Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khía cạnh lý luận và pháp luật hìn...

Tài liệu Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khía cạnh lý luận và pháp luật hình sự việt nam

.PDF
86
298
103

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH YẾN HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI: KHÍA CẠNH LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ MINH YẾN HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI: KHÍA CẠNH LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các nội dung và trích dẫn trong luận văn này là trung thực và chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn không trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Minh Yến MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ........................................................................................ 7 1.1. Khái niệm, bản chất, nội dung, mục đích của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ........................................................................................................... 7 1.2. Cơ sở của việc xây dựng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..... 18 1.3. Các yếu tố bảo đảm đạt được mục đích của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......................................................................................................... 25 Chương 2: PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI....................................................................... 37 2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành ...................... 37 2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......................................................................................................... 42 2.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......................................................................................................... 44 2.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......................................................................................................... 51 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG ................................................................................... 68 3.1. Các xu hướng hoàn thiện các quy định về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ......................................................................................................... 68 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng ............................................................ 73 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CSHS Chính sách hình sự HĐXX Hội đồng xét xử TANDTC Tòa án nhân dân tối cao TNHS Trách nhiệm hình sự VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quan điểm và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, trong đó trẻ em, cụ thể là người dưới 18 tuổi được ví như măng non, là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước phải được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục nhằm giúp họ phát triển lành mạnh cả về mặt thể chất lẫn tinh thần một cách tốt nhất. Luật trẻ em năm 2016 đã ghi nhận tại Điều 5 như sau: “...Không phân biệt đối xử với trẻ em. Bảo đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em trong các quyết định liên quan đến trẻ em. Tôn trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em...”. Về đường lối chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta luôn coi trẻ em, người dưới 18 tuổi là đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc và phải được quan tâm một cách đặc biệt. Mục tiêu quan trọng của nước ta là xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, và vì dân, vì vậy, mục đích của hình phạt mà Nhà nước hướng tới không chỉ nhằm mục đích trừng trị, mà còn nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội, từ đó giúp họ nhận ra sai lầm và tạo cho họ cơ hội để sửa chữa sai lầm, sớm tái hòa nhập với cộng đồng. BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định rất rõ TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và coi họ là đối tượng đặc biệt được pháp luật bảo vệ dưới cả hai góc độ là khi họ là chủ thể của tội phạmvà cả khi họ là người bị hại. Hình phạt nói chung, đặc biệt là hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một vấn đề cơ bản, phức tạp mang tính thời sự bởi tính chất nhân đạo và bởi người dưới 18 tuổi phạm tội cũng chính là đối tượng đặc biệt cần có sự thận trọng và phải được xem xét thấu đáo mọi khía cạnh khi áp dụng hình phạt vì người dưới 18 tuổi là chủ thể đạc biệt cần được pháp luật bảo vệ dưới cả hai góc độ là người phạm tội thì cần phải được giáo dục, răn đe và vừa là đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc và quan tâm đặc biệt. Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp thực sự cần thiết và hạn chế việc áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 1 Để việc đấu tranh phòng chống tội phạm đối với người dưới 18 tuổi có hiệu quả, thì ngoài việc phải tìm ra những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh hành vi phạm tội, từ đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa tội phạm là người dưới 18 tuổi thì việc nghiên cứu về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng không kém phần quan trọng, giúp đạt được hiệu quả cao nhất về mục đích của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị, mà còn nhằm mục đích giáo dục người phạm tội, giúp họ nhận ra sai lầm và tạo cho họ cơ hội để sửa chữa, sớm tái hòa nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu đó đưa ra những giải pháp bảo đảm hiệu quả của hình phạt, góp phần hoàn thiện chính sách hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì những lý do đã nêu ở trên, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: Khía cạnh lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam” cho luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một trong những vấn đề cơ bản quan trọng và phức tạp của luật hình sự Việt Nam đòi hỏi cần được nghiên cứu, làm rõ. Thời gian qua, ở các mức độ khác nhau có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; Nguyễn Thị Thu Huyền (2012) Hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Trịnh Thị Yến, Quyết định hình phạt đối với người chứ thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2014… Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu của các tác giả đăng trên tạp chí chuyên ngành: “Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết định hình phạt” của Võ Khánh Vinh tạp chí Tòa án nhân dân, số 8/1990; “Quyết định hình phạt trong trường hợp 2 người chưa thành niên phạm tội” của Trần văn Dũng, Tạp chí Luật học, số 5/2000;“Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội” của Dương Tuyết Miên, Tạp chí Luật học, số 4/2002; “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội” của Đinh Văn Quế, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2007; “Những điểm mới trong Bộ luật hình sự 2015 về các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội”.Các công trình khoa học trên đã làm rõ nhiều nội dung, vấn đề liên quan đến TNHS, quyết định áp dụng hình phạt, nguyên tắc cá thể hóa quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như làm rõ khái niệm, đặc điểm người dưới 18 tuổi, cơ sở quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, các quy định của pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, một số vấn đề trong thực tiễn về người dưới 18 tuổi phạm tội cần được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên tất cả đều nghiên cứu theo BLHS1999, chưa nghiên cứu, cập nhật các quy định mới trong BLHS 2015 về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Do vậy, việc nghiên cứu về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS 2015 có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn sâu sắc trong việc áp dụng pháp luật hình sự vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm được thực hiện bởi người dưới 18 tuổi nói riêng, góp phần phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả do các tội phạm là người dưới 18 tuổi thực hiện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống và lý luận nội dung cơ bản của những quy định của pháp luật về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam, qua đó thấy được xu hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, các xu hướng hoàn thiện của các quy định về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đề xuất các giải pháp áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, góp phần tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở nước ta hiện nay. 3 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích đã nêu ở trên thì luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: - Phân tích khái niệm, bản chất, mục đích, nội dung của hình phạt; cơ sở của việc xây dựng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Biến đổi xã hội và các loại hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Các yếu tố bảo đảm hiệu quả của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Khái quát quá trình quy định và hoàn thiện pháp luật về hình phạt và các quy định về những vấn đề liên quan đến hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Việt Nam, tập trung làm rõ và đánh giá các quy định của Bộ luật hình sự 2015 về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. - Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội - Nghiên cứu đưa ra các giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: (khái niệm, bản chất, mục đích, nội dung của hình phạt; cơ sở của việc xây dựng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Các loại hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Các yếu tố bảo đảm hiệu quả của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội) Nghiên cứu, đánh giá về các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, quy định của BLHS 2015 về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nghiên cứu xu hướng phát 4 triển của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và từ đó đưa ra các giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu Cơ sở phương pháp của việc nghiên cứu là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, về hình phạt và giáo dục, cải tạo con người; các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước về pháp luật hình sự nói chung, hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: Phương pháp hệ thống lịch sử, phân tích, tổng hợp và thống kê, phương pháp so sánh để nhằm đạt được mục đích nghiên cứu. cụ thể như sau: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh để làm rõ các vấn đề lý luận, làm rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đánh giá những thành tựu, những hạn chế của các quy định, và làm rõ những thành tựu đã đạt được và những hạn chế để khắc phục từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống lý luận về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn vì vậy góp phần phát triển lý luận về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 5 6.2 Ý nghĩa thực tiễn Luận văn nghiên cứu thực tiễn quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhận diện xu hướng phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các giải pháp bảo đảm hiệu quả của hình phạt, vì vậy cũng qua nghiên cứu góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đồng thời là tài liệu tham khảo nghiên cứu để áp dụng trong thực tiễn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận của luận văn và danh mục các tài liệu tham khảo, thì nội dung của luận văn bao gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI 1.1. Khái niệm, bản chất, nội dung, mục đích của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội 1.1.1. Khái niệm hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Khái niệm về hình phạt được nhiều nhà nghiên cứu khoa học định nghĩa khác nhau nhưng nhìn chung thì các định nghĩa về hình phạt về cơ bản là thống nhất, mặc dù cách diễn đạt có sự khác nhau nhất định: Chẳng hạn theo tác giả Lê Văn cảm, trong bài viết về “Hình phạt và biện pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam”, tạp chí Dân chủ và pháp luật (số 8 năm 2000) thì “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự”[5, tr. 10]. Tác giả Nguyễn Ngọc Hòa trong quyển “Trách nhiệm hình sự và hình phạt” cho rằng “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được quy định trong Bộ luật hình sự, do Tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm, nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân” [10, tr. 29]. Trong khi đó hình phạt được quy định trong BLHS 2015 như sau:“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó”[21, tr. 26] Điều 12 BLHS 2015 quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác” 7 “2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 150, 151, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 285, 286, 287, 289, 290, 299, 303, và 304”. Điều 90 BLHS 2015 quy định việc áp dụng Bộ luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cụ thể như sau: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của chương này; theo quy định khác của phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của chương này”[21, tr.63]. Khác với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 không sử dụng cụm từ “người chưa thành niên phạm tội” mà sử dụng cụm từ “người dưới 18 tuổi phạm tội” để quy định về người phạm tội là người dưới 18 tuổi. Ngoài ra, BLHS 2015 đã đưa ra khái niệm về tội phạm như sau:“1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”[21, tr. 13]. Về chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực TNHS và phải đủ tuổi chịu TNHS, tức là phải có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, khả năng nhận thức phụ thuộc vào độ tuổi và trạng thái thần kinh. Mà khả năng điều khiển hành vi của con người lại được quyết định bởi khả năng nhận thức. Như vậy, từ các quy định và các khái niệm trên có thể hiểu rằng “Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là biện pháp cưỡng chế có tính nhân đạo, do Bộ luật hình sự quy định và Tòa án áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo một trình tự, thủ tục luật định nhằm mục đích cải tạo, giáo dục họ trở thành người lương thiện.” 8 1.1.2. Bản chất (pháp lý, xã hội) của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Là hệ thống hình phạt được quy định tại Điều 98 BLHS 2015, do đó hình phạt mang đầy đủ các nội dung cơ bản đó là: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, và được Nhà nước sử dụng như một công cụ sắc bén trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của mình, của xã hội và những lợi ích hợp pháp của công dân”. Hình phạt là một trong những công cụ sắc bén của giai cấp thống trị dùng để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Trong chủ nghĩa xã hội, hình phạt vẫn mang tính giai cấp, nhưng tính giai cấp của nó thể hiện ở chỗ hình phạt được áp dụng để bảo vệ thành quả và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động. Hình phạt ở nước ta được quy định và áp dụng để “bảo vệ chế độ kinh tế, bảo vệ chế độ chính trị, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm”[20, tr. 5]. Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi cũng thể hiện bản chất giai cấp là bảo vệ chế độ kinh tế, bảo vệ chế độ chính trị, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, và bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người có ý thức tuân thủ theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Ngoài ra, còn thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với họ, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. phải bảo đảm lợi ích tốt nhất và chủ yếu nhằm mục đích giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội. 1.1.3. Nội dung của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội Hiện nay trong khoa học luật hình sự cũng như trong pháp luật hình sự thực định, nội dung của hình phạt nói chung và hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Thậm chí còn có sự nhầm lẫn giữa nội dung của hình phạt với mục đích của hình phạt. Xuất phát từ khái niệm 9 và bản chất cũng như mục đích của hình phạt, chúng tôi cho rằng nội dung của hình phạt thể hiện ở tính trừng trị người phạm tội và tính cải tạo giáo dục người phạm tội của nó. Tính trừng trị của hình phạt thể hiện ở việc “ hình phạt tước bỏ hoặc hạn chế ở những người phạm tội (đã bị kết án) những quyền và lợi ích nhất định” và giáo dục cải tạo họ trở thành người lương thiện. Nội dung trừng trị chỉ cần ở mức cần và đủ, vì vậy mà đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, việc truy cứu TNHS không đồng nhất với việc buộc họ phải chịu hình phạt, mà bên cạnh đó còn có thể áp dụng các biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa. Trong trường hợp cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì Tòa án chỉ được áp dụng một trong các hình phạt quy định tại Điều 98 BLHS 2015. Nội dung của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi thể hiện ở tính trừng trị và tính cải tạo, giáo dục của các hình phạt mà theo quy định của pháp luật hình sự, được áp dụng đối với họ. Trong số đó có: - Hình phạt cảnh cáo Nội dung của hình phạt này thể hiện ở sự khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong các hình phạt chính được quy định trong BLHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội vì nó không tước bỏ hoặc không hạn chế bất cứ một quyền lợi vật chất nào của người bị kết án mà chỉ lên án về tinh thần đối với họ. Nội dung của cảnh cáo chỉ thể hiện ở việc Tòa án tuyên bản án có tội đối với người bị kết án và Tòa án sẽ nhân danh Nhà nước lên án người bị kết án về việc họ đã thực hiện tội phạm. Hậu quả pháp lý duy nhất mà hình phạt cảnh cáo mang lại cho người bị kết án là họ phải chịu án tích về việc đã thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, hình phạt này cũng gây ra cho người bị kết án những tổn thất nhất định về mặt tinh thần, kể cả việc họ phải mang án tích. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì chỉ có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, vì hình phạt này chỉ áp dụng đối với những tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, còn đối với tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì không áp dụng hình phạt này. 10 Ngoài điều kiện tuổi và loại tội phạm đã thực hiện để áp dụng hình phạt cảnh cáo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, còn phải bảo đảm những điều kiện cần và đủ gồm: Thứ nhất, người phạm tội “có nhiều tình tiết giảm nhẹ” trách nhiệm hình sự, về các tình tiết giảm nhẹ được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015. Thứ hai, tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện chưa đến mức được miễn áp dụng hình phạt. Hình phạt tiền. Phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, phạt tiền tước đi quyền lợi vật chất của người phạm tội nhằm mục đích cải tạo và giáo dục họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Hình phạt này có tính cưỡng chế cao hơn hình phạt cảnh cáo, nó tước bỏ một phần lợi ích vật chất của người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm giáo dục họ có ý thức tuân theo pháp luật tôn trọng các quy tắc trật tự công cộng, tôn trọng trật tự quản lý xã hội. Ngoài việc tác động vào ý thức và danh dự của người phạm tội, hình phạt này còn tước bỏ một phần lợi ích vật chất thuộc sở hữu của người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì là tước đi quyền lợi vật chất của người phạm tội nên người phạm tội dưới 18 tuổi được áp dụng hình phạt tiền là người có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Đây là biểu hiện của nguyên tắc trách nhiệm cá nhân Như vậy, hình phạt tiền được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi họ thỏa mãn các điều kiện sau: Thứ nhất, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội thì người phạm tội phải ở độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Quy định này nhằm đảm bảo cho tính khả thi khi áp dụng hình phạt tiền, và hình phạt tiền không áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Bởi vì, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chưa có khả năng độc lập về kinh tế, còn phụ thuộc vào gia đình, chưa có nghề nghiệp ổn định và còn đang trong độ tuổi đi học nên không thể áp dụng hình phạt tiền đối với độ tuổi này. Thứ hai, người phạm tội phải có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Tài sản riêng ở đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của riêng người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, 11 có thể đó là tài sản được tặng cho, được thừa kế hay do bản thân tự tạo nên, tự tích lũy. Có thu nhập được hiểu là thu nhập hợp pháp trên thực tế từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc từ hợp đồng lao động của người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội. Các trường hợp mà người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng hình phạt tiền bao gồm các trường hợp cụ thể như: Trường hợp thứ nhất, tội phạm mà người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng mà điều luật áp dụng với họ có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính. Trường hợp thứ hai, người dưới 18 tuổi, cụ thể là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm mà tội phạm ấy rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự, an toàn công cộng và một số tội phạm khác được quy định trong BLHS mà điều luật áp dụng quy định hình phạt đối với họ là phạt tiền. Trường hợp thứ ba, theo khoản 2 Điều 54 BLHS 2015 quy định:“Khi tòa án quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nhưng không bắt buộc phải trong khung liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội là người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”[20, tr. 37] Trường hợp thứ tư, Trong trường hợp có đủ các điều kiện đã nêu tại trường hợp thứ ba nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang hình phạt tiền “Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định”[21, tr. 70] trong từng trường hợp cụ thể việc áp dụng mức phạt nào là do Tòa án tùy nghi áp dụng trên cơ sở căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm đã thực hiện, tình hình tài sản của người phạm tội và sự biến động giá cả nhưng người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ phải chịu áp dụng mức tiền phạt cao nhất là bằng một phần hai 12 mức tiền của người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. Người từ đủ 16 tuổi đến dướ 18 tuổi có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần và được ghi nhận cụ thể trong bản án. Quy định trên về mức tiền phạt vừa phù hợp với thực tiễn, vừa thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Khác với biện pháp xử phạt hành chính, hình phạt tiền được quy định trong BLHS chỉ do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội. Và người bị áp dụng hình phạt tiền phải mang án tích trong một thời gian theo luật định. - Hình phạt cải tạo không giam giữ Người bị áp dụng hình phạt này không bị cách ly ra khỏi xã hội nhưng hình phạt này là hình phạt chính được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi họ phạm tội. Đây là loại hình phạt không tước tự do của người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng là hình phạt nghiêm khắc hơn so với hình phạt cảnh cáo và hình phạt tiền. Bởi ngoài việc tác động đến ý thức và danh dự của người phạm tội thì hình phạt cải tạo không giam giữ còn hạn chế một phần tự do cá nhân của người phạm tội, buộc họ phải tuân thủ theo một chế độ quản lý, giám sát của gia đình, tổ chức xã hội, nhà trường. Về mặt lý luận và lập pháp thì hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được coi là hình phạt có vị trí rất quan trọng thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được áp dụng khi có các điều kiện cần và đủ sau: “Người từ đủ16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý” có thể bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ [20, tr. 70]. Người phạm tội đã phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý mà tại thời điểm phạm tội người đó thuộc độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì người phạm tội đó có thể bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Tuy nhiên, trong trường hợp Tòa án quyết định chuyển sang loại hình phạt khác nhẹ hơn từ hình phạt tù có thời hạn thì người dưới 18 tuổi phạm tội cũng có thể được áp dụng hình phạt này. Tất nhiên “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ 13 theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này” thì Tòa án quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nhưng không bắt buộc phải trong khung liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội là người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể và chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự Trường hợp có đủ các điều kiện quy định trên nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt được quy định đối với tội mà người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trong do cố ý là hình phạt cải tạo không giam giữ. Và lý do của việc giảm nhẹ này phải được thể hiện rõ trong bản án. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án nếu là người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội thì phải thực hiện một số nghĩa vụ đã được quy định trong BLHS về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Nhưng vì người dưới 18 tuổi phạm tội là đối tượng đặc biệt được Pháp luật bảo vệ nên khi thi hành phạt cải tạo không giam giữ, họ có nghĩa vụ tuân theo các quy định về hình phạt này nhưng không bị khấu trừ thu nhập. Nhằm nhanh chóng đưa người phạm tội dưới 18 tuổi trở thành người lương thiện, thời hạn cải tạo đối với họ cũng ít hơn so với người lớn. Cụ thể là “Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định”[21, tr. 70] Như vậy, thời hạn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cao nhất là từ 06 tháng đến không quá 18 tháng. Trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội bị kết án trong quá trình tố tụng đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời hạn tạm giữ, tạm giam bị trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, theo nguyên tắc 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ. - Hình phạt tù có thời hạn: 14 Hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt có lịch sử lâu đời và được quy định và áp dụng phổ biến ở hầu hết trong pháp luật hình sự của các nước trên thế giới, hình phạt này mang lại hiệu quả cao trong việc trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội. Người bị áp dụng hình phạt tù phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Đây là hình phạt nghiêm khắc nhất trong số các hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, vì nó có nội dung tước đi tự do của người bị kết án và buộc người bị kết án phải cách ly ra khỏi xã hội trong một thời gian do mà tòa án đã áp dụng đối với người bị kết án, đồng thời người bị kết án hình phạt tù có thời hạn phải thực hiện chế độ lao động, học tập theo những quy định nghiêm ngặt tại nơi giam giữ. Tuy nhiên, so với người từ đủ 18 tuổi trở lên, người phạm tội dưới 18 tuổi được áp dụng hình phạt tù ở mức thấp hơn, cụ thể là: “1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”. “2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”[21, tr. 75]. Người dưới 18 tuổi phạm tội do đặc điểm tâm sinh lý và chính sách nhân đạo, khoan hồng đặc biệt nên không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cho dù tội phạm mà họ thực hiện là rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Mặt khác, “Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ không tác dụng răn đe, phòng ngừa”[20, tr. 65] và tùy vào tính chất, mức độ hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan