốn thuộc quyền định đoạt của các thành
viên
Để hình thành một công ty, việc góp vốn của các chủ thể là nội dung
quan trọng có tính chất quyết định trong các văn đề thủ tục thành lập công ty.
Việc góp vốn nhằm tạo ra cơ sở đầu tiên cho bất kỳ một hoạt động sản xuất
kinh doanh nào, khi có vốn doanh nghiệp mới có thể thuận lợi hơn để tiến
hành các hoạt động sản xuất kinh doanh và còn là điều kiện cần để doanh
nghiệp tiến hành thực sự các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc góp vốn
này là nguồn gốc của mọi quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các thành viên
trong công ty sau này. Có thể nói, trong các quy định về thủ tục thành lập
doanh nghiệp thì các quy định về vốn, góp vốn là quan trọng nhất, thậm chí
có ý nghĩa quyết định. Góp vốn có thể nói là “linh hồn” của một hợp đồng
thành lập công ty.
15
Góp vốn là một trong những vẫn đề quan trọng thành lập công ty trách
nhiệm hữu hạn, nó là khởi đầu của công việc kinh doanh, là một trong các yếu
tố tiền đề, cơ sở duy trì sự hoạt động cũng như thành công của một công ty, là
cơ sở để phân chia lợi nhuận của các thành viên tham gia cũng như sự chuyển
nhượng, kế thừa vốn góp và quyền đưa ra các quyết định quan trọng của công
ty. Đối với bên ngoài công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, vốn
nhiều hay ít là một trong các yếu tố tạo uy tín của công ty trên thương trường,
niềm tin của khách hàng đối với công ty và khả năng trả nợ của công ty đối
với chủ nợ.
Như vậy, khái niệm về góp vốn thành lập công ty TNHH hai thành viên
trở lên là: việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty TNHH hai
thành viên trở lên.
1.2.2. Phân biệt các loại vốn góp thành lập công ty TNHH hai thành viên
trở lên
Vốn là toàn bộ giá trị vật chất được doanh nghiệp đầu tư để tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn góp là thể hiện việc góp vốn vào công ty,
số lần góp vốn đó có thể một lần hoặc nhiều lần miễn sao là trong thời hạn
pháp luật cho phép và đúng như cam kết góp vốn vào công ty và chính là góp
vốn điều lệ.
- Vốn điều lệ trong công ty TNHH hai thành viên
Vốn điều lệ trong công ty TNHH hai thành viên hai trở lên được hiểu là
tổng số vốn do các thành viên góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất
định và được ghi vào điều lệ công ty.
Khi công ty TNHH hai thành viên hai trở lên đăng ký kinh doanh, pháp
luật không quy định vốn điều lệ tối thiểu là bao nhiêu, hoặc mức vốn điều lệ
công ty tối đa là bao nhiêu, trừ công ty TNHH hai thành viên hai trở lên kinh
doanh những ngành nghề bắt buộc phải có vốn pháp định tối thiểu.
16
- Xem thêm -